Xem mẫu

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

NGUYỄN QUỲNH THƠ

THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 62.34.02.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2017

CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIÊN NGÂN HÀNG

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. TÔ KIM NGỌC
Học Viện Ngân Hàng
2. TS. PHÙNG KHẮC KẾ
Ngân Hàng Nhà Nƣớc Việt Nam
Phản biện 1 :

Phản biện 2 :

Phản biện 3 :
Luận án sẽ đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án Học viện
tại Học viện Ngân hàng.
Vào hồi…….. giờ……… ngày……. tháng…… năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại :
- Thƣ viện Học Viện Ngân Hàng
- Thƣ viện Quốc Gia

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN CỦA TÁC
GIẢ ĐƢỢC CÔNG BỐ
TẠP CHÍ KHOA HỌC
1. Tho Quynh Nguyen, Angathevar Baskaran, Mammo Muchie, Ngoc Nguyen (2011), The nature and
growth of foreign direct investment and its impact in Vietnam: A national innovation system
perspective, Research Center on Development and International Relations, Working paper No. 148, DIR
& Department of Culture and Global Studies, Aalborg University, Denmark, ISSN: 0904-8154.
2. PGS. TS Tô Kim Ngọc, Nguyễn Quỳnh Thơ (2016), Hiệu ứng ngưỡng quy mô vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Tạp Chí Nghiên cứu Kinh tế, Viện Kinh tế
Việt Nam – Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Số 11 (462), Tháng 11/2016, ISSN: 0866 7489.
3. Tho Quynh Nguyen, Ngoc Kim To (2017), Threshold effect in the relationship between foreign
direct investment and economic growth: Evidence from ASEAN countries, Asia Pacific Journal of
Advanced Business and Social Studies, Australia, ISBN: 978 0 993656 75. ISSN: 2205-6033. Year
2017. Vol 3. Issue 1.
4. Tho Quynh Nguyen (2017), Evaluation of FDI Policies in Vietnam using FDI Indexes, Asia Pacific
Journal of Advanced Business and Social Studies, Australia, ISBN: 978 0 993656 75. ISSN: 2205-6033.
Year 2017. Vol 3. Issue 1.

HỘI THẢO QUỐC TẾ
1. Tho Quynh Nguyen, Angathevar Baskaran, Mammo Muchie (2011), The nature and growth of
foreign direct investment and its impact in Vietnam: A national innovation system perspective, The 8th
Asialics International Conference, Hanoi, July 2011.
2. Tho Quynh Nguyen & Assoc. Prof. Ngoc Kim To (2016), Threshold effect in the relationship
between foreign direct investment and economic growth: Evidence from ASEAN countries, The 3rd Asia
Pacific Conference on Advanced Research, Melbourne, Australia, July 2016. ISBN: 9780 993656 20.
3. PGS. TS Tô Kim Ngọc, Nguyễn Quỳnh Thơ (2016), Hiệu ứng ngưỡng quy mô vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Phát triển thị trƣờng tài
chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Hà Nội, Tháng 10/2016.
4.Tho Quynh Nguyen (2016), Evaluation of FDI Policies in Vietnam using FDI Indexes, The 2nd Asia
Pacific Conference on Contemporary Research, Kuala Lumpur, Malaysia, November 2016. ISBN: 9780
994365 606. (Best paper in the conference).

