Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH MAI BÌNH DƢƠNG TÁC ĐỘNG CỦA VỐN CHỦ SỞ HỮU, RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 62.34.02.01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Ngọc Thạch TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
  2. CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống NHTM đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi nền kinh tế, góp phần thu hút vốn và cung ứng các khoản tín dụng. Hoạt động kinh doanh của NHTM phải luôn đảm bảo tính ổn định, an toàn và sinh lợi. Cùng với thị trường vốn thông qua thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư…) thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt động kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại. Ngoài ra, NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng thương mại nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả. Vì vậy, ổn định hệ thống NHTM đóng vai trò quan trọng trong đối với hệ thống tài chính Việt Nam. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008- 2009, đã có nhiều chuyên gia quan tâm nghiên cứu bất ổn tài chính có thể dẫn đến nguy cơ phá sản trên nhiều lĩnh vực như Altman (1968), Altman & ctg (1977), Zavgren (1985). Riêng trong lĩnh vực ngân hàng có các nghiên cứu của Boyd & Graham (1986),
  3. De Nicolo (2000), Hesse & Cihak (2007), Soedarmono & ctg (2011), Rahman & ctg (2012), Fu & ctg (2014), Chiaramonte & ctg (2015), Strobel (2015). Các nghiên cứu này tìm thấy tác động của nhiều yếu tố đến sự ổn định tài chính của các NHTM. Tuy nhiên, một vấn đề đang được tranh luận là tác động của vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM. Về mặt lý thuyết, vốn chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng đối với một ngân hàng. Vốn chủ sở hữu không chỉ tài trợ cho các khoản đầu tư của ngân hàng mà còn giúp các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh, gia tăng năng lực canh tranh và đảm bảo uy tín của ngân hàng. Bên cạnh đó, lý thuyết cũng cho thấy rủi ro tín dụng xảy ra sẽ ảnh hưởng ngay đến thu nhập của các NHTM. Từ đó, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các NHTM, tạo nên sự bất ổn định. Một số nghiên cứu của Furlong và Keeley (1989), Keeley (1990), Van và Roy (2003), Jacob Oduor và cộng sự (2017) cho thấy rằng vốn chủ sở hữu giúp giảm thiểu rủi ro và gia tăng sự ổn định tài chính của các ngân hàng. Mặt khác, các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy rủi ro tín dụng mà các ngân hàng gặp phải với các khoản vay đã dẫn đến tình trạng mất thanh khoản của ngân hàng và đẩy ngân hàng đến tình trạng phá sản. Kết quả này cũng được ủng hộ bởi nghiên cứu gần đây của Björn Imbierowicz và Christian Rauch (2013). Tại Việt Nam, kể từ sau khủng hoảng 2008 - 2009, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang dần hồi phục nhờ những nỗ lực tích cực trong xử lý nợ xấu của từng ngân hàng nói riêng và Chính phủ nói chung. Nhìn lại những bất ổn của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua có thể thấy vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đóng một vai trò quan trọng. Do đó, có thể nói trong bối cảnh Việt Nam hiện nay việc xem xét tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua. Bởi vì, việc xác định mức độ và chiều hướng tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng sẽ giúp cho việc xây dựng các chính sách quản trị ngân hàng phù hợp và bền vững.
