Xem mẫu

  1. TỔNG CỤC DÂN SỐ-KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH QUỸ DÂN SỐ LIÊN HỢP QUỐC LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP VỚI CHIẾN LƯỢC DÂN SỐ-SỨC KHỎE SINH SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 Uỷ viên Bộ chính trị ĐCSVN, Chủ tịch nước CHXHCNVN Trương Tấn Sang trao Huân chương Độc lập hạng nhất cho ngành DS-KHHGĐ ngày 20/12/2011 Sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp là yếu tố quyết định đảm bảo cho Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020 thực hiện thành công, góp phần phát triển kinh tế-xã hội đất nước. 1
  2. 1. Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản là một nội dung quan trọng của Chiến lược Kiên định vai trò lãnh đạo và hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội; 2. Giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khỏe sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân số, cải thiện sức khoẻ bà mẹ trẻ em, phát huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”, chủ Các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách (bao gồm các vị lãnh đạo Đảng, Quốc hội, động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh; Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... ở cấp trung ương và các vị lãnh đạo Đảng, Hội đồng 3. Giải pháp cơ bản thực hiện công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản là sự kết hợp nhân dân, Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc... ở các địa phương) đã ban hành nhiều văn bản đồng bộ, hiệu quả giữa vận động, giáo dục, truyền thông chuyển đổi hành vi, cung cấp dịch vụ chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chính sách dân số và sức khỏe sinh sản, đề ra mục tiêu, các giải dự phòng tích cực, chủ động, công bằng, bình đẳng và chế tài kiên quyết, hiệu quả đối với các pháp cụ thể đẩy mạnh thực hiện chính sách, khắc phục yếu kém, tồn tại; phân công trách nhiệm đơn vị, cá nhân hoạt động dịch vụ vi phạm quy định về chẩn đoán, lựa chọn giới tính thai nhi; cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức, đầu tư kinh phí cho công tác dân số và sức khỏe sinh sản. 4. Đầu tư cho công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản là đầu tư cho phát triển bền vững, mang lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế, xã hội và môi trường. Tăng mức đầu tư ngân sách Nhà nước, tích cực tranh thủ các nguồn viện trợ, huy động sự đóng góp của nhân dân, ưu tiên nguồn lực cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng ven biển và hải đảo; 5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; huy động sự tham gia của toàn xã hội; tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy để thực hiện có hiệu quả công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Những hạn chế, tồn tại trong giai đoạn 2001-2010 - Mức sinh thay thế chưa đạt được ở 28 tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên (chiếm 34% dân số cả nước). - Chất lượng dân số chậm được cải thiện: Số năm trung bình sống khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi, xếp thứ 116 trên thế giới năm 2009. Tỷ lệ dân số đã qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp, chỉ có 13,4% dân số từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo, trong đó 1,6% cao đẳng, 4,2% đại học và 0,2% trên đại học (Báo cáo Kết quả suy rộng mẫu trong Tổng điều tra dân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thông qua sửa đổi Điều 10 Pháp lệnh Dân số, 12/2008 số và nhà ở 01-4-2009). Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình. Các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách cần đánh giá đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng - Tỷ lệ tử vong mẹ, tử vong trẻ em, suy dinh dưỡng còn cao ở các vùng Bắc Trung bộ, của Chiến lược dân số-sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê Tây Nguyên và Tây Bắc; tình trạng phá thai còn cao (29 ca/100 trẻ đẻ sống, Niên giám Thống duyệt tại Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011) đối với sự phát triển bền vững của kê Y tế 2009). đất nước, sự tác động tương hỗ giữa dân số và phát triển, xu hướng biến động dân số để từ đó - Thông tin và dịch vụ sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho vị thành niên, thanh xây dựng các chính sách chủ động tận dụng các cơ hội, thích ứng với những thách thức, kiện niên, nam giới, người di cư, người khuyết tật, người có HIV, dự phòng và điều trị các bệnh toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số, tạo điều kiện cho sự phối hợp đồng bộ giữa các ban, viêm nhiễm đường sinh sản/lây truyền qua đường tình dục, vô sinh chưa đáp ứng được nhu ngành, đoàn thể, tổ chức theo các quan điểm: cầu của các nhóm khách hàng. 2 3
  3. - Nội dung, hình thức truyền thông chưa thật sự phù hợp với đặc điểm vùng, miền, chưa cơ hội lớn, đồng thời nảy sinh những thách thức gay gắt về giáo dục, đào tạo nghề, tạo việc quan tâm đúng mức các nhóm đối tượng đặc thù; Sản phẩm truyền thông chưa đủ về số lượng, làm và chăm sóc sức khoẻ cho hàng chục triệu người lao động, đặc biệt là thanh niên. hạn chế về chất lượng, thiếu tài liệu truyền thông cho người dân tộc thiểu số, phân phối chưa kịp thời; Các mô hình truyền thông dựa vào cộng đồng chưa phát triển. - Thông tin, số liệu và nghiên cứu khoa học về dân số và sức khỏe sinh sản chưa kịp thời, đầy đủ, chính xác, c ò n khác biệt giữa các nguồn số liệu. P hân tích, dự báo các vấn đề Phầntram Ph?n trăm T? l? lệ dân số theo nhóm tuổi, 1979- 2011 Tỷ dân s? theo nhóm tu?i, 1979-2011 dân số và sức khỏe sinh sản chưa đáp ứng đáp ứng nhu cầu quản lý, điều hành, xây dựng kế 100 4,8 4,7 5,8 6,6 7,0 hoạch và chính sách; Lồng ghép các yếu tố dân số vào lập kế hoạch và hoạch định chính sách 65+ chưa thành quy trình bắt buộc của các ngành, địa phương. 80 15-64 - Một số vấn đề mới phát sinh trong công tác dân số như mất cân bằng giới tính khi sinh, 52,6 56,1 0-14 60,8 già hóa dân số chưa được giải quyết tích cực nên diễn biến ngày càng phức tạp. 60 68,4 69,0 40 Những thách thức và cơ hội trong giai đoạn 2011-2020 20 42,6 39,2 33,4 25,0 24,0 0 Về chất lượng dân số 1979 1989 1999 2009 2011 - Số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh có xu hướng tăng. Sức khỏe và thể lực, đặc biệt là Nguồn TCTK, Tổng điều tra dân số 1979- 2009. Điểu tra biến độngDS-KHHGÐ 2011. 2011 Ngu?n: TCTK, T?ng di?u tra dân s? 1979-2009; Ði?u tra bi?n d?ng dân số KHHGĐ chiều cao, cân nặng và sức bền của người dân Việt Nam còn hạn chế. - Tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi còn cao ở Tây Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên. - Tỷ số giới tính khi sinh tăng nhanh và liên tục, năm 2011 lên tới gần 112 bé trai so với - Cơ cấu bệnh tật có xu hướng chuyển từ các bệnh nhiễm khuẩn là chủ yếu sang các 100 bé gái được sinh ra, về lâu dài mất cân bằng giới tính sẽ có những tác động đến an ninh xã bệnh rối loạn chuyển hoá, di truyền và hậu quả của tai nạn thương tích. hội, gây khó khăn cho việc xây dựng gia đình của các thế hệ tương lai. - Tình trạng trẻ em thừa cân, rối nhiễu tâm trí, tự kỷ, tiểu đường có xu hướng tăng. - 16 dân tộc có dân số dưới 10.000 người đang có nhiều vấn đề về sức khoẻ và phát triển cần quan tâm. Một số dân tộc có nguy cơ suy thoái do còn phổ biến tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống. Chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục ở các nhóm dân tộc “…Tôi hy vọng rằng, những thành này còn nhiều hạn chế. công và bài học của các nước sẽ - Một số bệnh như sốt rét, bướu cổ, phong... chiếm tỷ lệ cao ở khu vực đồng bào dân giúp Việt Nam định hướng lại tộc ít người. chính sách về phát triển gia đình - Còn khoảng cách lớn về tình trạng sức khỏe sinh sản giữa các vùng, các nhóm thu và xây dựng một hệ thống chăm nhập, giữa đồng bằng và miền núi, thành thị và nông thôn. Kiến thức và kỹ năng chăm sóc sóc y tế và xã hội hiệu quả hơn để sức khỏe bà mẹ và trẻ em còn nhiều hạn chế, dẫn đến tỷ lệ chết bà mẹ và trẻ em còn cao ở đưa tỷ số giới tính khi sinh trở về các vùng khó khăn, miền núi và dân tộc ít người. mức sinh học bình thường”. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân - Tình trạng phá thai còn nhiều; tỷ lệ nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền tại Hội thảo quốc tế về Mất cân bằng giới tính qua đường tình dục, HIV còn cao. Vô sinh và ung thư đường sinh sản là thách thức mới trong khi sinh, Hà Nội, 5-6/10/2011 chăm sóc SKSS - Lạm dụng và sử dụng chất gây nghiện như thuốc lá, rượu bia, ma túy, những hiện tượng căng thẳng về tâm lý k ể cả tự tử, gây thương tích, vi phạm pháp luật ngày càng trở nên nghiêm trọng đối với giới trẻ. - Số người cao tuổi ngày càng tăng, cùng với bối cảnh mức sinh thấp, quy mô gia đình nhỏ, đòi hỏi bức thiết có các loại hình chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi phù hợp. - Chỉ số phát triển con người tuy từng bước cải thiện, nhưng vẫn ở mức thấp. Về cơ cấu dân số - Cơ cấu dân số bắt đầu chuyển từ giai đoạn cơ cấu “dân số trẻ” sang giai đoạn “già hoá dân số” và bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” với số người ở độ tuổi lao động (15-59 tuổi) gấp đôi số người phụ thuộc (dưới 15 tuổi và từ 60 tuổi trở lên). Sự chuyển đổi này tạo ra những 4 5
  4. - Tại những nơi có mức độ đô thị hóa cao, mức sinh thấp có khả năng xuống quá thấp. DÂN SỐ VIỆT NAM (TRIỆU NGƯỜI) Về quy mô dân số Nguồn TCTK, Tổng điều tra dân số 1979- 2009. Điểu tra biến động dân số KHHGĐ 2011 - Nước ta có qui mô dân số 87,8 triệu người (đứng thứ trên 13 thế giới), mật độ dân số hơn 260 người/km2, là một trong những nước có mật độ dân số rất cao. Dù đạt mức sinh thay thế chung toàn quốc, một số nơi vẫn chưa loại trừ khả năng mức sinh tăng trở lại. Phương tiện tránh thai còn thiếu so với nhu cầu, đặc biệt là cho đối tượng thanh niên và người chưa có gia đình. Về phân bố và quản lý dân số - Di cư diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, đặc biệt dịch chuyển lao động giữa các vùng đòi hỏi tăng cường quản lý dân số, đổi mới phương thức quản lý và đáp ứng nhu cầu dịch vụ xã hội cơ bản cho hàng triệu người di cư. - Lồng ghép các biến dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội là yêu cầu khách quan, làm chưa tốt, dẫn đến vừa lãng phí, vừa thiếu hụt trong đầu tư, phát triển. Các hành động ưu tiên để phát huy vai trò lãnh đạo và hoạch định chính sách 1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu lực của Đảng và Nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện tốt công tác DS và SKSS. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị chuyên đề công tác DS-KHHGĐ,18/7/2008 Chỉ đạo xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chính sách trong lĩnh vực DS và SKSS ứng với những thay đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư. 6 7
  5. 2. Chỉ đạo thống nhất nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác DS, chăm sóc SKSS các cấp; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và của cộng đồng vào công tác DS và chăm sóc SKSS. 3. Chỉ đạo thống nhất để các ngành, địa phương đưa được mục tiêu DS và SKSS vào nội dung các chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, khuyến nông, nâng cao phúc lợi xã hội, gắn kết dân số với phát triển bền vững. 4. Phân bổ ngân sách quốc gia hợp lý. Tăng mức đầu tư cho công tác DS và SKSS; ưu tiên nguồn lực cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng ven biển và hải đảo, rút ngắn dần sự khác biệt giữa các vùng miền. Bà Vũ Thị Bích Việt - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang,Trưởng ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ tỉnh phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống ngành DS- KHHGĐ Việt Nam (26/12/1961-26/12/2011) 8
nguon tai.lieu . vn