Xem mẫu
- Tranh Papunya “Bên ngoài sa
mạc”
- Lần đầu tiên, những bức tranh Papunya Tula của thời kì đầu- những năm 70 đến
đầu những năm 80, thập kỉ đóng vai trò quyết định đối với trào lưu nghệ thuật
Tây sa mạc được tập hợp và trưng bày cho công chúng.
Nếu như tranh Papunya với chấm đốt đồng nhất với biểu tượng của nước
Úc, phong cách Papunya mang tính ‘quốc gia’ thì lại rất ít người biết đến lịch sử
và văn hóa nằm bên dưới sự phát triển của trường phái nghệ thuật này.
Triển lãm Tranh Papunya “Bên ngoài sa mạc” cho chúng ta lần lại về nguồn gốc
của phong trào nghệ thuật Papunya qua bộ sưu tập độc nhất vô nhị của Bảo tàng
Quốc gia Úc.
Papunya là gì và vì sao nó lại đóng vai trò quan trọng đến thế trong lịch sử nghệ
thuật nước Úc?
Trại định cư Papunya Tula
Papunya Tula nằm gần vùng nhiệt đới, 260 cây số về phía Tây của AliceSpring.
Đó là mảnh đất của Tjala, các vị Tổ tiên Kiến Mật. Dưới mặt đất, những đàn kiến
mật tần tảo kết dính hàng triệu hốc nhà trong bóng tối. Trong nhiều thập kỉ,
mảnh đất này cũng như nhiều vùng Lãnh thổ phía Bắc ( Northern
Territory) vẫn ở bên ngoài ảnh hưởng của những người truyền giáo và cha cố. Lẽ
ra, việc thiết lập vùng định cư phải được thực hiện chậm hơn rất nhiều so với cơn
bão nhiệt đới, nhưng trên thực tế nó đã xảy ra dữ dằn, bạo liệt như chính cơn bão
này.
Được thiết lập vào cuối năm 1959, Papunya là vùng định cư cuối cùng trong dự
định đầy tham vọng của chính phủ ở Lãnh thổ phía Bắc ( Northern Territory)
nhằm tập trung các nhóm người tản mát khắp sa mạc khác nhau về ngôn ngữ, văn
hoá và kinh nghiệm lịch sử vào một nơi. Trại định cư Papunya gồm có 5 bộ lạc
chính: Aranda, Anmatjira Aranda, Wailpri, Loritja và Pintupi. Vào đ ầu những năm
- 1960, nhiều người Pintupi đến Papunya. Những người này sống chủ yếu bằng săn
bắn, rất ít giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Bức Honey Ant Hunt 1975
Tim Leura Tjapaltjarri
Màu tổng hợp trên vải 1995 x 1710
mm
Ba ngọn đồi ở Papunya là địa
bàn của Kiến Mật Tổ tiên, chúng
chỉ ra nơi mà các vị tổ tiên này an
nghỉ sau các chuyến đi trong thời
Dreamtime. Mạng lưới dưới mặt
đất của kiến được xem như tula (nơi
tụ gặp). Trên mặt đất, bên trên
những điểm tụ gặp này, các điệu
- múa corroborees diễn lại các
chuyến hành hương của tổ tiên và
cầu các vị Kiến mật Tổ tiên phù hộ
cho con cháu được sinh ra tại đất
này. Kiến mật được xem như Tổ
tiên lý tưởng, để biểu dương sự
Tuyệt đối của các vị tổ tiên
này, Tjapaltjarri đã vẽ các đường đi
và các tula đối xứng nhau.
Hơn 1000 người Anmatjir Aranda, Wailpri, Loritja và Pintupi b ị cai quản bởi
kardiya (da trắng). Yapa, những người thợ săn quen với các hành trình không
ngưng nghỉ bị cầm tù trong tình trạng bế tắc, bị cắt đứt với nguồn năng lượng tâm
linh từ đất mẹ. Kanta, những người phụ nữ, thay bằng việc hái lượm quả, hạt, cỏ
cây, cà chua rừng, hành, mận…lại buộc phải xếp hàng nhận khẩu phần ăn, rồi ăn
trong căng-tin tập thể thay bằng ngồi bên đống lửa. Tâm hồn của họ vẫn còn thuộc
về đất mẹ tổ tiên được sinh ra từ Jurkurrpa Dreaming. Sự pha tạp lẫn lộn của các
toà nhà hành chính, các đồ hộp, kim loại, nhựa, lều trại và những con đường bẩn
thỉu làm cho cuộc sống hàng ngày của họ trở thành phi lý.