  4. Xuất phát từ lý do trên, đề tài “Tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam” là cần thiết. 1.2. Khe hở nghiên cứu Dựa trên kết quả quá trình khảo sát các nghiên cứu thực nghiệm sẽ được trình bày phía sau, nghiên cứu kỳ vọng có thể lấp đầy một số khoảng trống nghiên cứu sau: Thứ nhất, dựa trên cơ sở nghiên cứu trước cho thấy các nghiên cứu đã rất quan tâm tới vấn đề tác động của cả vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM. Tuy nhiên các nghiên cứu đi theo hai hướng khác nhau: hướng thứ nhất nghiên cứu về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các NHTM như: của Jacob Oduor và cộng sự (2017), Aggrawal và Jacques (2001); Rime (2001); Godlewski (2004); Hakenes và Schnabel (2010); Abba và cộng sự (2013); Vũ Thị Hồng (2015); Lê Thanh Ngọc và cộng sự (2015)...hướng thứ hai nghiên cứu tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Björn Imbierowicz và Christian Rauch (2013); Beck & ctg (2009); Consuelo Silva Buston (2012). Các nghiên cứu thực nghiệm trong nước nhằm đo lường mức độ tác động của cả vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam còn rất hạn chế. Thứ hai, các lý thuyết nghiên cứu về tác động của vốn chủ sở hữu tới đến sự ổn định tài chính của ngân hang cho thấy nhiều mâu thuẫn. Hướng thứ nhất, lý thuyết chỉ ra gia tăng vốn chủ sở hữu sẽ làm giảm lợi nhuận từ đó giảm sự ổn định tài chính của ngân hàng. Quan điểm này bắt nguồn từ các tranh luận xung quanh lý thuyết về cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (1958). Modigliani và Miller (1958) cho rằng cấu trúc vốn không có ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Hướng thứ hai, vốn chủ sở hữu cao hơn sẽ giúp các ngân hàng có những lựa chọn tốt hơn trong hoạt động kinh doanh đồng thời kiểm soát tốt hơn hoạt động tín dụng từ đó gia tăng sự ổn định tài chính của ngân hàng (Jensen và Meckling, 1976). Các lý thuyết này cho thấy, các chiều hướng tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn
  5. định tài chính của ngân hàng theo từng giai đoạn thời gian, và có khả năng tồn tại tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam là tác động phi tuyến và có hình chữ U ngược. Điều này ngụ ý rằng việc gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu có thể giúp làm gia tăng sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam nhưng chỉ đến một mức tỷ lệ nhất định nào đó. Nếu tỷ lệ vốn chủ sở vượt qua mức này thì việc gia tăng vốn chủ sở hữu lại có thể làm giảm sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam do hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm sút. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tại điểm đảo chiều sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam chính là tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối ưu, mà tại mức tỷ lệ này sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam là cao nhất. Cần một nghiên cứu chứng minh tồn tại tác động phi tuyến này và tìm ra ngưỡng vốn chủ sở hữu tối ưu giúp làm tăng sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam. Thứ ba, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào những năm 2008 và 2009 đã làm kinh tế các quốc gia đang bị suy giảm mạnh. Tại Việt Nam, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng đã và đang ảnh hưởng không nhỏ: trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài có khả năng thu hồi vốn và bán chứng khoán ra. Do đó, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Xuất khẩu sẽ suy giảm, điều này vừa ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế, thâm hụt thương mại; vừa làm tăng lao động mất việc, tác động tiêu cực đến thị trường sức lao động; thị trường bất động sản sẽ có xu hướng đình trệ và sự đình trệ của thị trường này sẽ tác động tiêu cực đến các thị trường khác. Một số ngân hàng mất khả năng thanh khoản, rút lại tín dụng dẫn đến các doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn; lãi suất tăng, tăng chi phí vốn, vì vậy ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh (Đinh Sơn Hùng, 2010). Các nghiên cứu thực nghiệm của Consuelo Silva Buston (2012); Jacob Oduor và cộng sự (2017) cho thấy dưới ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đã làm thay đổi tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng. Tuy nhiên các nghiên cứu trong nước, chưa có nghiên cứu nào so sánh sự thay đổi của tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của
  6. NHTM Việt Nam trong và sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào giai đoạn 2008 – 2009. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu có mục tiêu tổng quát là đánh giá tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam, trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp, kiến nghị giúp gia tăng sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam. Ngoài ra, với kỳ vọng lấp đầy khe hở nghiên cứu tại Việt Nam, nghiên cứu còn tiến hành: (i) kiểm tra có hay không sự tồn tại tác động phi tuyến của vốn chủ sở hữu đối với sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam và nếu có, tìm ta ngưỡng vốn chủ sở hữu tối ưu mà tại đó mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam là cao nhất và (ii) so sánh sự thay đổi của tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam trong và sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào giai đoạn 2008 – 2009. Để đạt được mục tiêu tổng quát, luận án tập trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau: - Đo lường mức độ ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008- 2016; - Nghiên cứu các chiều hướng tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam; - Đo lường và đánh giá mức độ tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam; - Kiểm tra có hay không sự tồn tại tác động phi tuyến của vốn chủ sở hữu đối với sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam và nếu có, tìm ta ngưỡng vốn chủ sở hữu tối ưu mà tại đó mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam là cao nhất - So sánh sự thay đổi của tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam trong và sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào giai đoạn 2008 – 2009.
