Xem mẫu

LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------

LƯƠNG THỊ HIỀN

CÁC PHƯƠNG TIỆN NGÔN NGỮ
BIỂU THỊ QUYỀN LỰC TRONG GIAO TIẾP
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành:
Mã số:

Lí luận ngôn ngữ
62.22.01.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI 2013

Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI
VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đỗ Việt Hùng
2. TS. Bùi Thị Minh Yến
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp
tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội

1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ thực tế hệ thống chính trị của Việt Nam, nền hành
chính - hiểu theo nghĩa rộng - không chỉ giới hạn ở công việc của bộ máy
hành pháp, mà còn bao gồm hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các
cơ quan tổ chức lập pháp và tư pháp; trong đó, tòa án có vị trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm.
1.2. Ngôn ngữ hành chính trong các quá trình giao tiếp của các chủ
thể hành chính chưa được các nhà Việt ngữ học quan tâm nhiều; đặc biệt là
ngôn ngữ trong phạm vi giao tiếp pháp đình tiếng Việt hầu như còn bỏ ngỏ.
1.3. Hoạt động của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
trong giao tiếp hành chính tiếng Việt, trường hợp giao tiếp pháp đình cũng
chưa được khai thác một cách hệ thống và toàn diện.
Lựa chọn đề tài "Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
trong giao tiếp hành chính tiếng Việt", trường hợp giao tiếp pháp đình,
chúng tôi mong muốn phần nào khỏa lấp “khoảng trống” đó.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ giao tiếp hành chính
Trong phần này, đối với tình hình nghiên cứu ngoài nước, chúng tôi
sử dụng thuật ngữ ngôn ngữ học pháp luật (forensic linguistics) bởi hướng
nghiên cứu này trên thế giới đã là một phân ngành độc lập. Đối với tình
hình nghiên cứu trong nước, chúng tôi xếp ngôn ngữ pháp luật trong phạm
vi ngôn ngữ hành chính theo truyền thống Việt ngữ học.
Sự phát triển của ngôn ngữ học pháp luật ở Anh, Mĩ và một số nước
Châu Âu có thể phân chia thành hai giai đoạn: 1) Trước năm 1970, ngôn
ngữ được coi là “một khách thể” (as object) để nghiên cứu. Các nhà ngôn
ngữ học chủ yếu tìm hiểu những đặc điểm về ngữ âm, hình thái, từ vựng và
cấu trúc ngữ pháp của các đơn vị ngôn ngữ trong các văn bản quy phạm
pháp luật; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các nhân tố xã hội chưa được
quan tâm. 2) Sau năm 1970, trọng tâm nghiên cứu của ngôn ngữ học pháp
luật chuyển từ dạng văn bản sang tương tác lời nói trong hoạt động tố tụng