Geoffray Bardon ( 1940-2003)
Nói đến tranh Papunya trong giai đo ạn đầu thì không thể không nhắc đến Geoffrey
Bardon, người mà sự ra đời và trưởng thành của trường phái nghệ thuật này phải
chịu ơn.
Lúc đầu ông học luật, sau đó bỏ trường luật học nghệ thuật ở trường Nghệ thuật
quốc gia. Tốt nghiệp năm 1966, ông làm thầy giáo dậy vẽ và nghệ thuật ở một số
trường trung học cho đến khi niềm say mê nghệ thuật Thổ dân kéo ông về Tây sa
- mạc. Thầy giáo dạy vẽ trẻ lúc đó chỉ có một ước mơ: được sống với những người
bản xứ. Với nhiều cố gắng và quyết tâm, cuối cùng thì G. Bardon cũng được điều
đến Papunya vào năm 1971.
Ảnh của bức Trial by fire 1975
Tim Leura Tjapaltjarri
Màu tổng hợp trên vải 1694 x 3385
mm
Sau khi nhập môn, người tập sự
phải chứng tỏ khả năng đi rừng.
Người tập sự ở đây là một người
đàn ông tjapltjarri như nghệ sĩ. Thầy
dạy thử thách anh ta bằng cách đốt
một đám cháy rừng khi anh ta đang
săn. Khi lửa bùng lên thì hai cái
bóng ghê sợ nhảy ra khỏi đám khói,
tính mạng của anh ta bị đe doạ.
Người đàn ông Tjapaltjarri dùng lửa
giết chết một con chuột túi và tránh
được hiểm nghèo bằng cách đốt một
đám lửa khác ở vùng cuối gió.
- Những khoảng bị đốt được thể hiện
bằng các hoạ tiết màu tro trong bức
tranh.
Khi G.Bardon đến Papunya thì ở đó có vào khoảng 1 400 người bản địa và 70
người da trắng. Hầu hết người da trắng tỏ ra khinh miệt người bản địa, những
người có lòng thương thì cũng không gần gũi với họ. Trong khi đó Bardon hoà
nhập với họ tức thì. Ông ăn cùng họ ở căng–tin, dẫn họ đi săn, mời họ đến phòng
của mình chơi. Những người nắm quyền ở Papunya tức khắc tỏ thái độ bất bình
đối với thầy giáo trẻ mới đến. Nhưng nhiệt tình, niềm say mê và lòng thương xót
của Bardon lớn hơn tất cả những thái độ chống đối của họ. Nhìn thấy người bản
địa sống trong khốn quẫn, Bardon xót xa. Những con người này không những bị
kardiya ( da trắng) tước đoạt hết đất đai còn bị họ dẫm đạp lên nền văn hoá có một
không hai. Ngồi với họ trên nền đất đỏ, ông nhận thấy rằng họ vạch ra những ký
hiệu tượng hình. Những ký hiệu này kể chuyện tổ tiên tạo đất, tạo nước, rồi
nhập vào trong lòng đất nhưng luôn hiện hữu. Những hình vòng cung, hình tròn,
khúc uốn, kí hiệu dấu chân, đường đi mà ông nhìn thấy giống như những hình và
kí hiệu được khắc trong các hang đá hay trên các phiến đá từ hơn 30 nghìn năm
trước. Những người thổ dân giải thích rằng những hình vẽ trên cát kể lại các
chuyến hành hương của tổ tiên, đó là các bản đồ chỉ địa điểm và khoảng cách từ
nơi này đến nơi kia, nếu một người thổ dân không biết các địa điểm của Dreaming
trên sa mạc thì sẽ bị lạc. Các trang trí trên cơ thể, trên mũ và các đồ dùng để cúng
chỉ được dành cho các điệu múa linh thiêng. Không ai được thấy chúng, trừ
những người cầm đầu bộ lạc. Chúng được xoá đi khi buổi lễ kết thúc. Trước
Bardon, có nhiều nhà dân tộc học đã đến tìm hiểu thổ dân Úc, nhưng chưa ai nhìn
thấy “ nghệ thuật” trong các hình vẽ kí hiệu này khi chúng bị tách rời ra khỏi các
buổi lễ. Bardon, vốn là thầy giáo dạy vẽ và người học nghệ thuật, đã nhìn thấy ở
các hình vẽ này cái đẹp đầy sức sống của hình khối, màu sắc và không gian. Dự
- cảm về một sứ mệnh quan trọng mà mình được trao trước sự sống còn của nền văn
hoá và nghệ thuật Thổ dân vô cùng quí báu chưa được biết đến này hun đúc
nhiệt tình của người thầy giáo trẻ.
