Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á Chủ tịch Hội đồng Ban Chủ nhiệm Khoa Chủ nhiệm đề tài Võ Văn Thắng Trần Thể Lê Thị Liên Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ THỊ LIÊN Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
  2. MỤC LỤC Trang Mục lục Lời cám ơn Lời nói đầu Phần tóm tắt Danh sách các biểu bảng, hình ảnh minh họa Viết tắt MỞ ĐẦU 1 I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1 II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 III. Phương pháp nghiên cứu 3 IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 NỘI DUNG 5 Chương I 5 NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á 5 II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 8 III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á 12 IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á 14 Chương II TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” 21 VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á I. Thức ăn 21 II. Trang phục 24 III. Nhà ở 28 IV. Kiến trúc và điêu khắc 31
  3. Chương III TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” 40 VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á I. Chữ viết 40 II. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo 42 III. Lễ hội và phong tục tập quán 51 IV. Nghệ thuật diễn xướng 63 KẾT LUẬN 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 PHỤ LỤC 74
  4. LỜI CÁM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến: Viện nghiên cứu Đông Nam Á Thư viện Quốc Gia Thư viện Quân đội Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Ban Giám Hiệu, phòng Quản lí Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Thư viện và Hội đồng Khoa học Trường Đại học An Giang. Xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp trường Đại học An Giang, đặc biệt xin chân thành cám ơn PGS.TS. Ngô Văn Doanh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á, đã động viên và hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này trong thời gian vừa qua. Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế, cho nên, đề tài của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cám ơn! Long Xuyên, tháng 6 năm 2010 Chủ nhiệm đề tài Lê Thị Liên
  5. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Khi mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai cũng dễ dàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á khác thiếu hẳn sự hiểu biết về khu vực, về những người bạn láng giềng của mình. Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử, ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cả mọi hoạt động giao lưu văn hóa hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết, giới thiệu về nền văn hóa của nhau không chỉ ở khu vực mà ra cả thế giới bên ngoài, để thúc đẩy tình hữu nghị, đoàn kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị văn hóa của nước bạn. Đông Nam Á xưa kia được biết đến như “là một khu vực thần bí, nơi sản xuất hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác” (Donald G. Mc. Cloud, 1986) và cho đến tận cuối thế kỷ XIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính khu vực của Đông Nam Á thực sự xuất hiện từ chiến tranh thế giới thứ hai, khi thực dân Anh lập ra Bộ chỉ huy quân sự Đông Nam Á, để phân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy nhiên, Đông Nam Á không phải chỉ là một khu vực chính trị thuần túy mà từ xa xưa, Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả, kể cả các học giả Âu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà biểu tượng rực rỡ nhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ở các nước Đông Nam Á. Như vậy, có thể nói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hóa trước khi trở thành khu vực địa lý - chính trị. Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản địa truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói của người Inđônêxia. Cụm từ này bắt nguồn từ câu nói của nhà thơ Mpu Tantular ở Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” (nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”), và ngày nay, câu nói này đã trở thành thuật ngữ phổ biến khi nói về văn hóa Đông Nam Á. Có lẽ, trên thế giới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa mang tính thống nhất như ở khu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được biểu hiện trên nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất lẫn tinh thần của cư dân Đông Nam Á. Ở đây, đề tài không trình bày theo hệ thống tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa Đông Nam Á từ cổ chí kim, mà đề cập đến những thành tố cấu thành nên nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á đó. Trong đề tài này, được chia thành ba chương: Chương I: Những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
  6. Chương II: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á Chương III: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á Trong mỗi chương, đều có phần chú thích và hình ảnh minh hoạ cụ thể để làm rõ nội dung đã được trình bày. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn “tổng thể về văn hóa Đông Nam Á”, một thực tế của nền văn hóa tương đồng và đa sắc thái, mà chúng tôi dùng ý tưởng “thống nhất trong đa dạng” để đề cập đến. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ hiểu biết thêm về những người bạn láng giềng của mình, đã kết “thành hội thành thuyền” trong quá trình phát triển, vươn lên theo xu thế khu vực và hội nhập thế giới. Tóm lại, văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, mà năng lực của người viết lại có hạn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi những sai sót. Kính mong quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp lượng thứ cho những sai sót và rất mong đón nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn thêm.
  7. PHẦN TÓM TẮT Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, đề cập đến nét chung và riêng của văn hóa Đông Nam Á, và cũng là một nét văn hóa đặc sắc, tiêu biểu cho khu vực, đó là tương đồng và đa sắc thái, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Với vị trí địa lý thuận lợi, Đông Nam Á trở thành cửa ngõ giao lưu qua lại giữa những nền văn minh lớn, nơi giao thương giữa các quốc gia, châu lục, là điều kiện thuận lợi để cho các nước trong khu vực tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, với khí hậu nhiệt đới châu Á gió mùa, Đông Nam Á sớm có điều kiện phát triển nghề nông trồng lúa và đã trở thành một nền kinh tế chính của khu vực. Đông Nam Á vốn có chung cội nguồn về tộc người - từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á), sau quá trình tiếp cận và giao lưu đã tạo cho Đông Nam Á một khu vực đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Các nhà nước, quốc gia Đông Nam Á từ khi ra đời cho đến nay, có sự thay đổi lớn về ranh giới, địa phận ở mỗi quốc gia, tuy ở những phương diện khác nhau nhưng tất cả các nước đều có chung hoàn cảnh lịch sử nên dễ dàng thông cảm cho nhau trong quá trình phát triển, vươn lên và hội nhập. Với nền tảng như thế, cho nên đã hình thành trong nếp sống của cư dân Đông Nam Á những phương thức sinh hoạt từ thức ăn, trang phục, nhà ở đến các công trình kiến trúc và điêu khắc đồ sộ, đều có những nét chung với nhau, dựa trên nền tảng của cơ tầng văn hóa bản địa, của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn hóa lớn của hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ xa xưa, đời sống tâm linh của cư dân Đông Nam Á, đã được quan tâm đến bằng những tín ngưỡng bản địa đặc sắc, bên cạnh đó, với sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài vào, đã được người dân ở đây tiếp nhận và hòa trộn với nền văn hóa bản địa, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của họ. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, cho nên, các dân tộc Đông Nam Á có các lễ hội và phong tục tập quán vừa mang bản sắc riêng đa sắc màu, vừa mang dáng dấp chung của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các hoạt động này vừa giúp cho cư dân thoả mãn những nhu cầu về đời sống tâm linh, vừa kèm theo các hình thức vui chơi, giải trí, nhằm tạo một không khí đoàn kết và thân thiện lẫn nhau giữa các con người trong một cộng đồng chung, làng xóm nói riêng, cả khu vực nói chung. Một hình thức giải trí khác cũng không kém phần hấp dẫn đối với cư dân Đông Nam Á, đó là nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống, và do các nước có sự tiếp cận, giao lưu và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cho nên nền nghệ thuật truyền thống của mỗi nước vừa có nét tương đồng về nội dung lẫn phương pháp vừa có sự đa dạng về hình thức biểu diễn. Nhìn chung, văn hóa truyền thống Đông Nam Á, dựa trên nền tảng của nên nông nghiệp lúa nước, đã tạo ra cho cư dân ở đây một đời sống sinh hoạt cả vật chất lẫn tinh thần đều vô cùng độc đáo, vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng, một sắc thái rất riêng Đông Nam Á.
  8. DANH SÁCH CÁC BIỂU BẢNG, HÌNH ẢNH MINH HỌA Danh sách biểu bảng: Biểu bảng 1: Tộc người chủ thể và tỷ lệ đạt được so với tổng dân số trong nước ở các nước Đông Nam Á Biểu bảng 2: Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á Danh sách hình ảnh minh họa: Hình 1: Bản đồ các quốc gia Đông Nam Á Hình 2: Bản đồ vương quốc Hồi giáo Brunây Hình 3: Bản đồ vương quốc Cămpuchia Hình 4: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo Hình 5: Bản đồ Cộng hòa Inđônêxia Hình 6: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Hình 7: Bản đồ Liên bang Malaixia Hình 8: Bản đồ Liên bang Mianma Hình 9: Bản đồ Cộng hòa Philippin Hình 10: Bản đồ Cộng hòa Xingapo Hình 11: Bản đồ vương quốc Thái Lan Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Hình 13: Núi lửa ở Philippin Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt (cơm - rau - cá) Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam Hình 20: Nasi goreng (cơm rang) của tộc người Melayu Hình 21: Nasi ulam (cơm rau sống) của tộc người Melayu Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia Hình 23: Solok Cili (ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp) của người Mã Lai Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt và một số dân tộc Đông Nam Á khác Hình 26: Nam cởi trần đóng khố Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam Hình 31: Nhà sàn người Thái Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê Hình 33: Nhà hình thuyền Hình 34: Nhà đất Hình 35: Nhà hiện đại Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia Hình 40: Chùa tháp ở Pagan - Mianma Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