-1-

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Đối với những nƣớc đang phát triển với nguồn tích lũy vốn nội bộ trong nền kinh tế còn thấp nhƣ
Việt Nam, việc thu hút vốn từ bên ngoài, trong đó có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài FDI, là rất cần thiết cho
đầu tƣ phát triển. FDI đƣợc coi là cú huých nhằm giúp Việt Nam thoát khỏi "vòng luẩn quẩn" về kinh tế.
Trong nhiều năm, Việt Nam luôn duy trì tăng trƣởng ở mức cao, tốc độ tăng trƣởng kinh tế trung bình giai
đoạn 2005 – 2015 đạt 6,25% (World Bank, 2016). Trong đó, yếu tố vốn đóng góp đến hơn 60% GDP (APO,
2015). Thực tế cho thấy, vốn FDI ngày càng bộc lộ tính hai mặt rất rõ rệt đối với nền kinh tế xã hội. Một
mặt, vốn FDI đã và đang là một nguồn bổ sung rất quan trọng cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tƣ phát
triển và tăng trƣởng kinh tế. Việc thu hút nguồn vốn FDI đã tạo thêm những ngành công nghiệp mới, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho Việt Nam, giúp cải thiện kim ngạch xuất khẩu, và cơ sở hạ tầng của
Việt Nam. Mặt khác, FDI làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, chuyển giao công
nghệ lạc hậu, lấn áp doanh nghiệp trong nƣớc... Nhìn thẳng vào kết quả thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam,
có thể thấy rằng hoạt động thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam chƣa đạt đƣợc những kết quả nhƣ kỳ vọng,
Xét riêng yếu tố vốn đóng góp vào tăng trƣởng kinh tế, có đến 90% là vốn không đi kèm công nghệ
(non-IT capital), cho thấy tăng trƣởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc phần lớn vào yếu tố tài chính mà chƣa
khai thác đƣợc sức mạnh đòn bẩy từ các yếu tố khác nhƣ chất lƣợng nguồn nhân lực, các nhân tố sản xuất
(đất đai, công nghệ), năng lực đổi mới, sáng tạo công nghệ còn yếu.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa sản xuất và hàng hóa xuất khẩu cũng chƣa đƣợc cải thiện nhiều. 80%
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đƣợc xuất khẩu từ khu vực FDI nhƣng hầu hết là những mặt hàng
truyền thống, nguyên liệu thô hoặc sơ chế, giá trị gia tăng không cao, hàng gia công. Việt Nam vẫn chủ yếu
khai thác nguồn lực có sẵn (nghĩa là dựa trên lợi thế tĩnh) nhƣ khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng lao
động sẵn có mà chƣa khai thác tối ƣu lợi thế động. Nhiều mặt hàng nặng về sử dụng nhiều lao động giản đơn
hay khai thác tài nguyên nên giá trị và khả năng cạnh tranh thấp. Mặt khác, mặc dù FDI đã góp phần làm
tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhƣng kim ngạch nhập khẩu của khu vực này cũng tăng nhanh
không kém. Tỷ trọng nguyên liệu nhập trong sản xuất của khu vực FDI rất cao, chiếm đến hơn 90%. Điều
này khiến cho cán cân thƣơng mại của khu vực FDI trong thời gian dài bị thâm hụt, những năm gần đây
(2012 đến nay) đã có sự cải thiện nhƣng không đáng kể.
Ngoài ra, tốc độ phát triển khu vực công nghiệp phụ trợ FDI còn thấp. Khu vực công nghiệp phụ trợ
còn rất sơ khai, mới chỉ sản xuất linh kiện đơn giản với giá trị nội địa hóa rất nhỏ, tham gia một khâu rất nhỏ
hoặc thậm chí không thể tham gia vào chuỗi sản xuất trong nƣớc và toàn cầu. Hơn nữa, việc gắn kết giữa thu
hút FDI với chuyển giao công nghệ kỹ thuật tiến bộ, đảm bảo công bằng xã hội còn chƣa chặt chẽ. Do đó,
Việt Nam đã và đang phải đánh đổi việc thu hút lƣợng vốn FDI khổng lồ với các vấn đề nảy sinh trong kinh
tế - xã hội nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, thất nghiệp, phân hóa xã hội, phân hóa vùng miền, lấn át doanh nghiệp
trong nƣớc...

