Xem mẫu

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LỆ THU

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

HÀ NỘI - 2017

Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Ngân
2. TS. Nguyễn Thị Phương Thủy

Phản biện 1: .......................................................
.......................................................

Phản biện 2: .......................................................
.......................................................

Phản biện 3: .......................................................
.......................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân loại
đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Ngày nay, bình đẳng giới (BĐG) là vấn đề có
tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại, là một trong tám mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ (MDG). Ở nước ta, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã
được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam
nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và nhà nước Việt Nam luôn quan tâm
thúc đẩy thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao động gia đình nói riêng.
Nhiều văn bản quan trọng đã ra đời và quy định cụ thể về nội dung này như: Hiến
pháp, Luật Lao động, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bình đẳng giới. Như điều 18
Luật BĐG đã quy định: Vợ chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và
các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình,... các thành viên nam nữ
trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
Những quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng với
thành tựu của 30 năm đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của các gia đình
Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu, kết cấu,
mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Phụ nữ ngày càng có nhiều cơ
hội tham gia và khẳng định vai trò to lớn của mình trong các hoạt động kinh tế xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, xuất hiện xu
hướng ngày càng có nhiều đàn ông đảm nhiệm những công việc trước đây vốn
được coi là của phụ nữ. Với sự thay đổi chức năng của các cá nhân trong gia
đình, khoảng cách của bất BĐG trong lao động gia đình đang dần dần được thu
hẹp. BĐG trong lao động gia đình đã trở thành xu hướng tất yếu, là thước đo
mức độ tiến bộ, hạnh phúc của mỗi gia đình.
Tuy nhiên, dù pháp luật quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng
với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng
chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ, nhưng trên thực tế
thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới. Trong
gia đình nam giới vẫn được coi là trụ cột, có quyền quyết định các vấn đề lớn
và là người đại diện ngoài cộng đồng, còn các công việc nội trợ, chăm sóc các
thành viên trong gia đình vẫn được coi là “thiên chức” của phụ nữ, được coi là
việc vặt, không tên, không có giá trị.

2

Vậy là ngoài giờ đi làm, tham gia hoạt động sản xuất như nam giới, phụ
nữ còn phải gánh trách nhiệm chính trong hoạt động tái sản xuất của gia đình,
điều này đã hạn chế cơ hội được tiếp cận và khả năng tìm được chỗ đứng trong
thị trường lao động, ảnh hưởng tới việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn,
sức khỏe, tâm lý và thời gian nghỉ ngơi, giải trí để đảm bảo tái sản xuất, tham
gia hoạt động xã hội của phụ nữ. Ngoài ra, một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an
phận, cam chịu, chấp nhận những định kiến giới tồn tại trong xã hội. Đặc biệt ở
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số(DTTS), bất BĐG trong lao động gia
đình vẫn đang diễn ra mạnh mẽ, vị thế của người phụ nữ trong gia đình còn
thấp kém.
Miền núi phía Bắc (MNPB) là địa bàn chiến lược của đất nước, nơi tụ cư
của nhiều DTTS, với sự đa dạng về bản sắc văn hóa tộc người. Do trình độ
phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa còn thấp kém, bất BĐG trong gia đình
DTTS MNPB còn khá phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng khác trong
cả nước. Tính chất bảo thủ của phân công lao động truyền thống theo giới, vẫn
đang thể hiện rõ nét trong gia đình DTTS. Vì điều kiện sản xuất và thu nhập
thấp, nên phụ nữ tham gia hầu hết các công việc sản xuất. Hơn nữa việc sử
dụng dịch vụ xã hội, phương tiện giúp giảm nhẹ gánh nặng của công việc nội
trợ của gia đình DTTS còn rất ít, chưa đủ sức giải phóng người phụ nữ ra khỏi
những lo toan vất vả của đời sống gia đình hiện nay. Do vậy, phụ nữ DTTS
MNPB thường phải lao động với cường độ lớn, thời gian làm việc kéo dài,
điều kiện nghỉ ngơi dường như không có, ít có cơ hội tiếp cận các nguồn lực
để phát triển, nâng cao năng lực của bản thân, khả năng ra quyết định và
hưởng thụ lợi ích của họ nhìn chung thấp hơn nhiều so với nam giới.
Mặc dù chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình nhằm giúp đỡ các
DTTS MNPB, song có lẽ một bộ phận không nhỏ phụ nữ DTTS MNPB vẫn
còn đứng bên lề của sự phát triển. Nghèo đói, rào cản của luật tục, hạn chế về
kiến thức, không chỉ làm gia tăng thêm gánh nặng cho phụ nữ trong lao động
sản xuất, tái sản xuất để duy trì cuộc sống gia đình, mà còn làm cho những cơ
hội để họ tham gia hòa nhập với dòng chảy của xã hội ít hơn so với nam giới.
Vì vậy, phụ nữ DTTS chính là nhóm xã hội cực khổ nhất, chịu nhiều sự bất
bình đẳng nhất ở MNPB, giải quyết bất BĐG trong gia đình DTTS MNPB để
không ai bị bỏ lại phía sau, chính là góp phần thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững hiện nay ở MNPB.

3

Bình đẳng giới trong lao động gia đình không phải là chủ đề nghiên cứu
mới, nhưng luôn mang tính thời sự, luôn nhận được sự quan tâm của các nhà
khoa học không chỉ trong nước mà cả quốc tế và ngày càng được quan tâm
nghiên cứu trên nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB.
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động gia
đình DTTS MNPB hiện nay, để đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay được đặt ra cấp thiết. Do vậy,
tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sỹ Triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, những vấn đề đặt ra của việc
thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, luận án đề xuất một số
quan điểm, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động gia đình
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu BĐG
trong lao động gia đình giữa vợ và chồng.

nguon tai.lieu . vn