Xem mẫu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

--------

--------

PHẠM TIẾT KHÁNH

KHẢO SÁT TRUYỆN KỂ DÂN GIAN
KHƠ ME NAM BỘ
(QUA THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH)

Chuyên ngành: Văn học dân gian
MÃ SỐ: 62.22.36.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hμ néi - 2007

Công trình hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: PGS.TS. Phạm Thu Yến

Phản biện 1

: PGS.TS. Lê Chí Quế

Phản biện 2

: PGS. Lê Trung Vũ

Phản biện 3

: PGS.TS. Nguyễn Thị Huế

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước họp tại:
Vào hồi……..giờ…………..Ngày……..tháng……năm…….

Có thể tìm đọc luận án tại:
- tH¦ VIÖN §¹I HäC S¦ PH¹M Hµ NéI
- Th− viÖn Quèc gia

C¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu cña t¸c gi¶ ®∙ c«ng bè
liªn quan ®Õn ®Ò tμi luËn ¸n

1. Vµi nÐt vÒ truyÒn thuyÕt d©n gian Kh¬ Me Nam Bé, T¹p chÝ Khoa häc,
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, sè 1(11) 2007, tr.89 - 91.
2. DiÖn m¹o v¨n häc d©n gian Kh¬ Me Nam Bé, Tạp chí V¨n ho¸ d©n gian
sè 1 (109) - 2007, tr.71-76.
3. TruyÒn thuyÕt ®Þa danh trong v¨n häc d©n gian Kh¬ Me Nam Bé, Tạp chí
V¨n ho¸ nghÖ thuËt, sè 2(272) - 2007, tr.36-39.
4.Về tính biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ Khơ Me Nam Bộ thể hiện qua
hình ảnh các con vật, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, số 11(45) – 2007 , tr.52-61.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Khơ Me là một trong những tộc người có dân số trên 1 triệu người và có một
vị trí đặc biệt trong tổng thể bức tranh các dân tộc Việt Nam.
- Dân tộc Khơ Me có vốn văn hóa dân gian vô cùng phong phú. Người dân
Khơ Me yêu thích sáng tác và lưu truyền những bài thơ, câu truyện, những câu tục
ngữ châm ngôn, những bài hát…bằng con đường truyền miệng. Chọn đề tài này,
chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu văn học và văn hóa
dân gian của người Khơ Me, một tộc người có bản sắc văn hóa độc đáo trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam.
- Là một người làm công tác giảng dạy đồng thời tham gia quản lí, việc tìm
hiều vốn văn học dân gian địa phương sẽ giúp tôi có kiến thức sâu sắc hơn về văn hóa
quê hương và nâng cao trách nhiệm đối với công việc.
- Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về người Khơ Me nói riêng và
văn hoá, văn học dân gian Khơ Me nói chung còn ít về số lượng và thiếu về chất
lượng. Trong khi đó, những nghệ nhân, những Mê sóc, Mê phum...hầu hết đã lớn tuổi
vì vậy vốn văn học và văn hóa dân gian của người Khơ Me Nam Bộ đang có nguy cơ
mai một nếu chúng ta không sớm có kế hoạch sưu tầm và bảo tồn vốn văn hóa cổ
truyền này.
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đô thị hoá ở những vùng có người Khơ Me
sinh sống đang diễn ra mạnh mẽ cộng với sự phát triển của các phương tiện thông tin
đại chúng, của Internet làm cho đời sống tinh thần, văn hoá của một bộ phận không
nhỏ người Khơ Me bị xáo trộn. Vì vậy, việc nghiên cứu và bảo tồn vốn văn hoá
truyền thống của người Khơ Me trong đó có văn học dân gian là một điều cấp thiết
và có ý nghĩa khoa học mà luận án này hướng tới.
2. Lịch sử vấn đề
Theo dòng thời gian, có thể điểm các công trình nghiên cứu sau đây:
- Bài viết Tìm hiểu văn hoá và xã hội người Việt gốc Miên của nhà nghiên cứu Thạc
Nhân là một tư liệu có thể làm cơ sở cho việc nghiên cứu về người Khơ Me sau này.
- Truyện cổ Cao Miên của Lê Hương là một tuyển tập các truyện dân gian của
người Khơ Me ở Campuchia. Tuyển tập này là một nguồn tư liệu cần thiết cho luận
án trong việc đối chiếu so sánh với các công trình về truyện dân gian Khơ Me Nam
1

Bộ để tìm ra con đường biến đổi của các kiểu truyện của người Khơ Me khi họ đến
sinh cơ, lập nghiệp ở vùng đất mới này.
- Chuyên khảo Người Việt gốc Miên là công trình đầu tiên viết khá đầy đủ và
công phu về người Khơ Me nói chung. Trong chuyên khảo này, Lê Hương có đề cập
đến các thể loại của văn học dân gian như cách ngôn, tục ngữ, ca dao, các truyện thần
thoại. Dù rằng, đây chỉ mới là những khảo cứu ngắn gọn nhưng chúng cũng là những
gợi ý quan trọng cho chúng tôi khi tiến hành đề tài luận án này.
- Cao Tấn Hạp có chuyên khảo Địa phương chí tỉnh Vĩnh Bình (1973) đã cung
cấp thêm một số tư liệu về người Khơ Me và văn học dân gian Khơ Me ở tỉnh Vĩnh
Bình, nay là tỉnh Trà Vinh.
- Tập Truyện cổ Khơ Me Nam Bộ (1983) do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành
(sau được tái bản vào năm 1987 do Hội Văn học Nghệ thuật Cửu Long xuất bản) của
Huỳnh Ngọc Trảng là công trình đầu tiên tập hợp các truyện kể vùng Khơ Me Nam
Bộ. Chúng tôi đã sử dụng tuyển tập này (bản in năm 1983) làm tư liệu tham khảo
chính để khảo sát truyện cổ dân gian người Khơ Me Nam Bộ trong luận án của mình.
- Cuốn Người Khơ Me Cửu Long dành một chương để viết về văn học và nghệ
thuật của người Khơ Me Nam Bộ, trong đó có phần dành cho văn học dân gian nhưng
còn khá sơ sài và chưa thể coi là đại diện cho toàn thể văn học dân gian Khơ Me Nam
Bộ được.
- Cuốn Văn hoá và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long (1990) do nhóm tác giả
Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường chủ biên đã tiếp cận nghiên cứu
người Khơ Me Nam Bộ về nhiều mặt, riêng phần văn học dân gian của người Khơ
Me thì chưa được chú ý nhiều
- Cuốn Văn hoá người Khơ Me ở Đồng bằng sông Cửu Long (1993) do giáo
sư Trường Lưu chủ biên là công trình có giá trị trong việc nhận diện sự biến đổi văn
hoá của người Khơ Me sau gần 30 năm kể từ công trình của Lê Hương. Trong cuốn
sách này, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng đã dành đến 73 trang sách (từ trang 150
đến trang 223) cho phần văn học, trong đó phần văn học dân gian được tác giả viết
sâu sắc và có nhiều kiến giải có giá trị.
- Đoàn Văn Nô với công trình Người Khơ Me Kiên Giang (1995) có cách tiếp
cận văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể của người Khơ Me ở Kiên Giang. Phần viết
về văn học (18 trang, từ 91-109) là một tư liệu tham khảo có giá trị cho người viết.
2

nguon tai.lieu . vn