  9. Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam - Việt Nam) Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội Hình 51: Bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa sớm nhất Hình 52: Chữ Khơ Me (Sanskrit) được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ Hình 54: Di sản chữ Nôm (tiếp thu từ chữ Hán) của người Việt Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng tham gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai - Việt Nam Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng (thả đèn trong một cái chén lá) ở Thái Lan Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me Hình 67: Tết cổ truyền người Lào Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai (Việt Nam) Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam Hình 74: Trầu để nhai Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam Hình 79: Bịt mắt bắt dê Hình 80: Kéo co Hình 81: Ô lò cò Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo Hình 83: Rối nước Hình 84: Wayang Topeng (múa mặt nạ) ở Giava - Inđônêxia Hình 85: Wayang Wong (múa mặt nạ) ở Bali - Inđônêxia Hình 86: Múa Lakhon của người Thái Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
  10. Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam Hình 90: Cờ ASEAN Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010 Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật với Quốc vương Brunây Haji Hassanal Bolkiah Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du lịch Đông Ti-mo Gil da Costa AN. Alves Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ chức ASEAN hội nhập vào quốc tế Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006 Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành viên thứ 150 của Việt Nam
  11. VIẾT TẮT Viết tắt theo tiếng Anh: APEC: Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ASEAN: Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM: The Asia Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á - Âu SEAMEO: Southeast Asian Ministers of Education Organization Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á WTO: World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới Viết tắt theo tiếng Việt: CN: Công Nguyên CNXHKH: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học KHXH Khoa học Xã hội KHXH & NVQG: Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia NXB: Nhà xuất bản TC: Tạp chí T.CN: Trước Công Nguyên Sđd: Sách đã dẫn
  12. MỞ ĐẦU I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1. Mục tiêu Đề tài tập trung khai thác những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trong đó, đề tài sẽ làm rõ những yếu tố như điều kiện tự nhiên; dân tộc và ngôn ngữ; nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á. Từ đó, đi đến khẳng định, đây là cơ sở tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: thức ăn, trang phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Qua đó, đề tài đi đến khẳng định: đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên trong nền văn hóa đó đều thể hiện những nét tương đồng, thống nhất trong chiều sâu cuộc sống của họ. Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Từ đó, đề tài sẽ rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần - nét đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa truyền thống ở các quốc gia Đông Nam Á. 2. Nội dung nghiên cứu Đề tài nghiên cứu gồm ba phần: Phần 1: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu khai thác những khía cạnh để tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trước tiên, đề tài sẽ đi vào xem xét về điều kiện tự nhiên, như các mặt: vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và động, thực vật ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, yếu tố dân tộc và ngôn ngữ cũng là những điều kiện cần thiết tạo nên tính đặc trưng của nền văn hóa này. Xuất phát từ một nguồn nhân chủng Môngôlôit phương Nam, qua quá trình giao lưu và lan tỏa, đã hình thành nên những tộc người khác nhau ở Đông Nam Á. Đồng thời, có chung một nguồn gốc ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử, dần dần cũng hình thành nên những ngữ hệ khác nhau trong khu vực. Nền kinh tế truyền thống cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực, đặc biệt là nghề nông trồng lúa. Sau cùng, sự tương đồng trong tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tính tương đồng trong văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Phần 2: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á: thức ăn, trang phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Trong bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á chủ yếu là ăn cơm, rau, cá hay thịt. Từ gạo, cư dân Đông Nam Á đã chế biến ra nhiều loại thức ăn khác hay các loại bánh để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lễ hội. Còn về trang phục truyền thống của cư dân Đông Nam Á là nam đóng khố, nữ mặc váy, cởi trần, dần về sau y phục có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng: yếm, áo chui, quần, váy… Tùy mỗi quốc gia, dân tộc mà trang phục truyền thống của họ hoặc thêm vào hay bớt đi, tạo nên bức tranh muôn màu trong trang phục cư dân Đông Nam Á. Về nhà ở, kiểu nhà sàn là kiểu nhà truyền thống, đồng thời, nhà hình thuyền, nhà đất, nhà 1