2
của tòa án, hoạt động tư vấn của luật sư, hoạt động thẩm vấn, điều tra của
cảnh sát… Theo Liao Meizhen (2004), những nghiên cứu quy vào ba
hướng: (i) Hướng nghiên cứu ngôn ngữ pháp luật như là một diễn trình (as
process): Nhà ngôn ngữ học trực tiếp tham dự và quan sát các hoạt động
pháp luật (xét xử, hòa giải, tư vấn, thẩm vấn…), trên cơ sở đó khám phá
ngôn ngữ pháp luật được sản sinh và được hiểu như thế nào trong tương
tác; (ii) Hướng nghiên cứu ngôn ngữ pháp luật như là một công cụ (as
instrument): Nhà ngôn ngữ tìm hiểu ngôn ngữ được sử dụng như thế nào để
thực thi pháp luật và khám phá biến xã hội - quyền lực - trong mối quan hệ
với ngôn ngữ pháp luật. (iii) Hướng nghiên cứu ngôn ngữ pháp luật như là
nhân chứng chuyên gia (as expert witnesses): Nhà ngôn ngữ học hoạt động
như một nhân viên điều tra, truy tìm dấu vết tội phạm từ những lá thư đe
dọa khủng bố, những mẩu tin điện thoại, thư tuyệt mệnh, lời khai của nghi
can... Kết quả thu được sẽ trở thành bằng chứng tại tòa án.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường xếp ngôn ngữ pháp luật
vào phạm vi giao tiếp hành chính - công vụ với bốn hướng nghiên cứu
chính: 1) Theo hướng phong cách học, các nhà nghiên cứu như Đinh Trọng
Lạc và Nguyễn Thái Hòa (1996), Bùi Minh Toán, Lê A và Đỗ Việt Hùng
(1998), Hữu Đạt (2000), Phạm Tất Thắng (2002), Nguyễn Thị Thanh Hà
(2002), Nguyễn Thị Hường (2010)... xác lập khái niệm và phân loại các loại
văn bản hành chính; xác định chức năng của văn bản hành chính; tìm hiểu
những đặc trưng ngôn ngữ cơ bản, những đặc điểm diễn đạt về từ vựng, ngữ
pháp của các loại văn bản hành chính nói chung; 2) Theo hướng ngữ dụng
học, các công trình nghiên cứu văn bản hành chính của Phan Xuân Dũng
(2008), Vũ Ngọc Hoa (2012)... chủ yếu khai thác hành động ngôn từ
(HĐNT) cầu khiến. 3) Theo hướng ngôn ngữ học xã hội tương tác, Nguyễn
Văn Khang, Nguyễn Thị Thanh Bình, Bùi Minh Yến, Mai Xuân Huy... coi
giao tiếp hành chính là một hành vi xã hội được hiện thực hóa trong mối
quan hệ giữa con người với con người; gắn chặt với quyền lực và nghĩa vụ
của mỗi bên tham gia; 4) Theo hướng phân tích diễn ngôn, các tác giả Lê
Hùng Tiến (1999), Nguyễn Xuân Thơm (2001), Dương Thị Hiền (2008),

3
Nguyễn Thị Hà (2011) tiếp cận ngôn ngữ hành chính từ quan điểm đối
chiếu cấu trúc ở các cấp độ: từ vựng, ngữ pháp và văn bản. Đối tượng ngôn
ngữ pháp luật nhìn chung không được xem xét độc lập mà hòa vào dòng
chảy nghiên cứu ngôn ngữ hành chính tiếng Việt.
2. 2. Tình hình nghiên cứu quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ
Khởi nguồn từ những quan điểm về quyền lực mang tính chính trị xã hội của Foucault và Bourdieu, những nghiên cứu về quyền lực trong
giao tiếp ngôn ngữ trên thế giới phát triển theo bốn hướng chính gồm: ngữ
dụng học, ngôn ngữ học xã hội, phân tích hội thoại và phân tích diễn ngôn
phê phán. Ở Việt Nam, quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ có khi đồng
nhất với vị thế xã hội, có khi được gọi tên trực tiếp trong những công trình
ngôn ngữ theo hướng ngữ dụng học và ngôn ngữ học xã hội.
Các kết quả nghiên cứu trên đã tạo ra những tiền đề để chúng tôi
tiếp tục nghiên cứu, triển khai trong luận án này.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực trong giao tiếp hành
chính tiếng Việt, trường hợp giao tiếp pháp đình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu hội thoại trong 11 phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội từ tháng 6/2010- 8/2012 được quan sát, ghi chép tốc kí và
văn bản hóa với tổng số 6572 lượt lời của các nhân vật giao tiếp (NVGT).
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Xác định đặc điểm của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
trong giao tiếp hành chính tiếng Việt, trường hợp giao tiếp pháp đình để từ
đó xây dựng một khung phân tích phù hợp với loại hình giao tiếp thể chế.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1) Hệ thống hóa những nghiên cứu về ngôn ngữ học pháp luật; về
quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, giao tiếp pháp đình nói

nguon tai.lieu . vn