-2-

Điều này thể hiện một sự mất cân đối trong hệ thống chính sách FDI của Việt Nam, trong đó ƣu tiên
thu hút về số lƣợng mà chƣa đảm bảo về chất lƣợng nguồn vốn. Thực tế cho thấy, kể từ khi ban hành Luật
Đầu tƣ nƣớc ngoài năm 1987 đến nay, Việt Nam theo đuổi chính sách FDI ở cả 3 cấp độ: thu hút FDI, nâng
cấp FDI, tạo mối liên kết giữa doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên, khi đánh giá tính hiệu lực và
hiệu quả của các chính sách FDI của Việt Nam, kết quả cho thấy Việt Nam mới chủ yếu tập trung vào cấp độ
chính sách đầu tiên – thu hút FDI, trong khi các cấp độ chính sách khác chƣa thực sự đƣợc quan tâm, khiến
hiệu lực thực thi hoặc/và hiệu quả chính sách chƣa cao.
Trong bối cảnh việc thu hút FDI còn có những tranh luận trái chiều ở cả giới chuyên gia và các nhà
làm chính sách do tính hai mặt của bản thân nguồn vốn, trong Nghị Quyết Đại hội Đảng Khóa 12 (Tháng
1/2016) đã thông qua phƣơng hƣớng nhiệm vụ của toàn xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020, tầm nhìn tới
2030 với mục tiêu “đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển nhanh, bền vững, sớm đưa Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới”.
Để đạt đƣợc mục tiêu này, FDI đƣợc dự đoán sẽ vẫn là một trong những bộ phận quan trọng. Theo
Bộ Kế Hoạch và Đầu Tƣ (2016), để đạt mục tiêu GDP bình quân đầu ngƣời đạt 3.200 - 3.500 USD vào năm
2020, và vốn đầu tƣ toàn xã hội đạt 32 - 34% GDP thì trung bình hàng năm Việt Nam cần khoảng 90 tỷ USD
vốn đầu tƣ xã hội. Trong khi nguồn vốn tích lũy nội địa còn hạn chế thì Việt Nam đang cố gắng hết mức tận
dụng nguồn vốn bên ngoài nhƣ ODA, vay thƣơng mại, và FDI. Theo kinh nghiệm thu hút vốn đầu tƣ trong
gần 30 năm qua ở Việt Nam, 70% vốn đầu tƣ xã hội là nguồn vốn trong nƣớc (vốn ngân sách, vốn doanh
nghiệp nhà nƣớc, vốn doanh nghiệp tƣ nhân và dân cƣ), 30% là nguồn vốn ngoại (bao gồm viện trợ phát triển
ODA, FDI và các nguồn vốn nƣớc ngoài khác). Với tỷ lệ này, trong giai đoạn 2016 – 2020 trung bình hàng
năm sẽ phải huy động khoảng 23 – 25 tỷ USD vốn nƣớc ngoài, trong đó 17 – 18 tỷ USD là FDI. Hơn nữa,
ODA ngày một giảm dần và không đƣợc ƣu đãi nhƣ trƣớc, khi Việt Nam đã gia nhập nhóm nƣớc có thu nhập
trung bình. Dự kiến đến năm 2018, World Bank sẽ chấm dứt cung cấp nguồn vốn vay ODA đối với Việt
Nam, còn vay thƣơng mại hiện không đáng kể. Điều đó cũng có nghĩa để bù đắp việc giảm ODA, vốn FDI
và vốn đầu tƣ gián tiếp sẽ đƣợc coi trọng hơn.
Chính bởi vị trí quan trọng và không thể thay thế của nguồn vốn FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
nhƣ vậy, cần có một công trình nghiên cứu sâu và toàn diện thực trạng thu hút và sử dụng FDI cũng nhƣ hệ
thống chính sách FDI của Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời xác định mức độ thu hút FDI phù hợp để
tối ƣu hóa lợi ích thu đƣợc từ nguồn vốn này. Xuất phát từ thực tiễn này, đề tài nghiên cứu “Thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” đƣợc thực hiện.
2. Khoảng trống nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc, có thể thấy rằng, tuy chủ đề thu hút
vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài không phải là một vấn đề mới, nhƣng vẫn có những khoảng trống nghiên
cứu để tiếp tục đào sâu nghiên cứu:
Thứ nhất, hiện có rất ít nghiên cứu tiếp cận hệ thống chính sách FDI theo ba cấp độ: chính sách thu
hút FDI, chính sách nâng cấp FDI, chính sách tạo mối liên kết giữa doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Ở

nguon tai.lieu . vn