  13. Phần 3: đề tài tập trung khai thác những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á: chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống. Về chữ viết Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của chữ Ấn Độ (chữ Sanskrit và Pali), Trung Quốc (chữ Hán), dần dần họ tạo ra nhiều kiểu chữ viết riêng cho dân tộc mình, và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, các loại chữ Latinh đã ra đời ở các quốc gia Đông Nam Á. Về hệ thống tín ngưỡng, xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa nước, cư dân các nước Đông Nam Á có những tín ngưỡng tương tự nhau: sùng bái tự nhiên, phồn thực, thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, các tôn giáo từ bên ngoài: Phật giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Đông Nam Á, và được cư dân Đông Nam Á tiếp nhận và biến tấu cho phù hợp với tín ngưỡng bản địa. Với các lễ hội: nông nghiệp, tôn giáo, lễ Tết là những lễ hội truyền thống gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước của các quốc gia Đông Nam Á. Còn về phong tục tập quán: cưới xin, tang ma, nhai trầu, hay các trò chơi dân gian: thả diều, bơi thuyền, chọi gà… cũng được cư dân Đông Nam Á bảo lưu và phát huy các giá trị vốn có của nó. Loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống: rối bóng, rối nước, kịch múa, kịch hát… cũng được giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của cư dân vùng Đông Nam Á. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng Đề tài nghiên cứu tính “thống nhất trong đa dạng” về các mặt trong đời sống vật chất như ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc, đồng thời về các mặt trong đời sống tinh thần như chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội - phong tục tập quán, nghệ thuật sân khấu biểu diễn của các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đề tài còn nghiên cứu các tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á: điều kiện tự nhiên, dân tộc và ngôn ngữ, nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển lịch sử của mỗi nước trong khu vực. 2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về nền văn hóa truyền thống ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, biểu hiện trên lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: từ ăn, mặc, ở, kiến trúc và điêu khắc đến chữ viết, tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán, nghệ thuật diễn xướng từ khi có mặt ở các quốc gia Đông Nam Á cổ đại và còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, đề tài không tập trung nghiên cứu sự phát triển của các mặt trong đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần theo tiến trình phát triển của lịch sử, mà ở đây, khái quát những đặc điểm nổi bật của các thành tố cấu thành nên nền văn hóa đó và rút ra những điểm tương đồng lẫn khác biệt để giải quyết vấn đề đã đặt ra trong đề tài. Đề tài tập trung nghiên cứu các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (Cămpuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Mianma, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Xingapo, Brunây, Đông Timo). Tuy nhiên, ở các quốc gia Đông Nam Á này, có những quốc gia mới giành tự chủ sau này như Xingapo, Brunây, hay Đông Timo mới tách khỏi Inđônêxia (năm 2002). Do vậy, văn hóa của các nước này thường được nhắc đến và hòa chung vào văn hóa tộc người Mã Lai hay văn hóa Inđônêxia, cho nên, khi tiếp xúc với đề tài, thường thấy vắng bóng các quốc gia trên là lẽ tất nhiên. 2
  14. III. Phương pháp nghiên cứu Dựa vào phương pháp luận sử học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Trên cơ sở tìm hiểu thực tế các mô hình về văn hóa Đông Nam Á như ở Viện bảo tàng Dân tộc học, cùng với việc tiếp cận và theo dõi những thông tin, tư liệu trên internet, truyền hình… Sử dụng những phương pháp chuyên ngành Lịch sử: thu thập, xử lí tư liệu, tổng hợp, thống kê, chọn lọc, phân tích, so sánh, đối chiếu… để làm thỏa đáng vấn đề đã đặt ra trong đề tài. IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tình hình nghiên cứu trong nước Trong nhiều năm trở lại đây, văn hóa Đông Nam Á đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Hiện nay, vấn đề về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á được một số tác giả đề cập trên một số công trình cụ thể: Tác giả Phan Hữu Dật (chủ biên) với quyển “Văn hóa lễ hội của các dân tộc Đông Nam Á”, năm 1992, với phần đầu của tác phẩm có đề cập đến, Đông Nam Á: thống nhất trong đa dạng, sau đó, giới thiệu chi tiết những lễ hội truyền thống của các quốc gia: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma, Malaixia, Xingapo, Philippin, Inđônêxia. Quyển “Phong tục các dân tộc Đông Nam Á” do Ngô Văn Doanh và Vũ Quang Thiện (chủ biên), năm 1997, giới thiệu các phong tục như ăn, ở, mặc, hôn nhân, tín ngưỡng ở một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Bài viết “Những suy nghĩ về tính thống nhất của văn hóa Đông Nam Á” của Phan Ngọc trong quyển “Việt Nam - Đông Nam Á: Quan hệ Lịch sử và văn hóa”, của Viện Đông Nam Á, năm 1998, tác giả có đề cập một cách khái quát về tính thống nhất của một số thành tố văn hóa của cư dân Đông Nam Á. Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Mai Ngọc Chừ, năm 1999, đã trình bày một cách hệ thống một số thành tố của văn hóa Đông Nam Á như: ăn uống, các trò giải trí, nghệ thuật tạo hình, hơn nữa, tác phẩm còn đề cập đến các giai đoạn phát triển và những thành tựu lớn của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Quyển: “Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á” của Nguyễn Phan Thọ, năm 1999, đây là một tài liệu chuyên khảo về nghệ thuật truyền thống của các nước trong khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả trình bày đến quá trình hình thành và phát triển của các loại hình nghệ thuật truyền thống cũng như những nền tảng tạo nên sự đồng nhất trong đa dạng của nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. Quyển “Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á” của Trần Bình Minh, năm 2000, đã đề cập đến những lễ hội lớn trong khu vực Đông Nam Á. Trong quyển sách này, tác giả đã tập trung so sánh những nét tương đồng trong lễ hội cổ truyền của người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc bộ (Việt Nam) với một số quốc gia trong khu vực. 3
  15. Hai tác giả Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, với quyển “Văn hóa Đông Nam Á”, năm 2001, khái quát về tình hình nghiên cứu Đông Nam Á, nền văn hóa bản địa của cư dân nông nghiệp; sự hình thành các nền văn hóa quốc gia dân tộc trong quá trình tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và văn hóa phương Tây; cùng với văn hóa Đông Nam Á trong thời kỳ lịch sử hiện đại. Bài viết “Văn hóa truyền thống Đông Nam Á” trong quyển “Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại” do Lương Ninh chủ biên, năm 2003, bài viết khái quát lịch sử cổ - trung đại Đông Nam Á, đồng thời, nêu lên một số đặc điểm về văn hóa Đông Nam Á như tôn giáo, lễ hội, chữ viết, văn học, kiến trúc và điêu khắc. Quyển “Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam bộ và Đông Nam Á” của tác giả Ngô Văn Lệ, năm 2003, trong tác phẩm giới thiệu sơ nét về tính “thống nhất trong đa dạng” của Đông Nam Á nhìn từ khía cạnh trang phục, tổ chức gia đình, công xã. Quyển “Văn hóa Đông Nam Á” của Nguyễn Tấn Đắc, năm 2003, giới thiệu về khu vực văn hóa Đông Nam Á, các nhóm chủng tộc và ngôn ngữ, tiếp đến là những nền tảng cơ bản của văn hóa khu vực là nông nghiệp và thương nghiệp. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến văn hóa hiện nay ở một số nước thông qua hệ ý thức và bảng giá trị của các nước Đông Nam Á, cuối cùng, tác giả tổng hợp Đông Nam Á và văn hóa Đông Nam Á, quá trình nhận thức khu vực Đông Nam Á. Đề tài cấp Bộ: “Cộng đồng Melayu một số vấn đề văn hóa” do Mai Ngọc Chừ chủ nhiệm, năm 2004, giới thiệu về văn hóa phục vụ đời sống như ăn, ở, mặc; tôn giáo - tín ngưỡng; một số phong tục tập quán và ngôn ngữ; nghệ thuật của cộng đồng Melayu. Đinh Trung Kiên với quyển “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á”, năm 2007, tác giả giới thiệu về sự ra đời, phát triển và những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Đông Nam Á, tiêu biểu là tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội, phong tục tập quán, kiến trúc, hội họa, điêu khắc. Quyển “Tri thức Đông Nam Á” của hai tác giả Lương Ninh và Vũ Dương Ninh (chủ biên), năm 2008, giới thiệu về Đông Nam Á đại cương: địa lý, lịch sử, văn hóa và các nước Đông Nam Á cụ thể, trong đó quyển sách cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về các quốc gia Đông Nam Á từ cổ đại cho đến đương đại. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Unity in Diversity Regional Identity Building in Southeast Asia (Thống nhất trong đa dạng: xây dựng bản sắc khu vực Đông Nam Á) do Kristina Jonsson là một viên nghiên cứu của Trung tâm Đông và Đông Nam châu Á học, năm 2008, tại Đại học Lund, Thụy Điển. Nội dung của bài viết là vấn đề khu vực và xây dựng bản sắc văn hóa Đông Nam Á, khu vực Đông Nam Á trong sự thống nhất. Diversity and Unity in Southeast Asia (Sự đa dạng và thống nhất ở Đông Nam Á), do Jan o. M. Broekp, Đại học California, Berkeley. Nội dung chứng minh được thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Đông Nam châu Á vào nửa đầu của năm 1940. Vào đầu thập kỷ này, vùng đất giữa Trung Quốc, Ấn Độ và Úc, với ngoại lệ của nhà nước Thái Lan đệm, đều dưới sự kiểm soát trực tiếp của các nước phương Tây. Qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu đi vào một cách có hệ thống về tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Dựa trên thành quả nghiên cứu của người đi trước, tác giả sẽ hệ thống một cách khái quát về các thành tố cấu thành nên nền văn hóa trên. 4
