Xem mẫu

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ------------***------------ NGUYỄN THỊ MINH HẢI NGHIÊN CỨU CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐỔ THẢI CHẤT NẠO VÉT LUỒNG CẢNG TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành Mã số : Khoa học môi trường : 60440301 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC Hà Nội – 2016 Luận văn được hoàn thành tại: Khoa môi trường, Đại học Khoa học Tự nhiên Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Chu Hồi Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội Phản biện 1: TS. Hoàng Anh Lê Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội Phản biện 2: TS. Đào Văn Hiền Cục Kiểm soát tài nguyên và Bảo vệ môi trường biển, hải đảo Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn Thạc sỹ tại Khoa môi trường, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội Vào hồi 15h00 ngày 07 tháng 01 năm 2016 Có thể tìm đọc luận văn tại: - Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa sau Đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Hải Phòng là thành phố ven biển với đường bờ biển dài khoảng 125 km, có 5 cửa sông chính chảy ra biển và một vùng biển rộng ra tới đảo Bạch Long Vĩ giữa vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt, phía bắc Đồ Sơn tồn tại một hệ cửa sông hình phễu Bạch Đằng với các cửa sông ăn sâu vào nội địa, và có trên 400 đảo lớn nhỏ, chủ yếu là đảo đá vôi rất đa dạng về cảnh quan, hệ sinh thái, tài nguyên sinh vật, phi sinh vật,... Đó là tiền đề cho thành phố Hải Phòng phát triển kinh tế biển, kinh tế dựa vào bảo tồn thiên nhiên biển - đảo và có lợi thế để phát triển cảng. Từ cuối thế kỷ XIX, cảng Hải Phòng từng là cảng biển lớn nhất nước ta, song, kể từ 1987 trở lại đây, luồng tàu vào cảng Hải Phòng đã bị sa bồi mạnh làm mất đi vị thế hàng đầu của một cảng cửa ngõ tầm cỡ quốc gia và khu vực. Trước đây, hệ thống luồng lạch vùng cửa sông hình phễu Bạch Ðằng và Cửa Cấm thường xuyên bảo đảm cho tàu vạn tấn ra vào an toàn mà khối lượng nạo vét luồng chỉ có hơn 1 triệu m3/năm. Tuy nhiên, hơn chục năm qua lượng đất nạo vét thường xuyên gấp từ 3 đến 5 lần, mà luồng vẫn cạn (từ 3,5 đến 4 mét) khiến cho tàu vạn tấn buộc phải chuyển tải hàng từ xa vào cảng. Vì thế, khai mở luồng tàu mới qua Lạch Huyện là điều tất yếu của việc cải tạo, mở rộng hệ thống cảng Hải Phòng ra phía biển trong những năm gần đây. Liên quan đến việc phát triển Cảng cửa ngõ Quốc tế Lạch Huyện và duy trì hoạt động ‘bình thường’ cho hệ thống cảng Hải Phòng hiện tại, phải nạo vét luồng cảng đến khoảng 3 triệu tấn hàng năm. Với một lượng chất nạo vét lớn như vậy, việc quản lý hoạt động nạo vét và đổ thải chất nạo vét đang là một vấn khó khăn vì những quy định về lĩnh vực này ở trong nước còn rất ít. Việc thiếu các quy định cụ thể khiến các cơ quan liên quan về quản lý môi trường biển lúng túng khi hướng dẫn, đánh giá chất/vật nạo vét và bãi chứa chất/vật nạo vét luồng cảng để quyết định việc cho phép đổ thải/nhận chìm, cũng như lúng túng khi kiểm tra, giám sát các hoạt động nạo vét, vận chuyển, đổ thải tại bãi chứa trên biển. Vì vậy, việc chọn đề tài luận văn: “Nghiên cứu cơ sở pháp lý và thực tiễn về quản lý hoạt động đổ thải chất nạo vét luồng cảng tại thành phố Hải Phòng”có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn và lý luận. Từ trường hợp nghiên cứu ở hệ thống cảng Hải Phòng, học viên sẽ đề xuất một số giải pháp mang tính pháp lý phù hợp nhằm bảo vệ môi trường cảng Hải Phòng và nhân rộng cho các vùng cảng tương tự ở ven biển nước ta. 1 Luận văn được thực hiện nhằm đạt các mục tiêu cơ bản sau đây: - Có được cơ sở pháp lý và thực tiễn trong nước, quốc tế trong quản lý hoạt động đổ thải, nhận chìm ở biển. - Khái quát được tình hình quản lý hoạt động đổ thải chất nạo vét luồng cảng ở thành phố Hải Phòng. - Đề xuất được một số giải pháp tăng cường quản lý hiệu quả hoạt động đổ thải chất nạo vét luồng cảng ở thành phố Hải Phòng. 2 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ 1.1. Một số khái niệm liên quan (1)Nhận chìm: Thuật ngữ “nhận chìm” được xác định trong Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư Luân Đôn 1996.“Nhận chìm” có nghĩa là: i. Bất kỳ sự đổ, thải có ý thức nào xuống biển các chất thải hoặc các chất khác từ các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình nhân tạo khác ở biển. ii. Bất kỳ sự đánh chìm nào của tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình nhân tạo khác ở biển. Việc nhận chìm không bao gồm: i. Việc đổ, thải các chất thải hoặc các chất khác được sản sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc khai thác bình thường của tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác trên biển, cũng như các thiết bị của chúng, ngoại trừ các chất thải hoặc các chất khác được chuyên chở hoặc chuyển tải trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hoặc các công trình khác bố trí ở biển được dùng để đổ thải các chất đó, trên các tàu thuyền, phương tiện bay, giàn nổi hay các công trình đó tạo ra; ii. Việc tàng chứa các chất với mục đích không phải chỉ là để đổ, thải chúng với điều kiện là việc tàng chứa này không đi ngược lại những mục đích của Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư Luân Đôn 1996. Việc đổ, thải các chất thải hoặc các chất khác phát sinh trực tiếp từ hoặc liên quan đến việc khai thác, thăm dò và quá trình chế biến tài nguyên khoáng sản lòng đất dưới đáy biển ngoài khơi không áp dụng các quy định của Công ước Luân Đôn 1972 và Nghị định thư Luân Đôn 1996. Ngoài ra, Nghị định thư Luân Đôn 1996 mở rộng phạm vi điều chỉnh để quản lý hoạt động nhận chìm để cấm "thiêu hủy trên biển" đối với quá trình đốt cháy trên tàu, dàn nổi hoặc cấu trúc nhân tạo khác trên biển, đối với chất thải hoặc chất khác với mục đích đổ, thải nó một cách thận trọng bằng cách thiêu hủy bằng nhiệt. (2)Vật liệu nạo vét: là trầm tích (sa bồi) lầy từ dưới mặt nước trước khi được đổ vào đại dương. 3 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn