Xem mẫu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HUỲNH QUANG KHÁNH NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ U TRUNG THẤT NGUYÊN PHÁT BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC Chuyên ngành: Ngoại lồng ngực Mã số: 62720124 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2015 Công trình được hoàn thành tại: Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam 2. TS. Phạm Minh Ánh Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng BV. Hà Thành Hà Nội PGS. Nguyễn Thế Hiệp BV. Quốc tế Becamex PGS.TS. Phạm Thọ Tuấn Anh Đại học Y Dược TP.HCM Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại: Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh. Vào hồi .... giờ …. phút, ngày …. tháng …. năm …….. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện khoa học Tổng hợp TP.HCM - Thư viện Đại học Y Dược TP.HCM 1 GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 1. Đặt vấn đề U trung thất là một khái niệm rất bao quát về bệnh lý ở trung thất, bao gồm tất cả các khối u lành tính và ác tính, bẩm sinh và mắc phải, các khối u tiên phát và thứ phát. Trong đó 60% là các u tuyến ức, u thần kinh và các nang lành tính. Có đến 30% là u tế bào lymphô, u quái trung thất. Cho đến nay, phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản và hiệu quả. Đa phần các phẫu thuật viên thống nhất ý kiến là cần phải chỉ định mổ sớm các khối u lành tính và các nang ở trung thất vì tỉ lệ ung thư hóa các u, nang lành tính ở trung thất khá cao tới 37-41%. Các khối u ác tính ở trung thất phát triển rất nhanh vào các cơ quan quan trọng lân cận như tim, các mạch máu lớn, khí quản, thực quản... chèn ép vào các cơ quan đó gây nên triệu chứng. Chính vì thế cần phát hiện sớm và mổ sớm các khối u trung thất khi chưa xuất hiện các dấu hiệu chèn ép ở trung thất. Chỉ định mổ rất hạn chế khi đã có hội chứng chèn ép trung thất hay khi đã có di căn hạch ở thượng đòn. Trên thế giới, từ thập niên 90 nhiều tác giả đã ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực trong điều trị các khối u trung thất. Cắt u tuyến ức có biểu hiện nhược cơ hay không, cắt u trung thất trước dạng nang, cắt nang hay u mỡ màng ngoài tim, u thần kinh vùng trung thất sau... Trong thời gian gần đây cắt u tuyến ức bằng robot phẫu thuật “da Vinci” cũng được nhiều tác giả nhắc đến. Ở Việt Nam, phẫu thuật nội soi được ứng dụng từ năm 1992, tuy nhiên phẫu thuật nội soi lồng ngực bắt đầu thực hiện từ năm 1996 và cho đến những năm 2002 mới có những báo cáo về phẫu thuật nội soi trong chẩn đoán và điều trị u trung thất. Tuy nhiên cho đến nay cũng mới chỉ có một số báo cáo ở một số bệnh viện lớn trong cả nước báo cáo tổng kết kinh nghiệm thực hiện phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị u trung thất. Trong xu thế hội nhập, phẫu thuật nội soi ngày càng phát triển và có nhiều ứng dụng trong phẫu thuật lồng ngực nói chung và phẫu thuật bệnh lý u trung thất nói riêng. Kết quả không chỉ phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, các dụng cụ, trang thiết bị của cơ sở mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc chỉ định đúng lựa chọn bệnh nhân hợp lý. Hiện nay ở Việt Nam có nhiều bệnh viện triển khai ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị u trung thất, tuy nhiên cho đến nay chưa có báo 2 cáo nào quy mô và chi tiết so sánh kết quả giữa mổ nội soi và mổ mở trong điều trị u trung thất nguyên phát. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm những mục tiêu sau: 1. Đánh giá kết quả điều trị u trung thất nguyên phát bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực đối chiếu với mổ mở kinh điển. 2. Xác định các đặc điểm trên CT ngực ảnh hưởng đến kết quả sớm trong phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị u trung thất nguyên phát. 3. Xác định đặc điểm mô bệnh học, giai đoạn bệnh, kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực trong điều trị u tuyến ức không có nhược cơ. 2. Tính cấp thiết của đề tài Phẫu thuật nội soi lồng ngực là một bước tiến kỹ thuật trong điều trị ngoại khoa các khối u trong lồng ngực. Trung thất là một khu vực đặc biệt tập trung nhiều cơ quan chi phối sống còn của cơ thể như tim, các mạch máu lớn của cuống tim và cuống phổi, thực quản, các dây thần kinh… bất kỳ một sai sót kỹ thuật nào cũng có thể gây ra các tai biến nặng. Vì vậy việc thực hiện mổ nội soi lấy u trung thất đòi hỏi phẫu thuật viên phải được đào tạo bài bản, có kỹ năng và có trình độ không chỉ nhằm mổ nội soi lấy u trung thất mà còn đủ kỹ năng, bản lĩnh đủ để xử lý các tai biến kỹ thuật có thể xảy ra. Trong những năm gần đây đã có những báo cáo thực hiện lấy u trung thất bằng nội soi tuy nhiên chưa có một nghiên cứu hoàn chỉnh với số lượng lớn khả dĩ đưa ra những nhận xét, kết luận có giá trị cao, đúc kết những kinh nghiệm của những tác giả trước đó cũng như của nhóm nghiên cứu sau này. Đề tài này đã thỏa được những tiêu chí nghiên cứu và đã đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế phát triển hiện nay của chuyên ngành Ngoại Lồng Ngực. 3. Những đóng góp mới của luận án Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam có đối chiếu kết quả giữa phương pháp mổ nội soi và mổ mở điều trị u trung thất nguyên phát với một số lượng bệnh nhân lớn. Kết quả mổ nội soi hơn hẳn so với mổ mở: Giảm đau, thời gian nằm viện ngắn, ít mất máu, ít biến chứng, bệnh nhân nhanh chóng trở lại cuộc sống sinh hoạt hàng ngày… CT ngực đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cho phẫu thuật viên đánh giá bản chất khối u trung thất, đưa ra được chỉ định và chiến thuật hợp lý lựa chọn phương pháp mổ. Đặc biệt CT ngực còn liên quan đến kết quả mổ nội soi, cũng như khả năng ứng dụng mổ nội soi trong bệnh lý u tuyến ức không nhược cơ. 3 4. Bố cục luận án Luận án gồm 135 trang, bao gồm: phần đặt vấn đề 3 trang, tổng quan tài liệu 38 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 23 trang, kết quả nghiên cứu 31 trang, bàn luận 36 trang, kết luận và kiến nghị 4 trang. Có 34 bảng, 5 biểu đồ, 1 sơ đồ, 8 hình, 116 tài liệu tham khảo (44 tiếng Việt, 72 tài liệu tiếng Anh). Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giải phẫu học trung thất Trung thất là một khoang trong lồng ngực nằm ở giữa hai vùng phổi và màng phổi. Giới hạn của trung thất là khoảng không gian hình thang có 6 mặt, mặt đáy là cơ hoành, trần là lỗ vào ngực, vách trước là xương ức, vách sau là xương sống, 2 vách bên là 2 lá thành của màng phổi trung thất, chứa hầu hết các thành phần quan trọng của lồng ngực trừ 2 lá phổi. 1.4. Chẩn đoán u trung thất 1.4.1. Triệu chứng lâm sàng 1.4.1.1. Nhóm không có biểu hiện lâm sàng Ở giai đoạn sớm, u trung thất thường không có triệu chứng, chẩn đoán ban đầu nhờ X quang phổi chụp khi khám sức khỏe định kỳ, hoặc do bệnh hệ thống mà phát hiện ra như nhược cơ, đi tìm u tuyến ức… 1/3 các trường hợp phát hiện tình cờ khi khám định kỳ. 1.4.1.2. Nhóm có biểu hiện lâm sàng Triệu chứng hiện diện 48 – 62% trường hợp u trung thất vào thời điểm được chẩn đoán như: ho khan, đau ngực, khó thở, khó nuốt, khàn tiếng, phù áo khoác và tuần hoàn phụ: cổ, mặt, ngực… Ở giai đoạn trễ: triệu chứng thay đổi tùy theo vị trí của u ở trung thất trước, sau hay giữa, mà có các biểu hiện chèn ép và xâm lấn đến các cấu trúc xung quanh. Biểu hiện bằng hội chứng trung thất. 1.4.2. Triệu chứng cận lâm sàng 1.4.2.1. X quang ngực qui ước Đa phần các bệnh lý dạng u, nang vùng trung thất đều có thể thấy qua phim X quang ngực thẳng hoặc nghiêng qui ước. Báo cáo của Harris cho thấy 97% quan sát được trên phim X quang thông thường. Tuy đơn giản nhưng cung cấp những thông tin rất quan trọng như vị trí, kích thước u, sự hiện diện và kiểu canxi hóa. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn