Xem mẫu

3.2.1.

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ

3.2.3.

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý TRONG

1
6

LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.

3.2.2.

Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
Các điều kiện của lỗi vô ý
Các dạng của lỗi vô ý
Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt
Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm
Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý TRONG PHÁP

6
6
11
13
20
20
21
23
23
26
30

3.2.4.

3.2.5.

3.2.6.

3.2.7.
3.3.

LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.3.

Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời
kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể
từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành
Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành
Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ

30
30
32

3.1.
3.2.

Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể

1

4.1.
4.1.1.
4.1.2.
4.2.
4.2.1.
4.2.2.

56

LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý

4.2.3.
56
58

58
64

66
75

76

78

80
81
84

ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
LỖI VÔ Ý VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

35
38
39
43
49

Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật
hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính
(Chương XX Bộ luật hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý
(Chương XXI Bộ luật hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương
XXII Bộ luật hình sự)
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội do lỗi vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân (Chương XXIII Bộ luật hình sự)
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định về tội vô ý theo Bộ luật hình sự hiện hành
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
T¨ng c-êng c«ng t¸c gi¶i thÝch, h-íng dÉn ¸p dông ph¸p luËt
N©ng cao n¨ng lùc, tr×nh ®é chuyªn m«n nghiÖp vô, ý thøc
ph¸p luËt vµ tr¸ch nhiÖm nghÒ nghiÖp cña ®éi ngò ThÈm ph¸n
Tßa ¸n c¸c cÊp, nhÊt lµ ®éi ngò ThÈm ph¸n Tßa ¸n cÊp huyÖn
T¨ng c-êng sù hîp t¸c vµ trao ®æi kinh nghiÖm lËp ph¸p h×nh
sù víi n-íc ngoµi

84

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

101
103
109

2

84
89
93
93
94

98

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ
quan. Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt
chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Những biểu
hiện đó cùng với khách thể và chủ thể của tội phạm là những yếu tố cấu
thành tội phạm (CTTP) - cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự
(TNHS) đối với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam,
bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì giữa những biểu hiện bên
ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người
cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi
tội phạm được quy định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội
phạm. Việc thừa nhận lỗi như là một căn cứ để truy cứu TNHS là một
nguyên tắc cơ bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn
pháp luật việc quy định các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
nói chung và dấu hiệu lỗi nói riêng trong một số CTTP vẫn còn có những
bất cập, hạn chế nhất định, như không quy định hoặc quy định về lỗi, các
hình thức lỗi, trong đó có lỗi vô ý chưa rõ ràng, mâu thuẫn, thiếu thống
nhất dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai
trong định tội danh và quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả,
chất lượng giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai đối
với người thực hiện hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều vụ
án hình sự không được giải quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn
đọng án đang có dấu hiệu gia tăng, v.v...

2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác
nhau, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề lỗi nói
chung và lỗi vô ý nói riêng, điển hình như: Lê Văn Cảm (2005), Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình
sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; NguyÔn Ngäc Hßa
(2008), Téi ph¹m vµ cÊu thµnh téi ph¹m, NXB C«ng an nh©n d©n, Hµ
Néi; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực
tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội; §µo TrÝ óc (2000), LuËt h×nh sù ViÖt Nam,
QuyÓn I: "Nh÷ng vÊn ®Ò chung", NXB Khoa häc x· héi, Hµ Néi; Vâ
Kh¸nh Vinh (1994), Nguyªn t¾c c«ng b»ng trong luËt h×nh sù ViÖt Nam,
NXB C«ng an nh©n d©n, Hµ Néi; ViÖn Nghiªn cøu Nhµ n-íc vµ Ph¸p luËt
(1993), M« h×nh lý luËn vÒ Bé luËt h×nh sù ViÖt Nam (PhÇn chung), NXB
Khoa häc x· héi, Hµ Néi; Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và
quyết định hình phạt, NXB Lao động - xã hội; Cao Thị Oanh, Vấn đề mặt
chủ quan của đồng phạm, Tạp chí Luật học 2/2002; Trần Quang Tiệp,
Một số vấn đề lỗi trong luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
11/1999; Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi
trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, v.v..

Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu "Những vấn
đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam" là cần
thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay ở Việt Nam.

Tuy nhiªn, qua nghiªn cøu, kh¶o s¸t néi dung c¸c s¸ch chuyªn kh¶o,
c¸c luËn ¸n, luËn v¨n vµ c¸c bµi b¸o khoa häc vÒ chế định lỗi vô ý cña
c¸c nhµ khoa häc luật hình sự ë n-íc ta, cho thÊy hÇu hÕt ®ã lµ c¸c c«ng
tr×nh nghiªn cøu c¬ b¶n về các vấn đề chung của luật hình sự, cßn ®èi víi
chế định lỗi vô ý, nh×n mét c¸ch tæng quan, ch-a ®-îc quan t©m mét
c¸ch ®óng møc. Nh÷ng nghiªn cøu vÒ lỗi vô ý míi chØ dõng l¹i ë c¸c
c«ng tr×nh nghiªn cøu ®¬n lÎ, hoÆc lµ ®Ò cËp ®Õn các yếu tố CTTP, hoặc
là về mặt chủ quan của tội phạm, hoÆc lµ ®-îc thÓ hiÖn mét phÇn trong
kÕt qu¶ cña c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu kh¸c vÒ phần chung của luật hình
sự. Có thể nói hiện nay ở Việt nam vẫn ch-a triÓn khai nghiªn cøu cã hÖ
thèng, toµn diÖn vµ s©u s¾c vÒ lỗi vô ý d-íi gãc ®é lý luËn và thực tiễn áp
dụng. Do đó, nguyªn nh©n cña những tån t¹i, bÊt cËp trong thùc tiÔn ¸p

3

4

dông những quy định về lỗi vô ý ch-a ®-îc ph©n tÝch cã hÖ thèng ®Ó ®-a
ra nh÷ng kiÕn nghÞ, gi¶i ph¸p ®ång bé.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự
Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt nam quy định về lỗi
vô ý và thực tiễn áp dụng trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, rút
ra được những tồn tại, hạn chế của việc quy định và áp dụng các quy
định về lỗi vô ý và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của luật hình sự về lỗi vô ý.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập
trung vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về lỗi, lỗi vô ý, các hình thức và
vai trò của lỗi vô ý, phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và với sự kiện bất ngờ;
Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam;

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu
thực tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan tới lỗi vô ý
được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ,
toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào
việc hoàn thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học
luật hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật,…
6. Những điểm mới của luận văn

- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực tiễn pháp luật hình sự quy
định về lỗi vô ý;

Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật
học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong
luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:

- Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng các quy định về lỗi vô ý
trong hoạt động xét xử của các Tòa các cấp từ năm 2005 đến 2010;

- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam;

- Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về lỗi vô
ý trong BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng;

- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành;

- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn
thiện pháp luật quy định về lỗi vô ý, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về lỗi vô ý.
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư

- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp
luật về lỗi vô ý; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những
tồn tại trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải
pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng
pháp luật về lỗi vô ý.

5

6

4. Phương pháp nghiên cứu

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt
Nam.
Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt
Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý và nâng cao hiệu quả áp dụng.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi
của vấn đề, nhưng về cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất lỗi là
một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, đó là sự kết hợp giữa yếu tố
lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức hoặc không
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể
hiện năng lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó
để thực hiện một xử sự khác không trái với lợi ích của xã hội.
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm
hình sự, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả do hành vi đó gây ra trong khi
họ có đủ điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.
7

Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của
con người, khoa học luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và
lỗi vô ý.
Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành
vi và khả năng gây ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của
mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu
đúng về nó, cần phải làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:
- Yếu tố lý trí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức
không đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi khi quyết định thực hiện hành vi, họ không thấy được khả năng xảy ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước
bỏ điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một hành vi khác – hành vi trái
pháp luật hình sự.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm
về lỗi vô ý như sau: Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm
tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không
nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi
có đủ điều kiện để nhận thức được.
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
Các điều kiện để một người bị coi là có lỗi:
Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do – năng lực nhận thức được
đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được hành vi phù hợp với đòi
hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ
những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể có lỗi.
Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong trường hợp
cụ thể khi có điều kiện phát huy năng lực đó – điều kiện cho phép chủ thể
trong trường hợp cụ thể biến năng lực tự do thành sự tự do thực sự.
8

Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện cho phép
trong trường hợp cụ thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã lựa chọn hành
vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi mất tự do.
Các điều kiện của lỗi vô ý:
Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể
hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu
thả, thiếu thận trọng trong việc đánh giá hành vi.
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho
rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Về lý trí: người phạm tội do vô ý vì quá tự tin trước khi lựa chọn,
thực hiện hành vi đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và nhận thức được khả năng có thể xảy ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
- Về ý chí: Người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn
hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là dấu hiệu
cơ bản để phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin.
1.1.3.2. Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải
thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
Lỗi cố ý là hình thức lỗi, trong đó chủ thể lựa chọn và thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mặc dù đã ý thức (nhận thức) được các đặc
điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ở lỗi vô ý,
người phạm tội không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ đặc
điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định
thực hiện hành vi, không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa lỗi vô ý với lỗi cố ý, đối với
lỗi cố ý về mặt ý chí chủ thể nhận thức rõ được các đặc điểm thể hiện
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Về mặt lý trí của lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp nói riêng
và lỗi cố ý nói chung có sự giống nhau đó là đều thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tuy nhiên, ở lỗi cỗ ý gián tiếp, khi lựa
chọn thực hiện hành vi phạm tội chủ thể thấy trước được hậu quả nguy
hiểm và đã chấp nhận khả năng hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra còn ở lỗi vô
ý vì quá tự tin, chủ thể cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi nhưng đã loại trừ khả năng đó, cho rằng khả năng đó
không xảy ra hoặc sẽ ngăn ngừa được.
1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
Sự khác nhau trực diện cơ bản giữa lỗi vô ý và sự kiện bất ngờ đó là
sự khác nhau giữa việc gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp có lỗi
(lỗi vô ý) và gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp không có lỗi (sự
kiện bất ngờ).

- Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và
có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng
người phạm tội đã không thấy vì cẩu thả, thiếu thận trọng trong khi lựa
chọn, thực hiện hành vi.

Xét về bản chất của các hình thức lỗi vô ý trong đó có lỗi vô ý do
cẩu thả và sự kiện bất ngờ, bên cạnh những điểm giống nhau, giữa
chúng còn tồn tại những điểm khác nhau cơ bản. Lỗi vô ý do cẩu thả
giống với sự kiện bất ngờ ở chỗ: chủ thể thực hiện hành vi đều không
thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình
gây ra. Nhưng trong trường hợp vô ý do cẩu thả thì chủ thể không thấy
trước hậu quả nguy hiểm là do cẩu thả, còn trong sự kiện bất ngờ, chủ

9

10

- Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.

nguon tai.lieu . vn