Xem mẫu

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ NGUYỄN THỊ THANH HIỀN NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN SINH THÁI VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ RA HOA CỦA GIỐNG HOA ĐÀO GL2-2 TẠI MIỀN BẮC VIỆT NAM Chuyên ngành: Khoa học cây trồng Mã số: 62.62.01.10 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÀ NỘI, 2015 Công trình hoàn thành tại: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đoàn Văn Điếm 2. PGS.TS. Đặng Văn Đông Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Minh Tấn Hội Sinh học Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Xuân Linh Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam Phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Lý Viện Di truyền nông nghiệp Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại Học Viện Nông nghiệp Việt Nam Vào hồi ... giờ phút, ngày .... tháng ...... năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại : - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Cây hoa đào (Prunus persia (L.) Batsch) xuất hiện ở Việt Nam đã từ rất lâu. Hoa đào chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống con người, là một loại sản phẩm đặc biệt vừa mang giá trị kinh tế lại vừa có giá trị văn hóa. Những năm gần đây, nghề trồng cây hoa đào ở Việt nam phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Hiệu quả trồng đào làm cảnh cũng tăng lên rõ rệt từ mức thu nhập trung bình đạt 58 triệu đồng/ha/năm vào năm 2005 đến nay (năm 2014) đã đạt mức thu nhập trung bình từ 300 đến 500 triệu đồng/ha/năm (Hữu Khánh, 2014). Trong sản xuất, để đáp ứng được nhu cầu chơi hoa dịp xuân mới, nâng cao hiệu quả kinh tế, người trồng đào cần phải biết được các chỉ tiêu sinh thái và mức độ chi phối của chúng đối với cây đào sẽ giúp chọn địa điểm trồng, thời vụ, điều khiển cho hoa đào nở vào dịp Tết Nguyên đán. Một số nghiên cứu cho rằng, cây đào yêu cầu một “độ lạnh” thích hợp thì mới ra hoa nhưng “độ lạnh” được thể hiện bằng chỉ tiêu nào? Ở nước ta chế độ nhiệt mùa đông đã đáp ứng được yêu cầu về “độ lạnh” của cây đào chưa? Độ dài thời gian có nhiệt độ thấp ảnh hưởng tới sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa đào như thế nào? Các biện pháp kỹ thuật như bón phân, tỉa cành, khoanh vỏ, tuốt lá nhằm điều khiển nở hoa vào dịp Tết Nguyên đán cần phải được tiến hành như thế nào đối với các giống đào mới như đào Phai GL2-2...? Xuất phát từ vấn đề đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài. 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá được ảnh hưởng của điều kiện sinh thái và một số biện pháp kỹ thuật đối với sinh trưởng, phát triển nhằm nâng cao chất lượng hoa của giống đào GL2-2, góp phần bảo tồn và phát triển nghề trồng hoa đào ở Việt Nam. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Xác định được các yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa đào GL2-2. - Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật điều khiển sinh trưởng, phát triển, ra hoa, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất hoa đào ở miền Bắc Việt Nam. 1.3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Đã xác định các yếu tố khí tượng chính chi phối sự sinh trưởng và ra hoa của giống đào GL2-2 tại miền Bắc Việt Nam là nhiệt độ trung bình, số ngày có nhiệt độ nhỏ hơn 150C và 200C, tích ôn hữu hiệu, tổng số giờ nắng và tổng lượng mưa. Tùy theo giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây hoa đào mà mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó thay đổi. - Đã