  7. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm gia tăng sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam. 1.4. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận án trả lời các câu hỏi sau: - Mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam giai đoạn 2008- 2016 như thế nào? - Các chiều hướng tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính NHTM Việt Nam ra sao? - Mức độ tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam là bao nhiêu? - Có hay không sự tồn tại tác động phi tuyến của vốn chủ sở hữu đối với sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam? và nếu có, ngưỡng vốn chủ sở hữu tối ưu cụ thể là bao nhiêu mà tại đó mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam là cao nhất? - Tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam trong và sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào giai đoạn 2008 – 2009 khác nhau như thế nào? - Nhằm gia tăng sự ổn định tài chính, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần thực hiện những giải pháp, kiến nghị nào? 1.5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đối với ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tiến hành tại 24 NHTM cổ phần tại Việt Nam. Nghiên cứu muốn bao quát hết các NHTM Việt Nam tuy nhiên do dữ liệu sử dụng để tính toán các biến số trong mô hình nghiên cứu được lấy chủ yếu từ báo cáo tài chính của ngân hàng đã được kiểm toán nên việc thu thập dữ liệu bị hạn chế. Cụ thể số liệu công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các ngân hàng thương mại hầu hết có chỉ có từ năm 2008 trở về sau. Do đó, tác giả chọn giai
  8. đoạn nghiên cứu từ năm 2008 đến năm 2016 với 24 NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó do đề tài có xem xét giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới 2008- 2009 nên việc chọn giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2016 là phù hợp do xem xét được cuộc khủng hoảng 2008 - 2009. 1.6. Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu Dữ liệu nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng các số liệu vi mô của 24 NHTM Việt Nam bao gồm: ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam; ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam; ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam; ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam; ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín; ngân hàng TMCP Sài Gòn; ngân hàng TMCP Quân đội; ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam; ngân hàng TMCP Á Châu; ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP HCM; ngân hàng TMCP Quốc Dân; ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội; ngân hàng TMCP Đông Nam Á; ngân hàng TMCP Quốc tế; ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng; ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam; ngân hàng TMCP Phương Đông Việt Nam; ngân hàng TMCP Kiên Long; ngân hàng TMCP Nam Á; ngân hàng TMCP Việt Á; ngân hàng TMCP An Bình; ngân hàng TMCP Bản Việt; ngân hàng TMCP Dầu Khí; ngân hàng TMCP Tiên Phong. Nguồn dữ liệu: dữ liệu được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy như: Ngân hàng Nhà nước VN, Tổng cục thống kê VN (GSO), Báo cáo tài chính năm của 24 NHTM Việt Nam. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp định lượng dựa trên các nghiên cứu của Björn Imbierowicz và Christian Rauch (2013), Jacob Oduor và cộng sự (2017) nhằm xây dựng mô hình thể hiện tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam bằng phần mềm Stata với dữ liệu Panel Data. Mô hình nghiên cứu có dạng như sau: (1)