Bardon khuyến khích các học trò của mình vẽ lên tường của trường học những
hình tượng truyền thống. Người lớn thấy trẻ con vẽ thì cũng xin vẽ và họ đã hoàn
thành bức tranh tường tuyệt đẹp dài 5 mét. Bức thứ hai phong phú hơn, với các
đường nét tinh xảo hơn kể các truyền thuyết rắn, nước, chuột túi và bà góa. Hai
bức tranh tường này đánh dấu thời điểm lịch sử ra đời của phong trào nghệ thụât
Papunya. Chúng làm dấy lên niềm tự hào về văn hoá dân tộc của những người
bản xứ trong trại. Họ bỗng hiểu rằng, dù ở xa đất tổ tiên thì vẫn có thể tồn tại một
hình thức trung gian nào đó giữa cuộc sống hiện tại vô nghĩa trong trại định cư và
cuộc sống quá khứ trong quyền uy đầy mầu nhiệm trên sa mạc. Họ thấy ngay
rằng G.Bardon là người cầm chìa khoá mở cánh cửa vào thế giới mới. Các nhóm
thổ dân lũ lượt xếp hàng trước cửa lớp mà Bardon dạy vẽ để xin bút, mầu và bảng
vẽ .
Trước đây họ dùng các chất màu tự nhiên - màu trắng từ đất sét trắng hay thạch
cao, màu vàng và màu đỏ từ đất son, màu đen từ than hay kim loại xám. Các chất
màu tự nhiên này được tán nhỏ, trộn với nhau bằng một loại keo tự nhiên rồi được
quết bằng tay hay ‘bút lông’ lên các hình kh ắc trên đá hay trên gỗ. Những ‘bút
lông’ này được tạo thành từ các cành con, sợi vỏ cây hay tóc người, tu ỳ ở diện tích
cần bôi màu. Thường thì các hình vẽ được khắc trên những viên đá nhỏ rồi màu
được xát lên bằng tay. Màu cũng có thể được bắn lên tường đá hay thổi qua các
khe hở của khuôn trổ lên đá.
Các nghệ sĩ đã nhanh chóng thích nghi với với các vật liệu xa lạ từ châu Âu như
acrylic, bút lông, ván hình ch ữ nhật và được khuyến khích sử dụng ngôn ngữ hình
họa của riêng họ.
- Bardon muốn những người lớn tuổi vẽ lại những hình nguyên mẫu truyền thống,
không dính dáng gì với ảnh hưởng châu Âu. “ Đừng lấy những hình ảnh của người
da trắng. Đừng bắt chước màu của người da trắng, không bắt chước phối cảnh của
người da trắng… Hãy vẽ lại trung thành những biểu tượng được tạo ra cho các
buổi lễ lên các tấm ván mỏng và toan vải…” Bardon đã tạo ra không khí tin
tưởng lẫn nhau thu hút nhiều người thổ dân lớn tuổi đến vẽ. Điều đó đã khôi phục
lại và làm trào dâng niềm tự hào dân tộc trong trại tập trung.
Dreamtime và Dreaming
Các nghệ sĩ vẽ lên các tấm ván và toan vải những hình tượng kể các câu chuyện
của Dreamtime, thời mà tổ tiên của họ tạo đất, tạo nước, tạo ra muôn loài và lệ
luật. Bardon đã được họ chia sẻ ý nghĩa của các hình tượng, cảm nhận được sự vĩ
đại của sa mạc trong bí mật của nó, và ghi chép lại những ý nghĩa có giá trị giải
mã, chiếc chìa khoá để hiểu được đời sống tâm linh, tín ngưỡng và luật lệ của thổ
dân Úc.