  16. NỘI DUNG Chương I NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á Con người sinh ra và lớn lên trong tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng cho nên con người luôn luôn gắn bó với tự nhiên. Chính vì thế, “mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa” (Trần Quốc Vượng, 1997: 17). Có thể nói, theo cách nói của Mai Ngọc Chừ: “điều kiện tự nhiên, môi trường tự nhiên của một khu vực chắc chắn có một ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của con người trong khu vực đó” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 15). Chính vì vậy, trước khi đi vào các mặt của đời sống văn hóa, chúng ta lại bắt đầu từ điều kiện tự nhiên của khu vực. 1. Vị trí địa lý Trên bản đồ thế giới, Đông Nam Á nằm trong một phạm vi khá rộng phía đông nam lục địa Á - Âu. Xét về mặt địa lý tự nhiên, diện tích Đông Nam Á khoảng 4,5 triệu km2, trải ra trên một không gian khá rộng (bao gồm cả biển và đất liền), nằm trong cùng một phạm vi khoảng từ 920 đến 1400 kinh Đông, và khoảng từ 280 vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến 150 vĩ Nam, như một “ngã tư đường” của các châu lục lớn. Khu vực này gồm hai bộ phận: bán đảo Trung - Ấn và quần đảo Mã Lai, là một quần thể gồm: các đảo, bán đảo, quần đảo và các vịnh trong vùng biển xen kẻ với nhau rất phức tạp chạy dài suốt từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, với sự phân tán của những quần đảo uốn cong có số lượng đảo nhiều và lớn nhất thế giới (chủ yếu ở hai quốc gia Inđônêxia, Philippin). Chính vì thế, đã tạo cho Đông Nam Á có một vị trí chiến lược quan trọng, vừa nằm giữa và gần hai quốc gia rộng lớn, với hai nền văn minh lâu đời, rực rỡ vào bậc nhất châu Á và thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, vừa gần với cường quốc kinh tế Nhật Bản, nằm trên tuyến đường biển quốc tế quan trọng, giữa châu Úc với các quốc gia nằm ở phía bắc là Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Butan, Bănglađét, Nêpan. Về mặt địa lý hành chính hiện đại, Đông Nam Á bao gồm 11 quốc gia: các quốc gia nằm ở hải đảo gồm Inđônêxia, Xingapo, Philippin, Brunây, Đông Timo; các quốc gia nằm ở lục địa gồm Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Mianma; và quốc gia Malaixia là vừa hải đảo vừa lục địa. Với vị trí đó, Đông Nam Á sớm trở thành khu vực có ý nghĩa và tầm quan trọng lớn trên nhiều bình diện, đồng thời là điều kiện thuận lợi để các nước trong khu vực tiếp cận, trao đổi với các nền văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập đến châu Âu, để sáng tạo cho mình một nền văn hóa rộng lớn, đặc sắc và thấm đậm tinh thần khu vực. 2. Địa hình Đông Nam Á là khu vực có địa hình phong phú, với núi rừng, đồng bằng và biển cả, được nối với nhau bằng hệ thống sông ngòi chằng chịt đầy nước, cho nên văn hóa Đông Nam Á là một chỉnh thể thống nhất của ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển. Ở mỗi yếu tố văn hóa tự mang trong mình những đặc trưng riêng của chủ nhân nó. Những yếu tố: núi, biển và đồng bằng được tạo nên và chi phối chặt chẽ bởi những đặc điểm địa hình vô cùng độc đáo nơi đây, bởi, Đông Nam Á hải đảo hay lục địa đều có sự đan xen mang tính hệ thống giữa đồi núi, đồng bằng và sông biển, mà 5
  17. Ở khu vực thuộc bán đảo Trung - Ấn, có các cao nguyên rộng lớn, từ cao nguyên Shan (Mianma), Khorat (Thái Lan), Bôlôven, Khăm Muộn (Lào) đến Tây Nguyên (Việt Nam), rồi vươn ra biển làm cho các dòng sông lớn cũng bắt nguồn từ các núi rừng rộng lớn. Với hệ thống sông ngòi dày đặc, cũng bắt nguồn từ bán đảo Trung - Ấn: sông Mê Kông dài 4.500km (đoạn chảy vào khu vực Đông Nam Á dài 2.600km), sông Xaluen dài 3.200km, Iraoađi dài 2.150km, sông Mê Nam dài 1.200km, sông Hồng dài 1.126km. Còn ngược lại, các con sông trên quần đảo Mã Lai như ở Inđônêxia, Philippin, thậm chí cả Malaixia đều ngắn và dốc, có giá trị khai thác thủy điện cao. Sông ngòi ở Đông Nam Á không chỉ có giá trị về mặt giao thông mà chủ yếu là tạo nên các vùng châu thổ màu mỡ phù sa. Thông thường, tương ứng với các con sông lớn là các vùng châu thổ rộng lớn, như vùng Hạ Mianma; châu thổ Mê Nam (Thái Lan); châu thổ Mê Kông (Cămpuchia, Việt Nam…); châu thổ sông Hồng (Việt Nam). Từ bán đảo Đông Dương qua Thái Lan đến Mianma, cảnh quan tự nhiên của vùng là những châu thổ xen kẽ với đồi núi, rừng rậm kéo dài từ phía bắc xuống phía nam ra biển, núi rừng và bình nguyên ở Đông Nam Á bao phủ các đảo, quần đảo ở phía đông, đông nam với trữ lượng lớn về tài nguyên. Sang quần đảo Mã Lai, các quốc gia Inđônêxia và Philippin có các dãy núi uốn nếp xen các núi lửa với cao nguyên núi lửa, còn các đồng bằng thường phân bố dọc theo các miền duyên hải hoặc trong các thung lũng giữa núi. Đồng bằng ở hải đảo thường nhỏ hẹp hơn so với khu vực lục địa, tuy nhiên, so với khu vực Đông Nam Á lục địa, địa hình đồi núi ở các nước hải đảo lại có phần quy mô hơn, trong đó địa hình núi lửa trở thành một yếu tố nổi bật trong cảnh quang thiên nhiên của khu vực này. Hầu hết các đỉnh núi cao nhất ở Inđônêxia và Philippin đều là những núi lửa đang hoạt động hoặc đã tắt, như núi Kerinsi ở Xumatơra, Semera ở Giava, Rantemario ở Xulavêxi, Anpô trên đảo Minđanao (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Đông Nam Á là khu vực có nhiều quần đảo vào bậc nhất thế giới, tập trung chủ yếu ở hai quốc gia: Inđônêxia (17.508 hòn đảo) và Philippin (7.107 hòn đảo). Biển và vịnh ở Đông Nam Á kéo dài từ vùng biển Đông, bán đảo Đông Dương hướng ra Thái Bình Dương đến vịnh Inđônêxia của Ấn Độ Dương. Đảo và quần đảo với những vịnh lớn, nhỏ, cùng với những eo biển nổi tiếng lâu đời đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đa sắc và hùng vĩ của Đông Nam Á. Đó chính là những nét chung, thống nhất về mặt địa hình các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh những nét chung đó, ở mỗi quốc gia lại chứa đựng những nét riêng, khác biệt tạo nên cảnh sắc đa dạng, muôn màu muôn vẻ trong toàn khu vực. 3. Khí hậu Đông Nam Á có vị trí địa lý khá quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có đường xích đạo chạy qua, cho nên cùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết đặc trưng của khu vực châu Á. Đặc điểm chung của vùng này là tính chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió mùa, tạo cho Đông Nam Á, một khu vực “châu Á gió mùa” bởi đặc trưng nổi bật của khí hậu nóng và ẩm, với hai mùa được hình thành khá rõ là mùa khô và mùa mưa trong năm. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì Đông Nam Á có độ ẩm cao nhất thế giới (trên 80% - 90%), vì có đường xích đạo chạy qua. Do có đường bờ biển dài bao quanh khiến lượng nước bốc hơi trên đất liền luôn dư thừa (Sakurai Yumlo, 1996), tạo nên khí hậu nóng ẩm (nhiệt độ trung bình từ 20 - 270C) và mưa nhiều (lượng mưa từ 1.500 đến 3.000mm/năm) (Phan Ngọc Liên, 2002). Mặc dù, khu vực Đông Nam Á cùng 6
  18. Tuy nhiên, người ta phân chia khí hậu Đông Nam Á thành hai đới khác nhau (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008), vừa tạo nên tính đa dạng vừa tạo nên tính thống nhất về khí hậu nơi đây: Đới khí hậu xích đạo: tạo thành một dải dọc theo đường xích đạo, bao gồm các đảo Xumatơra, Calimantan, Xulavêxi, phần tây các đảo Giava, Irian, phần nam bán đảo Malacca và đảo Minđanao. Đới khí hậu cận xích đạo (đới gió mùa xích đạo): gồm hai đới nằm ở phía bắc và phía nam đới khí hậu xích đạo. Trong đó, đới nằm ở phía bắc bao gồm: phần lớn bán đảo Trung - Ấn và gần như toàn bộ quần đảo Philippin; còn đới ở phía nam gồm toàn bộ quần đảo nằm ở phía đông của đảo Giava. Ở các đới khí hậu này, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa hạ (1) và mùa đông (2). Nhìn tổng thể, địa hình - khí hậu Đông Nam Á khá thuận lợi cho cuộc sống của con người, nhất là ngay trong buổi đầu bình minh lịch sử, chính vì vậy, Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh (2002) đã khẳng định: Những mùa mưa ổn định với khí hậu không quá gay gắt về cả nhiệt độ và lượng mưa, địa bàn sinh tụ nhỏ nhưng hết sức phong phú, đa dạng kết hợp rừng - suối, đồi ruộng, có biển, có đồng bằng, đã tạo nên những không gian lí tưởng cho cuộc sống của con người thời cổ, điều đó giải thích vì sao, từ rất cổ xưa, con người đã đến đây sinh sống. Tóm lại, “điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là hằng số tự nhiên của văn hóa Đông Nam Á, và chính nó đã góp phần tạo nên nét đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á - một nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng” của khu vực” (Mai Ngọc Chừ, 1999: 17). 4. Động và thực vật Với điều kiện khí hậu như đã nói trên sẽ gắn chặt với sự sinh tồn và phát triển của giới động, thực vật ở khu vực Đông Nam Á. Thật vậy, với rừng tự nhiên đa dạng, mang nhiều màu sắc, cho nên thành phần trong giới động vật ở khu vực Đông Nam Á cũng rất phong phú và đa dạng về chủng loài. Trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh (2) có khỉ, đười ươi, vượn, heo vòi, nhiều loài chim và bò sát… Trong rừng gió mùa, rừng thưa và xavan cây bụi (3) tập trung nhiều động vật ăn cỏ, ăn lá cây và động vật ăn thịt. Đáng chú ý là có trâu rừng, linh dương, nai, bò tót, bò xám, tê giác một sừng, voi, hổ, báo… Tất cả các loài này phân bố rộng, có ở cả bán đảo Trung - Ấn và vùng đảo Mã Lai. Ngày nay, nhiều loài động vật quý như hổ, báo, bò rừng, tê giác… bị suy giảm nhanh và có nguy cơ bị tuyệt chủng vì con người săn bắn bừa bãi và diện tích rừng bị thu hẹp (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Ngoài ra, Đông Nam Á còn được coi là một “viện bảo tàng chim thú” - thiên đường của các nhà động vật học, với những loài chim ở đây có giá trị lớn về nhiều mặt như kinh tế, khoa học, sản xuất, văn hóa - xã hội (Phan Ngọc Liên, 2002). Nhà địa lý - thực vật học người Mỹ C.O Sauer, cho rằng: Đông Nam Á là nơi phát sinh trồng trọt sớm vì đó là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về thực vật cũng như cảnh quan địa mạo, sinh thái mà không một nơi nào sánh kịp, đó là vùng thung lũng chân núi hoặc ven biển (Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001). Chính đặc trưng của khí hậu nóng ẩm ở Đông Nam Á cùng với biển và gió mùa đã biến khu vực này thành thiên đường của thế giới thực vật, làm cho hệ thực vật ở đây vô cùng đa dạng và phong phú, đó là màu xanh cây lá, hoa trái bạt ngàn quanh năm bao phủ 7