  9. Trong đó: là chỉ số ổn định tài chính của ngân hàng i tại thời gian t. Xit là biến độc lập đại diện cho vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng của ngân hàng. là vector các biến kiểm soát ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng, bao gồm cả biến vĩ mô lẫn vi mô của mỗi ngân hàng. Di,t là biến giả đại diện cho các giai đoạn khủng hoảng. Mô hình nghiên cứu đươc tác giả đề xuất trên cơ sở các nghiên cứu đã thực hiện tại các quốc gia trên thế giới. Tác giả sử dụng các hồi quy phổ biến là: Phương pháp ước lượng dành cho dữ liệu bảng như tác động cố định (Fixed Effects), tác động ngẫu nhiên (Random Effects), Kiểm định Hausman là một trong những phương pháp để lựa chọn giữa random effects hay fixed effects; Nếu mô hình được chọn có xảy ra hiện tượng tự tương quan hay phương sai thay đổi qua các thực thể, tác giả sử dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (Feasible General Least Square – FGLS) để khắc phục hiện tượng này. Mô hình đo tác động của vốn chủ sở hữu lên rủi ro mất khả năng thanh khoản tại Ngân hàng thương mại Việt Nam bằng phần mềm Stata với dữ liệu bảng (Panel Data). Bên cạnh các phương pháp ước lượng trên, nghiên cứu cũng thực hiện hồi quy các mô hình bằng phương pháp SGMM cho dữ liệu bảng. Phương pháp SGMM là phương pháp cải tiến của Arellano & Bond (1991) và Blundell & Bond (1998) được sử dụng phổ biến trong các ước lượng dữ liệu bảng động tuyến tính hoặc các dữ liệu bảng vi phạm tính chất HAC (heteroskedasticity and autocorrelation- phương sai thay đổi và tự tương quan). Khi đó các ước lượng tuyến tính cổ điển của mô hình dữ liệu bảng như FE (fixed effects), RE (random effects), LSDV (least squares dummy variable) sẽ không còn là ước lượng hiệu quả, tin cậy, phương pháp GMM là phương pháp thích hợp được lựa chọn sử dụng thay thế. Nhằm kiểm định các tính xác định của các ràng buộc, Hansen (1982) được sử dụng để kiểm định tính hợp lý cho các biến công cụ. Để kiểm định tự tương quan bậc 2, chúng ta sử dụng kiểm định Arellano-Bond.Các kiểm định độ tin cậy của mô hình đã được tác giả thực hiện bao gồm:
  10. Kiểm định sự tự tương quan của phần dư: Theo Arellano & Bond (1991), ước lượng GMM yêu cầu có sự tương quan bậc 1 và không có sự tương quan bậc 2 của phần dư. Do vậy, khi kiểm định giả thuyết H0: không có sự tương quan bậc 1 (kiểm định AR(1)) và không có sự tương quan bậc 2 của phần dư (kiểm định AR(2)), chúng ta bác bỏ H0 ở kiểm định AR (1) và chấp nhận H0 ở kiểm định AR (2) thì mô hình đạt yêu cầu. Kiểm tra tính phù hợp của mô hình và các biến đại diện: Tương tự các mô hình khác, sự phù hợp của mô hình có thể được thực hiện thông qua kiểm định F. Kiểm định F sẽ kiểm tra ý nghĩa thống kê cho các hệ số ước lượng của biến giải thích với giả thuyết H0: tất cả các hệ số ước lượng trong phương trình đều bằng 0, do đó để mô hình phù hợp thì phải bác bỏ giả thuyết H0. Ngoài ra, kiểm định Sargan/Hansen còn được sử dụng để kiểm tra giả thuyết H0: các biến công cụ là phù hợp. Khi chấp nhận giả thuyết H0 nghĩa là các biến công cụ được sử dụng trong mô hình là phù hợp. 1.7. Đóng góp khoa học của đề tài nghiên cứu  Về mặt lý luận Nghiên cứu hệ thống cơ sở phương pháp luận về vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng và sự ổn định tài chính của ngân hàng đồng thời phân tích tác động của vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng gắn với bối cảnh khủng hoảng tài chính thế giới và ảnh hưởng của nó đến hệ thống ngân hàng trong nước.  Về mặt phƣơng pháp Thứ nhất, tác giả đã đánh giá ảnh hưởng của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam bằng phương pháp nghiên cứu định lượng cùng với sự hỗ trợ của phần mềm Stata 12.0. Sử dụng dữ liệu bảng với các phương pháp tác động ngẫu nhiên (Random Effects) và tác động cố định (Fixed Effects). Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa Random Effects và Fixed Effects. Tác giả sử dụng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát
  11. khả thi (Feasible General Least Square – FGLS) để khắc phục hiện tượng tự tương quan hay phương sai thay đổi qua các thực thể nếu có. Bên cạnh đó việc ước lượng bằng phương pháp GMM hệ thống (System General Method of Moments) cũng được sử dụng nhằm đảm bảo các kết quả thu được đáng tin cậy. Thứ hai, nghiên cứu cũng mở ra định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo. Nghiên cứu của tác giả sử dụng mô hình định lượng tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính tại các NHTM Việt Nam. Các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục mở rộng nghiên cứu này theo hai hướng bằng cách mở rộng chiều rộng hoặc chiều sâu của nghiên cứu. Về mặt chiều chiều sâu, nghiên cứu tiếp theo có thể gia tăng kích thước mẫu tại các quốc gia và vùng khu vực khác như ASEAN, CHÂU Á, ....và sử dụng các công cụ định lượng đo lường khác nhằm kiểm định tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính tại các NHTM. Về mặt chiều rộng, các nghiên cứu tiếp theo có thể tiến hành kiểm tra các tác động của yếu tố khác đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam như: rủi ro mất khả năng thanh khoản, quản trị tài chính, tỷ lệ vốn hóa, lợi nhuận,...  Ý nghĩa về mặt thực tiễn Thứ nhất, dựa trên cơ sở nghiên cứu của Jacob Oduor và cộng sự (2017), Björn Imbierowicz và Christian Rauch (2013)..., nghiên cứu sử dụng các mô hình kinh tế lượng đã tiến hành đo lường mức độ tác động kết hợp của cả vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam. Kết quả ước lượng cho thấy, hệ số hồi quy của các biến vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu gia tăng sẽ làm gia tăng sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam, và rủi ro tín dụng gia tăng sẽ làm giảm sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam. Đây là một đóng góp về mặt thực nghiệm bổ sung cho các nghiên cứu thực nghiệm trong nước còn rất hạn chế khi nghiên cứu về vấn đề này. Thứ hai, kết quả nghiên cứu là bằng chứng thực nghiệm về các chiều hướng tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của ngân hang theo từng giai
  12. đoạn thời gian, kết quả nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa hai biến số này cho thấy tác động của tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQTA) đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam là tác động phi tuyến và có hình chữ U ngược. Điều này ngụ ý rằng việc gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQTA) có thể giúp làm gia tăng sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam nhưng chỉ đến một mức tỷ lệ nhất định nào đó. Nếu tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQTA) vượt qua mức này thì việc gia tăng vốn chủ sở hữu lại có thể làm giảm sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam do hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm sút. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản tại điểm đảo chiều sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam chính là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản tối ưu, mà tại mức tỷ lệ này sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam là cao nhất. Thứ ba, nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến sự ổn định tài chính của ngân hàng, kết quả nghiên cứu ý nghĩa thống kê ở mức 5% và mang dấu âm, cho thấy rằng trong điều kiện khủng hoảng sẽ làm gia tăng sự bất ổn định của các NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra ảnh hưởng cụ thể của vốn chủ sở đến sự ổn định tài chính của các NHTM dưới ảnh hưởng của điều kiện khủng hoảng: trong thời kỳ khủng hoảng, sự gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản sẽ làm gia tăng sự bất ổn định của các NHTM Việt Nam. Thứ tư, bên cạnh việc tìm kiếm bằng chứng về tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng, nghiên cứu còn xem xét tác động này trong điều kiện khủng hoảng tài chính vào những năm 2008 và 2009. Kết quả hồi quy cho thấy, hệ số hồi quy của biến khủng hoảng có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và mang dấu âm cho thấy rằng trong điều kiện khủng hoảng, tác động ngược chiều của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam trong điều kiện khủng hoảng và chỉ số Z-score: sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ sẽ làm giảm sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam khi các yếu tố khác