Những dòng viết dưới đây của G.Bardon cho chúng ta hiểu rõ ràng hơn khái niệm
Dreamtime và Dreaming mà nếu không hiểu được chúng thì chúng ta sẽ không
bao giờ hiểu được Thế nào là Thổ dân Úc.
“ Đối với thổ dân Úc, Dreamtime là nguồn gốc của sự hiểu biết, là xuất phát điểm
của các lề luật của sự sống. Đó cũng là Kỉ Sáng tạo, khi các vị tổ tiên được sinh ra
từ Vĩnh hằng.
Trái đất là một mặt phẳng chìm trong bóng tối: một thế giới lặng như tờ, chết
chóc. Sự sống dưới dạng nào đó ngủ im lìm bên dưới bề mặt của trái đất. Rồi các
vị tổ tiên bước ra từ lòng đất với một sức mạnh phi thường. Mặt trời trồi lên từ mặt
đất. Lần đầu tiên mặt đất được nhận ánh sáng. Các vị tổ tiên vật tổ có dạng nửa
người nửa thú, hay nửa người nửa cây. Trong suốt quá trình tạo hoá, họ hành
động, ứng xử như người, với những ưu điểm và nhược điểm của người. Họ dũng
- cảm, trung thực, yêu, ghét, giận dữ…Ví dụ như thần dingo thì hảo tâm và hào
phóng nhưng lại rất ghét thần wallaby. Thần đại bàng thì nguy hiểm, thần tắc kè
thì lại cực kì hung hãn…
Các vị thần đi dọc ngang trên mặt đất, họ săn bắt, chống trả lại nhau nên làm cho
hình dạng của đất thay đổi. Trên đường đi họ tạo nên núi, sông, cây, hồ, đồng
bằng và đồi cát…; tạo các yếu tố tự nhiên như nước, khí, lửa…; các dạng của sự
sống như cây, chim, muông thú, kiến, châu chấu, emu, chuột túi…người, đó
là con cháu trực tiếp của các vị tổ tiên của Dreamtime.
Khi đã hoàn thành việc tạo nên các ngôi sao trên trời và đời sống cần lao dưới đất,
cùng những luật lệ mà đàn ông, đàn bà phải biết và tuân theo thì các vị thần tổ tiên
lặn vào lòng đất, trở lại trạng thái ngủ im lìm. Đôi khi các vị thần nhập vào một
tảng đá, một cái cây hay một hồ nước…Những nơi này trở thành chốn thiêng.
Những chiến binh trước khi ra trận đánh đến đó vẽ lên người để được bảo vệ,
những người đàn bà sắp sinh đến trú ngụ để cầu an…Hình dạng của phong cảnh
và vòng tuần hoàn tự nhiên là biểu hiện của Sáng tạo, và là gốc gác cơ bản của đời
sống tâm linh Thổ dân.
Các điệu múa Corroboree kể về tính cách và các cuộc phưu lưu của các vị tổ tiên,
những phẩm chất con người của các vị này thông qua đó được truyền vào vật tổ.
Tất cả các hoạt động của thế giới này- nghi lễ, nghĩa vụ …phải được các vị tổ tiên
sắp đặt, giao phó, những vị này không bao giờ thay đổi và có một lối sống bất
biến. Hiểu biết về những sự kiện tối cao này là nắm quyền lực và sự bí mật của xã
hội Thổ dân.
- Ảnh bức: Dreaming Story at
Warlugulong (Warlukurlangu)
1976
Clifford Possum
Màu tổng hợp trên vải. 710x555
Warlukurlangu là một vùng nằm ở
phía Tây Yuendumu nơi mà lửa
bùng lên được biểu hiện bằng những
vòng tròn đồng tâm ở chính giữa và
trung tâm của các tia lửa bắn tóe ra
như một vụ nổ tự nhiên. Những
vùng mầu đen xám chỉ những nơi bị
cháy và những chấm trắng chỉ tàn
- tro.