  19. Nhờ có khí hậu thuận lợi, không quá gay gắt về cả nhiệt độ lẫn lượng mưa nên tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp - nền kinh tế chính của khu vực mà cây lúa đóng vai trò chủ đạo. Do vậy, Đông Nam Á được mệnh danh là quê hương của cây lúa nước, cây lương thực số một của nhân loại. Những cánh đồng lúa được phân bố chủ yếu trên các đồng bằng châu thổ, dọc theo thung lũng các con sông ở Đông Nam Á vì đây là những vùng đất phù sa màu mỡ do các con sông bồi đắp và được con người ở đây tận dụng trong quá trình sản xuất. Các nhà Sử học Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh (2002) nhận xét rất xác đáng về khu vực này: Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, đàn hương, trầm hương… Do có những điều kiện thiên nhiên tương đồng với các loài động, thực vật rất khác biệt với các vùng khác, nhưng lại giống nhau trong vùng, nên Đông Nam Á còn được coi là khu vực thực vật - dân tộc học và động vật - dân tộc học. Trong số các loài thực vật, rõ ràng, cây lúa chiếm diện tích lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á và đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các nước nơi đây (Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Đông Nam Á là một miền địa lý đa dạng mà thống nhất (Phạm Đức Dương và Trần Thị Thu Lương, 2001: 81, sđd), dù xét dưới góc độ nào - vị trí (đảo, bán đảo, quần đảo), địa hình (núi, đồng bằng, sông biển), khí hậu (nhiệt đới gió mùa) hay hệ động thực vật. Sự “thống nhất trong đa dạng” đó của điều kiện tự nhiên là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 1. Dân tộc Như đã nói, Đông Nam Á là nơi nằm trên tuyến đường giao lưu thuận lợi Đông - Tây, cho nên ở đây cũng diễn ra quá trình hỗn dung giữa các thành phần chủng tộc với nhau, rất phức tạp. Xét về nguồn gốc xuất phát dân tộc của các nước Đông Nam Á thì người ta xác định rằng, các dân tộc Đông Nam Á đều xuất phát từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á), mang trong mình ở những mức độ khác nhau từ các yếu tố của hai đại chủng Môngôlôit và Ôxtralôit. Sự “đồng tộc” trên phổ rộng này là một trong những tiền đề quan trọng tạo nên nhiều điểm tương đồng cũng như khác biệt về con người cũng như văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, các nước Đông Nam Á đều là những quốc gia đa thành phần dân tộc, trong đó ở mỗi nước thường có một thành phần dân tộc chiếm chủ thể về số lượng cư dân (5) và trình độ phát triển xã hội. Ngoài ra, còn có nhiều thành phần tộc người khác vốn bản địa của khu vực có từ lâu đời với số lượng thay đổi từng nơi. 8
  20. Từ nhóm nhân chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng Đông Nam Á) có thể chia ra 4 nhóm nhỏ như sau (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Nguyễn Tấn Đắc, 2003; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008): 1.1. Nhóm Anhđônêdiên Bắt đầu là có một dòng người thuộc chủng Môngôlôit từ vùng lục địa châu Á (Tây Tạng) di cư về hướng đông nam và dừng lại ở khu vực mà nay gọi là bán đảo Trung - Ấn. Tại đây đã diễn ra sự hợp chủng giữa họ với cư dân Mêlanêdiên bản địa (thuộc đại chủng Ôxtralôit), tạo chủng Anhđônêdiên (còn gọi là Mã Lai cổ) (6). Từ đây lan tỏa ra, người Anhđônêdiên cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. Người Anhđônêdiên là cư dân cổ có mặt ở hầu khắp các nơi trong khu vực Đông Nam Á, gồm những tộc ít người sinh sống chủ yếu là sâu trong các hải đảo như như người Batắc ở Xumatơra; người Đaiắc, Kênya, Kayan, Punan ở Calimantan; Alphuru ở Xulavêxi thuộc Inđônêxia; nhóm Bontok, Nabaloi, Iphugao, Kankanai, Pagobo, Ghianga thuộc Philippin. Còn ở các miền rừng núi, người Anhđônêdiên có mặt khắp trên bán đảo Đông Dương: các tộc người ở Tây Nguyên, ở dãy Trường Sơn (Việt Nam): Bru - Vân Kiều, Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, M’nông, Khơ Mú; tập trung chủ yếu ở Lào: Thượng Lào (Khơ Mú), Hạ Lào (Hin, Bôlôven) và miền Trung Lào ít hơn; ngoài ra còn ở Cămpuchia và Thái Lan. 1.2. Nhóm Nam Á Nhóm Nam Á (7) là kết quả của sự hợp chủng giữa hai chủng Anhđônêdiên với chủng Môngôlôit, với các nét đặc trưng Môngôlôit lại càng nổi trội, vì vậy, nó được coi là tiểu chủng Môngôlôit phương Nam, và về sau, Bách Việt đã được sinh ra từ chủng này (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). Nhóm Nam Á gồm đại bộ phận người Đông Nam Á, với các nhóm đại diện chủ yếu là Tày, Thái, Việt (Kinh), Lào, Mianma, Mã Lai, Khơ Me… ở bán đảo Trung - Ấn; Visaya, Tagan, Giava, Sunđa, Mađura… ở quần đảo Mã Lai (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). 1.3. Nhóm Vêđôit Theo một giả thuyết, từ hai chủng Nam Á và Anhđônêdiên đã có một tác động nhất định đến loại hình nhân chủng khác ở Đông Nam Á là Vêđôit, phần lớn là Anhđônêdiên. Trong một giai đoạn lịch sử khá dài, nhóm loại hình nhân chủng Vêđôit và Anhđônêdiên đã là thành phần chủ thể của cả khu vực Đông Nam Á với tỷ trọng có thể khác nhau giữa phần lục địa (chủ yếu Anhđônêdiên) và phần hải đảo (ở thời kỳ đầu chủ yếu Vêđôit). Tiếp đến, đó là sự tác động mạnh mẽ của dòng người Nam Á, điều này, càng làm cho bức tranh nhân gian các nhóm nhân chủng Đông Nam Á đang biến đổi lại càng thêm thấm đượm sắc thái mới. Nhóm Vêđôit (8) cư trú khá phổ biến trong cư dân bản địa ở Inđônêxia và một số ít hơn ở phía nam bán đảo Trung - Ấn với độ biến dị khá rộng rãi trên đặc điểm hình thái, như người Tokea, Toala, Loinanga ở Xulavêxi; người Manga, Kayan ở Calimantan; Orang Batin ở Xumatơra; người Xênôi ở Malacca (Nguyễn Đình Khoa, 1983; Lương Ninh và Vũ Dương Ninh, 2008). 1.4. Nhóm Nêgritô Nhóm loại hình nhân chủng Nêgritô (9) được coi là một loại hình của chủng Mêlanêdiên (thuộc đại chủng Ôxtralôit), và phát sinh không sớm hơn loại hình nhân 9
nguon tai.lieu . vn