  13. không đổi, điều này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước của các quốc gia trên thế giới. Cuối cùng, thông qua kết quả ước lượng của mô hình hồi quy, tác giả đã đề xuất những kiến nghị quản trị vốn, quản trị rủi ro tín dụng cho các NHTM Việt Nam nhằm gia tăng sự ổn định tài chính của các NHTM. 1.8. Kết cấu luận án. Để thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu, không kể mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục, luận án được thiết kế thành 5 chương, bao gồm các nội dung chính như sau: - Chương 1: Giới thiệu chung - Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại. - Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu - Chương 4: Kết quả nghiên cứu tác động của vốn chủ sở hữu và rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam. - Chương 5: Kết luận và giải pháp tăng cường sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ RỦI RO TÍN DỤNG VỚI SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI. 2.1. Lý luận về vốn chủ sở hữu của ngân hàng thƣơng mại 2.1.1. Khái niệm vốn chủ sở hữu của ngân hàng thƣơng mại Đối với các NHTM, về cơ bản, theo nghĩa hẹp, vốn chủ sở hữu là khoản tiền mà các cổ đông, các chủ sở hữu đóng góp (vốn thực góp) để được hưởng các thu nhập của ngân hàng trong tương lai. Theo nghĩa rộng, vốn chủ sở hữu ngân hàng được nhìn nhận như các khoản nguồn vốn của chủ ngân hàng dành cho việc hỗ trợ các hoạt động ngân hàng. Định nghĩa như vậy bao gồm các quỹ dự trữ của ngân hàng và được gọi là nguồn vốn của các cổ đông. Trải qua quá trình hoạt động, vốn chủ sở hữu có thể tích tụ tăng lên hoặc giảm xuống. Tuy nhiên đối với
  14. các nhà quản lý Nhà nước, vấn đề về tính đầy đủ của vốn ngân hàng là trọng yếu, đặc biệt sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến một trong những giải pháp mà chính phủ một số nước hay sử dụng để cứu vãn hệ thống ngân hàng là cứu trợ và quốc hữu hóa, sử dụng nguồn vốn của chính phủ để cứu vãn sự sụp đổ của các ngân hàng. 2.1.2. Thành phần vốn chủ sở hữu của ngân hàng thƣơng mại 2.2. Lý luận về rủi ro tín dụng tại ngân hàng thƣơng mại 2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra do khách hàng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy đủ hoặc đúng hạn theo cam kết. Rủi ro tín dụng chính là khả năng xảy ra sự khác biệt không mong muốn giữa thu nhập thực tế và thu nhập kỳ vọng đúng hạn, nhận được đầy đủ gốc và lãi dẫn đến tổn thất tài chính tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong các loại rủi ro đối với hoạt động ngân hàng, TCTD phải đối mặt nhiều nhất là rủi ro tín dụng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, TCTD sẽ không thể thu hồi đầy đủ và đúng hạn các khoản tín dụng đã cấp do khách hàng không trả đầy đủ những khoản nợ đối với TCTD theo đúng cam kết, dù với bất kì lí do gì gây nên những thiệt hại đối với TCTD, làm mất mát nguồn vốn và suy giảm khả năng chi trả và khả năng thanh toán các khoản nợ. 2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng Theo Rose (2012), căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
  15. 2.2.3. Đo lƣờng rủi ro tín dụng tại ngân hàng thƣơng mại Đo lường rủi ro trong hoạt động tín dụng là việc tính toán ra con số cụ thể về mức độ rủi ro mà ngân hàng đang đối mặt và những tổn thất mà nó gây ra. Có rất nhiều phương pháp để đo lường rủi ro tín dụng, một số phương pháp tiêu biểu gồm: Phương pháp đo lường rủi ro tín dụng dựa trên mức dự phòng (Bangladesh Bank, 2010). Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ - IRB (Basel II). Do khó khăn trong việc thu thập dữ liệu nên rủi ro tín dụng trong nghiên cứu này được tác giả tính toán theo phương pháp đo lường rủi ro tín dụng dựa trên mức dự phòng. Như vậy, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ sẽ được tác giả sử dụng để đại diện cho rủi ro tín dụng. 2.3. Cơ sở lý luận về ổn định tài chính của ngân hàng thƣơng mại 2.3.1. Khái niệm về ổn định tài chính  Khái niệm về ổn định tài chính Nhìn chung, các nghiên cứu trước có hai cách tiếp cận, hoặc là “ổn định tài chính”, hoặc là “bất ổn tài chính” và bất ổn tài chính là trạng thái ngược lại với ổn định tài chính. Xét ở góc độ vĩ mô, ổn định tài chính là tình trạng mà hệ thống tài chính vận hành trơn tru, thực hiện tốt các chức năng của nó, có khả năng hứng chịu các cú sốc từ bên ngoài, và tự bản thân nó không gây ra cú sốc ảnh hưởng đến nền kinh tế. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp hơn, ổn định tài chính của một tổ chức tài chính là trạng thái mà tổ chức đó vận hành trơn tru, thực hiện tốt các hoạt động, chức năng của nó, do đó hiệu quả mang lại là khá và ổn định, có khả năng hứng chịu được cú sốc từ môi trường bên ngoài. 2.3.2 Khái niệm về sự ổn định tài chính của ngân hàng Sự ổn định tài chính của các NHTM đạt được khi các ngân hàng hoạt động một cách trơn tru, không bị tác động bởi những tác nhân không mong muốn ở hiện tại và trong tương lai, vững vàng trước những cú sốc kinh tế. Sự ổn định tài chính
  16. của các ngân hàng có thể bị gián đoạn bởi sự vận hành của các yếu tố tài chính bên trong và những cú sốc mạnh dẫn đến xuất hiện những lỗ hổng. Những cú sốc có thể đến từ môi trường bên ngoài, các nhân tố vĩ mô, vai trò của các chủ nợ và con nợ trong các ngân hàng, các chính sách hay sự thay đổi môi trường thể chế… Bất kỳ sự tác động nào của các cú sốc đến các lỗ hổng có thể dẫn đến sự sụp đổ của các NHTM và làm gián đoạn chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh toán của các ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, nó có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và những hệ lụy cho nền kinh tế. 2.3.3. Tầm quan trọng của ổn định tài chính ngân hàng 2.3.4. Phƣơng pháp đo lƣờng sự ổn định tài chính của ngân hàng Việc tìm ra một phương pháp để đo lường sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng và dự báo trước những bất ổn có thể dẫn đến nguy cơ phá sản luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu về lĩnh vực tài chính. Trong lịch sử, có nhiều phương pháp đã được nghiên cứu phát triển để làm việc này, có thể kể đến như:  Phƣơng pháp đo lƣờng sự ổn định tài chính bằng mô hình Merton  Phƣơng pháp đo lƣờng sự ổn định bằng mô hình CAMEL  Phƣơng pháp đo lƣờng sự ổn định tài chính bằng chỉ số Z-score 2.4. Lý thuyết về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của ngân hàng Các tranh luận về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của ngân hàng trong thời gian gần đây đã hình thành 02 quan điểm lý thuyết về tác động này (Thakor, 2014). 2.4.1. Lý thuyết gia tăng vốn chủ sở hữu làm giảm sự ổn định tài chính của ngân hàng Quan điểm lý thuyết thứ nhất cho rằng gia tăng vốn chủ sở hữu sẽ làm giảm lợi nhuận từ đó giảm sự ổn định tài chính của ngân hàng. Quan điểm này bắt nguồn từ các tranh luận xung quanh lý thuyết về cấu trúc vốn của Modigliani và Miller (1958). Modigliani và Miller (1958) cho rằng cấu trúc vốn không có ảnh
  17. hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết luận này chỉ đúng trong điều kiện thị trường hoàn hảo và trong thực tế điều này khó xảy ra. De Nicolo & Turk Ariss (2010) cho rằng nguồn vốn là một trong những đầu vào cho quá trình hoạt động của ngân hàng. Sự gia tăng nguồn vốn huy động từ khách hàng trong tổng nguồn vốn, tức là giảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, sẽ giúp gia tăng nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng cải thiện lợi nhuận từ đó gia tăng sự ổn định tài chính của ngân hàng. Huang và Ratnovski (2009), dựa trên dữ liệu của OECD, không tìm thấy mối liên hệ giữa vốn ngân hàng đối với kết quả hoạt động kinh doanh. Nói cách khác, không thể đưa ra kết luận chắc chắn rằng vốn ngân hàng sẽ luôn luôn mở rộng sự ổn định tài chính. 2.4.2. Lý thuyết gia tăng vốn chủ sở hữu làm tăng sự ổn định tài chính của ngân hàng Quan điểm lý thuyết thứ hai cho rằng vốn chủ sở hữu cao hơn sẽ giúp các ngân hàng có những lựa chọn tốt hơn trong hoạt động kinh doanh đồng thời kiểm soát tốt hơn hoạt động tín dụng từ đó gia tăng sự ổn định tài chính của ngân hàng. Quan điểm lý thuyết này ủng hộ vai trò của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của ngân hàng trên 3 khía cạnh (Matten, 1996). 2.5. Lý thuyết về tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng Rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến xác suất vỡ nợ của các ngân hàng kéo theo giảm sự ổn định tài chính của ngân hàng theo ba khía cạnh: Thứ nhất, rủi ro làm suy giảm uy tín của ngân hàng, một ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả. Thứ hai, Berger, A. N., và ctg (1997), Boyd, J. H., và cs (1988), Salas, V., và cs (2002) chỉ ra rằng rủi ro làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng một phần nguyên nhân là do các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền thấy tình trạng của Ngân hàng như thế lại rút tiền