Tất cả những người đàn ông Thổ dân, sau khi đã được thử thách, sở hữu một
‘ dreaming’ ( một cách giải thích về trái đất và các sinh vật) và trở thành người
bảo quản những câu chuyện và những bài hát liên quan đến cách giải thích được
truyền lại từ các vị Tổ tiên Thần linh này. Từ đó họ lãnh một trách nhiệm thiêng
liêng là duy trì và truyền lại những câu chuyện tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với
nước, gà rừng, muông thú nuôi sống họ, tầm quan trọng của lửa, các cây thuốc và
các vị thần linh. Mỗi người đàn ông có thể vẽ hoặc bàn luận về Dreaming của
mình khi anh ta được thừa hưởng nó hoặc khi anh ta được cho phép.
Tôn giáo của Dreaming thật đẹp trong suy nghĩ và trong các hình vẽ. Không được
ghi lại bằng chữ mà bằng các câu chuyện, các bài hát và các điệu múa, Dreaming
là lịch sử của Thổ dân Úc, là tín ngưỡng, kiến thức tổ tiên, huyền thoại và văn
hoá.”
Phong cách chấm
Bardon đã lao vào giúp các nghệ sĩ Thổ dân vẽ với nhiệt tình hừng hực, ý thức
được rằng mình đang thực hiện một sứ mệnh trọng đại. Với niềm tin tưởng và
nhiệt tình mà các nghệ sĩ đặt vào Bardon, đến năm 1972 khi Bardon phải về
Sydney vì bị ốm nặng thì 1000 bức tranh đã được hoàn thành. Những tác phẩm
này tập trung những biểu tượng vĩnh cửu của Dreaming, có những tác phẩm đạt
đến vẻ đẹp tinh tuý mà sau này không có nữa.
Vào năm 1972, các nghệ sĩ đã đứng ra thành lập nhóm nghệ thuật với tên Nghệ sĩ
Papunya Tula, đó là điều mà G. Bardon vẫn mơ ước. Nhưng các nghệ sĩ bắt đầu bị
các bậc trưởng bộ lạc khiển trách vì đã làm lộ ra quá nhiều di sản văn hoá thiêng
liêng. Các biểu tượng chỉ được dùng trong các lễ thiêng được bầy bán trên phố,
- người da trắng và đàn bà đều nhìn thấy, chúng bị thương mại hoá. Mọi vi phạm sẽ
phá vỡ đường dây được truyền lại từ cha ông nối liền vĩnh viễn trưởng bộ lạc với
vật tổ tổ tiên. Vì vậy, tất cả các chi tiết miêu tả người, đồ dùng cho lễ vật đều
được bỏ ra hoặc biến cải đi.
Từ năm 1973 đến 1975, các nghệ sĩ phải che giấu những ám chỉ lễ thiêng và trở
nên kín đáo hơn. Họ thể hiện ít đi cái cốt lõi văn hoá của họ. Thời kì khai mở của
G. Bardon đã đến lúc kết thúc. Các chấm chồng lên nhau, đó là cách che giấu lý
tưởng bí mật của các hình tượng trở thành mốt của thời kì đó. Các tác phẩm được
trưng bày ra rộng rãi cho công chúng. Th ời kì Bardon mà các sáng tác tuôn ch ảy
hồn nhiên không còn nữa.
Sự kết hợp của các biểu tượng truyền thống Thổ dân và các vật liệu tổng hợp châu
Âu đã sinh ra hình thức mới của nghệ thuật hiện đại làm giật mình giới nghệ thuật
Úc và quốc tế.
Kĩ thuật chấm được các nghệ sĩ thổ dân cũng như Úc hậu hiện đại sử dụng. Tranh
Papunya được trưng bày ở London, Paris, New York, Mexico, Madrid, Venice và
Montpellier…Thay vào bị lãng quên, bị chà đạp và bị tước chủ quyền, những
người dân Úc đầu tiên đã được thế giới lắng nghe bằng ngôn ngữ của chính họ.
Những bức tranh acrylic, có hiệu lực hơn bất cứ khẩu hiệu chính trị nào đã cho
người Thổ dân đòi quyền căn bản- quyền đất đai.
Đọc tranh Papunya
Các nghệ sĩ Papunya có thể nói với các bạn rằng tranh của họ kể các câu chuyện
của Dreaming. Bằng các hình tượng giới thiệu những nơi chốn đặc biệt của
Dreaming, các nghệ sĩ đòi quyền chủ nhân của họ tại Trung Sa mạc và Tây Sa mạc
để được thực hiện các nghi lễ tôn giáo trên các nơi chốn đó.
