Xem mẫu

  1. Tổn thương da do tác dụng phụ của thuốc Tất cả các loại thuốc chữa bệnh đều có thể gây những tác dụng phụ làm tổn hại một hoặc nhiều cơ quan của cơ thể. Có thể gặp ở người này hoặc người khác với nhiều mức độ khác nhau. Tổn thương da là biểu hiện của dị ứng thuốc mà người bệnh dễ dàng nhận biết. Ban đỏ (Exanthems): là dạng ban sẩn hoặc ban dạng sởi, nhỏ như đầu đinh ghim ở thân mình và có thể liên kết lại với nhau tạo thành mảng, người bệnh thường ngứa, thời gian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng một tuần và tồn tại đến một vài tuần. Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazole, carbamazepine, cefaclor, những thuốc bôi ngoài da, những thuốc có khả năng khuếch tán trong môi trường (các mỡ kháng sinh, chống viêm, bảo vệ da, tiếp xúc trực tiếp với thuốc trong công nghệ sản xuất thuốc, khí dung kháng sinh...). Viêm da bong vảy là dạng ít gặp với biểu hiện đỏ da bong vảy và ngứa toàn thân. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Dạng này thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại trong 3 – 4 tuần. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: allopurinol, thuốc chống sốt rét, giảm đau, hạ nhiệt,
  2. carbamazepine, penicillin, streptomycin, chloramphenicol, tetracyclin và sulfonamide. Mày đay thường là biểu hiện lâm sàng nhẹ và ban đầu của phần lớn các trường hợp dị ứng thuốc. Các loại thuốc đều có thể gây mày đay, hay gặp hơn là kháng sinh, vaccin, huyết thanh, thuốc chống viêm giảm đau, hạ sốt... Sau khi dùng thuốc (nhanh từ 5-10 phút, chậm có thể vài ngày), người bệnh cảm thấy nóng bừng, ngứa, trên da nổi ban cùng sẩn phù, có thể kết hợp với phù mạch, phù nề mi mắt, môi. Trường hợp nặng có thể có khó thở, đau bụng, đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, mệt mỏi, sốt cao... Tổn thương da do thuốc. Mày đay cấp thường biểu hiện tăng sẩn phù, mất đi nhanh và xuất hiện lại cũng nhanh, diễn biến trong thời gian dưới 3 tuần. Mày đay diễn biến hằng ngày, kéo dài hơn 3 tuần là đã chuyển thành mạn tính. Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: kháng sinh, đặc biệt là penicillin, thuốc khác: captopril và các thuốc ức
  3. chế men chuyển khác, thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAIDs) bao gồm cả aspirin và các thuốc quinine. Phù Quincke là tình trạng phù cục bộ, có thể do kháng sinh, vaccin, huyết thanh, các thuốc chống viêm không steroid... Phù thường xuất hiện nhanh sau khi dùng thuốc ở những vùng da mỏng, môi, cổ, quanh mắt, bụng, các chi, bộ phận sinh dục... Kích thước phù Quincke thường to, có khi bằng bàn tay, nếu ở gần mắt làm cho mắt híp lại, ở môi làm môi sưng to, biến dạng. Màu da vùng phù bình thường hoặc hơi hồng nhạt, đôi khi phối hợp với mày đay. Trường hợp phù Quincke ở họng, thanh quản, người bệnh có thể bị nghẹt thở; ở ruột, dạ dày gây đau bụng; ở não gây đau đầu... Da nhạy cảm ánh sáng: Bình thường da không nhạy cảm với ánh sáng. Khi dùng một số loại thuốc thường là các loại như: ức chế men chuyển, NSAIDs, quinolone, nalidixic acid, phenothiazine, tetracycline, griseofulvin, amiodarone, sulfonamide và thiazide thì da trở nên tăng nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống bị phỏng, sạm da, đen da hoặc mất sắc tố da… Vị trí ở các vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay, mu bàn chân. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời gian tiếp xúc với ánh nắng. Hồng ban đa dạng: Bệnh bắt đầu sau một vài ngày dùng thuốc với những biểu hiện: sốt nhẹ, mệt mỏi, đau khớp,
  4. sưng hạch, có cảm giác nóng bỏng toàn thân. Tổn thương là các hồng ban hình bia bắn điển hình có ba vòng tròn đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ phù nề, ở giữa là mụn nước nhỏ hoặc vỡ, trợt, hoại tử. Bệnh có thể kèm theo tổn thương niêm mạc các hốc tự nhiên, tổn thương nội tạng (tim, gan, thận...), tái phát nhiều đợt; trường hợp nặng có thể gây tử vong. Nguyên nhân do thuốc gây hồng ban đa dạng chỉ chiếm khoảng 10%, các thuốc thường gây hồng ban đa dạng là: ức chế men chuyển, allopurinol, carbamazepine, phenytoin, NSAIDs, penicillins, sulfonamide và tetracyclin. Viêm mao mạch là tình trạng viêm hoại tử các mao mạch ngoài da do các thuốc như: ức chế men chuyển, NSAIDs, allopurinol, penicillins, sulfonamides và thiazides lợi tiểu. Biểu hiện ngoài da là các ban xuất huyết sờ thấy được trên mặt da. Ngoài ra, thuốc còn có thể gây viêm mạch nội tạng và gây nguy hiểm hơn cho người bệnh. Ban dạng lichen: Gọi tên này bởi vì tổn thương ngoài da giống lichen phẳng: là các sẩn màu hơi tím, phẳng, trên đó có các rãnh, khía... tổn thương có thể liên kết thành mảng lớn. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chống sốt rét, furosemide, thiazides, chlorpropamide, methyldopa, phenothiazine và quinidine.
  5. Hồng ban cố định nhiễm sắc là dạng dị ứng thuốc biểu hiện ở vị trí cố định trên da, thường là các vị trí liên kết da - niêm mạc. Tổn thương là các dát sẫm màu ranh giới rất rõ với da lành, số lượng thường chỉ 1 hoặc vài tổn thương. Xuất hiện lại tại đúng vị trí lần trước, sau khi uống thuốc khoảng 30 phút đến 8 giờ kèm theo cảm giác nóng rát hoặc châm chích tại vị trí tổn thương. Các thuốc thường gây dị ứng loại này là: tetracycline, sulfonamide, NSAIDs, paracetamol, phenolphthalein và barbiturat
nguon tai.lieu . vn