  18. càng tăng lên, kết quả là Ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán, kéo theo sự mất ổn định tài chính của NHTM. Thứ ba, theo Cai, J., và ctg (2008), He, Z., và ctg (2012), Eklund, T và ctg (2001), Dermine, J. (1986). Blair và ctg (1978), rủi ro đưa đến kết quả là lợi nhuận suy giảm do rủi ro đưa đến nhiều mất mát thiệt hại về tài chính. Việc lý giải tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng được tác giả xem xét thông qua tác động truyền dẫn này. Một số lý thuyết lý giải cho tác động này có thể kể đến như: lý thuyết Thông tin bất cân xứng, lý thuyết Đại diện. 2.5.1 Lý thuyết Thông tin bất cân xứng 2.5.2 Lý thuyết Chi phí đại diện 2.6. Tổng quan các nghiên cứu liên quan 2.6.1. Các nghiên cứu vận dụng Z-score để đo lƣờng sự ổn định tài chính của các ngân hàng thƣơng mại Vận dụng Z-score để đo lường sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Có thể kể đến các nghiên cứu như: Boyd & ctg (2006), Soedarmono & ctg (2011), Rahman & ctg (2012). Các nghiên cứu trong nước có thể kể đến như nghiên cứu của Nguyễn Đăng Tùng & Bùi Thị Len (2015), Hoàng Công Gia Khánh & Trần Hùng Sơn (2015). 2.6.2. Các nghiên cứu về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thƣơng mại. Các nghiên cứu trên thế giới về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại có thể kể đến như: Nghiên cứu của Aggrawal và Jacques (2001), Rime (2001), Godlewski (2004), Aggrawal và Jacques (2001), Abba và cộng sự (2013), Jacob Oduor và cộng sự (2017). Các nghiên cứu trong nước về tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại có thể kể đến như: Vũ Thị Hồng (2015),
  19. Lê Thanh Ngọc và cộng sự (2015), Hoàng Công Gia Khánh và Trần Hùng Sơn (2015), Nguyễn Minh Hà & Nguyễn Bá Hướng (2016). 2.6.3. Các nghiên cứu về tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thƣơng mại Các nghiên cứu về tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại tương đối ít. Có thể kể đến như: nghiên cứu của Beck & ctg (2009), Consuelo Silva Buston (2012). Nghiên cứu đầu tiên xem xét đến tác động của rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại là nghiên cứu của Björn Imbierowicz và Christian Rauch (2014). CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU 3.1. Quy trình nghiên cứu Sơ đồ 1: Quy trình thực hiện nghiên cứu
  20. 3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 3.2.1. Đo lƣờng sự ổn định tài chính của ngân hàng thƣơng mại Kế thừa phương pháp tính toán Z-score cho các ngân hàng của các nghiên cứu Boyd & Graham (1986), Hannan & Hanweck (1988), Boyd & ctg (1993), nghiên cứu này sẽ tính toán chỉ số Z-score cho các ngân hàng như sau: Trong đó: là chỉ số Z-score đo lường bất ổn tài chính của ngân hàng i năm t là suất sinh lời trên tổng tài sản của ngân hàng i năm t, được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản bình quân. là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng i năm t, được tính bằng vốn chủ sở hữu bình quân chia cho tổng tài sản bình quân. là độ lệch chuẩn của ROA của ngân hàng i trong kỳ nghiên cứu p. 3.2.2. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu 3.2.2.1. Mô hình nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu của Jacob Oduor và cộng sự (2017), tác giả sử dụng các mô hình thể hiện tác động của vốn chủ sở hữu đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam trong các điều kiện nghiên cứu khác nhau. Các mô hình nghiên cứu cụ thể như sau: (1) (2) (3) (4)
nguon tai.lieu . vn