- Chúng tôi phải học tiếng
của các vị thì bây giờ đến
lượt các vị phải học đọc
tranh của chúng tôi.
Paddy Carroll
Tjungurrayi, 1984
Các bức tranh trên toan vải phản chiếu các buổi lễ đó. Trên mặt phẳng nhẵn nhụi
thường là đất đỏ hay đen, như màu của mặt đất, các hình của Dreaming được vẽ
lên, đầu tiên là các đường nét của hình, rồi bao quanh bằng các chấm hoặc phủ
xung quanh bằng cả một biển chấm, giống như những khối tròn làm bằng cây lá
được dùng cho tranh vẽ trên mặt đất.
Các nghệ sĩ sa mạc sử dụng một số lượng chủ đề hạn chế để biểu hiện rất nhiều ý
nghĩa. Các đường tròn đồng tâm có thể chỉ chỗ cắm trại, hồ nước, hay một địa
điểm corroboree. Chúng cũng có thể biểu hiện một người, hay một phần của một
người, một thân cây, tâm điểm của cây ăn quả tổ tiên hay một cấu tạo tự nhiên như
một quả đồi.
Nhiều tầng ý nghĩa.
Nghệ thuật Tây sa mạc được chảy ra từ nguồn hiểu biết về một hệ thống mà chỉ
những người được phép nắm sự hiểu biết này mới có thể diễn giải được nhiều tầng
ý nghĩa ẩn trong bức tranh. Trong mỗi bức tranh, mỗi họa tiết có thể được giải
thích bằng nhiều ý nghĩa tu ỳ thuộc vào mức độ nhập môn của từng người. Ở mức
độ thứ nhất, một vòng tròn có thể là một hồ hay vũng nước. Ở mức độ thứ hai, một
bó tóc được mang bởi người thợ săn tổ tiên. Với những người hiểu biết sâu rộng
hơn thì còn có thể có các tầng ý nghĩa khác. Một người mới nhập môn chỉ có thể
- tiến lên một nấc sau khi được những người già hơn xác nhận rằng anh ta đã giải
đúng ý nghĩa. Các bức tranh trong triển lãm lần này được chính các nghệ sĩ giải
thích
Ảnh bức Budgerigars in the Sandhill
1975
Billy Stockman Tjapaltjarri
Bức tranh này thuật lại những
chuyến đi của Chim két Tổ tiên vào
Dreamtime. Trong những chuyến di
chuyển này, các vị tổ tiên dừng lại
nghỉ ở các đồi cát gần Illpitirri, gần
Núi Denison. Những nơi nghỉ chân
được tả bằng các đường tròn đồng
tâm được đặt trên nền khảm tuyệt
- đẹp của các đồi cát, đan xen các bụi
cây hiếm hoi của sa mạc.
Tranh của Billy Stockman
Tjapaltjarri hiện lên trước mắt
chúng ta như một bức tranh trừu
tượng với sự phối hợp mầu sắc tuyệt
đẹp. Nhiều lớp chồng lên nhau tạo
ra chiều sâu và rộng của bức
tranh. Những hoạ tiết nhẹ, xốp bay
lơ lửng như những đám mây nhỏ
màu da cam đậm, nhạt, xanh cỏ úa,
đỏ thẫm, lơ lửng cho chúng ta hoàn
toàn cảm giác về màu sắc của các
con chim két. Chúnng bay rợp trời
và chúng ta, những người xem cũng
đang ở vị trí lơ lửng ở phía trên các
đám mây. Qua những kẽ hở của các
đám mây là mặt đất dưới kia, xa
lắm, được hiện ra trong các mảng
tím hồng, xanh lá mạ, xanh ka-ki.
Bốn vòng tròn đồng tâm màu trắng
hiện lên rõ ràng là bốn điểm chắc
chắn, cố định như những cột mốc
hay những tín hiệu tin cậy để các
con chim két không bị lạc
đường. Tất cả các chi tiết trong bức
tranh đều như chuyển động nhẹ
nhàng trong không gian rộng lớn,
- chỉ trừ bốn địa điểm cắm trại của
chim két tổ tiên.
nguon tai.lieu . vn