đánh giá được ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật chính như bón phân lót bổ sung, cắt tỉa, khoanh vỏ, tuốt lá đến sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa của giống đào GL2-2 trồng tại Gia Lâm, Hà Nội. Để giống đào GL2-2 ra hoa đúng dịp tết Nguyên đán cần khoanh vỏ trước tết 140-150 ngày và tuốt lá trước tết 50-60 ngày. 1 1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỀN CỦA ĐỀ TÀI 1.4.1. Ý nghĩa khoa học - Cung cấp dẫn liệu khoa học có giá trị về ảnh hưởng của điều kiện khí hậu và những yếu tố sinh thái chi phối chính đối với sinh trưởng, phát triển, ra hoa và chất lượng hoa đào ở miền Bắc Việt Nam. - Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị trong giảng dạy và nghiên cứu cho ngành trồng hoa nói chung và cây hoa đào nói riêng. 1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài - Xác định được những yếu tố sinh thái chi phối chính đối với sinh trưởng, phát triển, ra hoa và chất lượng hoa đào ở một số điều kiện sinh thái miền Bắc, từ đó đề xuất được vùng trồng phù hợp. - Đã đánh giá được ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật chính như bón phân lót bổ sung, cắt tỉa, khoanh vỏ, tuốt lá đến sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa của giống đào GL2-2 trồng tại Gia Lâm, Hà Nội. Từ đó hoàn thiện được quy trình trồng giống hoa đào GL2-2 phổ biến cho sản xuất. 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI - Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái biến động và ảnh hưởng nhiều nhất đối với sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa của cây đào như nhiệt độ trung bình, tích ôn, số ngày có nhiệt độ thấp hơn 150C và 200C, tổng lượng mưa và số giờ nắng. - Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật điều chỉnh sinh trưởng, ra hoa và chất lượng hoa đào GL2-2 tại Gia Lâm, Hà Nội là địa bàn có yêu cầu lớn nhất về hoa đào trong dịp Tết Nguyên Đán. PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI THỰC VẬT HỌC Cây đào có tên khoa học là prunus persica L đào có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo các nhà khảo cổ học về cây cỏ thì người Trung Hoa biết trồng đào ít nhất từ bốn ngàn năm. Đào từ Trung Quốc truyền vào Trung Á (Asie Centrale), vào Ba Tư (Perse tức Iran) theo con đường tơ lụa. Từ thế kỷ thứ III, ông Alexandre Le Grand mang giống đào từ xứ Perse vào Rome và mãi đến thế kỷ XVII, cây đào mới được du nhập vào Châu Mỹ. Các nhà thực vật học đầu tiên tưởng Perse là quê hương của đào, nên đặt cho nó cái tên khoa học là Prunus persica. Sau người ta biết là nhầm nhưng đã quen gọi lâu đời nên vẫn để nguyên tên đó, thay vì phải đổi là Prunus sinensis, họ Rosaces. Cây đào có tên khoa học là prunus persica L thuộc ngành hạt kín, lớp 2 lá mầm, họ hoa hồng, họ phụ mậm, loài prunus persica. Theo Hu and Zhang cho biết ở Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Mỹ đã nghiên cứu có 51 giống đào cảnh, các giống này được phân biệt với nhau bởi màu sắc hoa (trắng, hồng nhạt, hồng, đỏ, đỏ thẫm), kiểu hoa (kiểu hoa đơn, kiểu hoa mai, kiểu hoa cúc, kiểu hoa hồng, kiểu hoa mẫu đơn), màu sắc lá (màu xanh nhạt,màu xanh đậm màu đỏ), kích cỡ lá (nhỏ, trung bình, to), hay dáng cây, theo các phân biệt này có 18-20 loại đào có thân thẳng đứng, có khoảng 10 giống đào lùn (thất thốn), 10 giống cành rủ, 9 giống cành mọc theo hình chóp, ngoài ra còn một số giống đào lai từ các loại này. 2 2.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÂY HOA ĐÀO 2.2.1. Tình hình sản xuất cây hoa đào trên thế giới Trên thế giới, theo số liệu thống kê của tổ chức FAO (2004) cho biết có 71 nước trồng đào, với diện tích 1,4 triệu ha. Trung quốc là nước có diện tích trồng đào lớn nhất thế giới chiếm 44% diện tích trồng của thế giới, sau đó là Italy, Mỹ, Tây Ban Nha, Hy Lạp …. Tuy đào được trồng với một diện tích rất lớn như vậy nhưng nó lại được biết đến là loại cây ăn quả nhiều hơn là cây làm cây cảnh. Đào trồng làm cảnh chỉ phổ biến nhiều ở một số nước như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ. 2.2.2. Tình hình sản xuất hoa đào ở Việt Nam Ở Việt Nam ta cũng chưa ai biết chính xác cây hoa đào được trồng làm cảnh từ bao giờ. Đào được trồng ở nhiều vùng, có thể lấy quả ăn hoặc hoa chơi như đào Sapa, đào Phú Thượng, đào Tây Bắc nhưng nổi tiếng nhất vẫn là đào Nhật Tân. Đào Nhật Tân gắn liền với thành Thăng Long xưa, từ thời Lý, Trần đã thấy đào xuất hiện trong hội họa, thơ ca, sử sách. Trước năm 1945 đào đã được trồng nhiều ở Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, những làng ven sông Hồng, phía tây Bắc của hồ Tây, Hà Nội. Nghề trồng đào bích ở đây được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác và đến nay người dân Nhật Tân đã có kỹ thuật và kinh nghiệm trồng đào rất cao. Tuy nhiên những năm gần đây do quá trình đô thị hoá, đất trồng đào ở Nhật Tân bị thu hẹp lại vì thế những người trồng đào, yêu đào đã bắt đầu phát triển cây đào sang những vùng địa phương khác như Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên…. Hiện nay, hoa đào cũng đã được di thực vào vùng đất ở phía Nam và nở hoa trong điều kiện nắng, gió của đất trời phương Nam. Thay vì phải mua những cành đào ở miền Bắc chuyển vào, người dân các tỉnh phía Nam có thể chọn mua hoa đào tại thành phố Đà Lạt, Đồng Nai. Từ năm 1997, những cây đào Nhật Tân đầu tiên được trồng ở Đà Lạt bởi ông Bùi Văn Lời, đến lúc này vườn đào đã cung ứng cho nhiều địa phương phía nam. Thung lũng hoa đào ra đời từ ý tưởng của ông Bùi Văn Lời ghép cây đào Nhật Tân với cây đào ăn quả của Đà Lạt và cuối cùng ý tưởng đã thành thực tế. 2.3. YÊU CẦU VỀ ĐIỀU KIỆN SINH THÁI CỦA CÂY HOA ĐÀO Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình quang hợp và hô hấp, quyết định đến sự sinh trưởng, phát triển, nở hoa và chất lượng của hoa đào. Nhiệt độ thấp là yếu tố quan trọng nhất đối với đào, đặc biệt là giai đoạn phân hoá mầm hoa (Дроздов., 1989; Shen et al., 1999). Tại Sơn Đông (Trung Quốc) Nhu cầu về “độ lạnh” của đào khoảng 300 đến 500 CU (Chilly Unit). Hu and Dongyan et al., (2007)). Đối với các giống đào cận nhiệt đới yêu cầu số giờ lạnh là 150-250 giờ còn đối với một số giống đào nhiệt đới cần số giờ lạnh là 600 - 1000 giờ (Vũ Công Hậu, 1999). Đào là cây ưa sáng, cần cường độ ánh sáng từ 30.000-72.000 lux, thời gian chiếu sáng từ 6-8 giờ/ngày, vì vậy đào cần trồng ở nơi có nhiều nắng, với sự thông thoáng tốt (Будыко, 1971, Дроздов, 1989; Đoàn Văn Điếm và cs., 2005). 2.4. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐIỀU KHIỂN RA HOA CÙA CÂY HOA ĐÀO 2.4.1. Các mối tương quan sinh trưởng, phát triển của cây Khoanh vỏ hoặc tuốt lá là các biện pháp điều khiển sự ra hoa dựa trên cơ sở khoa học về tương quan sinh trưởng, phát triển giữa các bộ phận trên cây. Theo Hoàng Minh Tấn và cs. (2005), thực vật có các mối tương quan sinh trưởng, phát triển sau đây: - Tương quan kích thích sinh trưởng: khi bộ phận này sinh trưởng sẽ kích thích bộ phận khác sinh trưởng theo (ví dụ: rễ sinh trưởng tốt thì sẽ kích thích thân lá sinh trưởng 3 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn