- Trang Chủ
- Địa Lý
- Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu
Xem mẫu
- Tìm hiểu sự hình thành và thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu
Trong diễn trình lịch sử của dân tộc, danh xưng hành chính của khu vực miền núi
Nghệ An nói chung, Quỳ Châu nói riêng đã trải qua nhiều lần thay đổi, nhưng
không phải tất cả mọi thay đổi đều được ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng trong
sử sách. Đó chính là trở ngại lớn nhất đối với công việc phục dựng lại diên cách
địa lý hành chính Quỳ Châu qua hàng nghìn năm lịch sử. Hiện nay, Quỳ Châu là
một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Nghệ An, nhưng trong quá khứ Quỳ
Châu đã từng tồn tại với những danh xưng hành chính: CHÂU, PHỦ, HUYỆN và
lệ thuộc vào các địa dư khác nhau. Việc tìm hiểu và làm sáng tỏ quá trình lịch sử
hình thành và thay đổi của danh xưng Quỳ Châu không chỉ đáp ứng nguyện vọng
c
1. Sự hình thành danh xưng Quỳ Châu
Thông thường sự ra đời, sự thay đổi của một địa danh hành chính (bất kỳ ở cấp
độ nào) cũng đều phải được quyết định bởi một cá nhân hay một cơ quan quyền lực
nhà nước nhất định. Danh xưng hành chính của một địa phương bao giờ cũng nằm
trong hệ thống hành chính của cả nước. Quỳ Châu là một vùng đất có truyền thống
lịch sử lâu đời, đó là điều đã được khẳng định. Nhưng danh xưng hành chính của nó
xuất hiện từ bao giờ và thay đổi ra sao thì chưa được minh chứng rõ ràng.
Sử cũ chép rằng, hệ thống hành chính của nước ta thời Văn Lang - Âu Lạc
gồm 15 bộ (hay bộ lạc), trong đó có bộ Hoài Hoan. Miền đất Quỳ Châu ngày nay
của tỉnh Nghệ An xưa kia từng là một phần trong địa dư của bộ Hoài Hoan. Trên
vùng đất ấy đã hình thành nên nh ững điểm tụ cư có quy mô khác nhau, tồn tại
dưới dạng các công xã thị tộc hoặc liên minh thị tộc (bộ lạc). Mỗi điểm tụ cư như
vậy có thể có một tên gọi riêng gắn liền với đặc điểm tự nhiên của nơi cư trú (núi,
sông, khe suối, hang động…) hoặc nguồn gốc lịch sử dân cư. Tuy nhiên, chưa
hẳn đó đã là những địa danh hành chính. Các tài liệu thư tịch cổ đều xác nhận,
- thuở các vua Hùng dựng nước Văn Lang, các tụ điểm dân cư thường có tên gọi là
kẻ (hay cổ) ở đồng bằng; động, sách, nguồn ở miền núi; vạn ở những vùng ven
sông, ven biển; đó chỉ là những vùng quê được hình thành tự nhiên chứ chưa
phải là các đơn vị hành chính. Đây là một thực trạng của xã hội Hoài Hoan từ
thời dựng nước cho đến trước khi bị phong kiến phương Bắc xâm lược.
Từ năm 179 tr.CN đến năm 938, đất nước ta phải chịu sự đô hộ của các triều
đại phong kiến phương Bắc. Để phục cho công cuộc cai trị và bóc lột, chúng đã
nhiều lần thay đổi hệ thống hành chính của nước ta. Trong buổi đầu của thời kỳ
Bắc thuộc, huyện Hàm Hoan (quận Cửu Chân) tương ứng với vùng đất của hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Các sách, động, nguồn ở miền rừng núi của
huyện Hàm Hoan vẫn tồn tại độc lập như trước và chưa bị sự kiểm soát chặt chẽ
của chính quyền đô hộ. Nhưng sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, nhà Đông Hán đã bãi bỏ chế độ dung dưỡng, tăng cường chế độ đô hộ
bằng cách đưa quan lại và binh lính người Hán sang trực tiếp cai trị nhân dân Âu
Lạc; chính sách cai trị của chính quyền đô hộ ở huyện Hàm Hoan bắt đầu được
xiết chặt hơn.
Năm 269, quân Ngô dưới sự chỉ huy của Thái thú Đào Hoàng đã tiến đánh
Cửu Chân, khi đến huyện Hàm Hoan đã gặp phải chống trả quyết liệt của nhân
dân địa phương. Sử cũ chép: Bấy giờ Hàm Hoan “địa thế hiểm trở, người di lạo
(1)
hung tợn, đã mấy đời không chịu thần phục” . Đào Hoàng đem quân đánh phá
khắp nơi, mở rộng vùng cai trị ra xa trung tâm, lập thêm nhiều huyện mới (30
huyện và “thổ dân có đến hàng nghìn người”), nhưng không ghi rõ là những
huyện nào. Chỉ biết rằng sau khi Đào Hoàng chết (khoảng năm 299), nhà Đông
Ngô đã tách phần Nam huyện Hàm Hoan ra, đặt thành một quận mới: quận Cửu
Đức (tức vùng đất thuộc Nam Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay).
Năm 523, nhà Lương bỏ đơn vị hành chính cấp quận, đổi quận thành châu,
chia nước ta thành 6 châu và đổi quận Cửu Đức thành Đức Châu. Năm 598 (Khai
- Hoàng năm thứ 8), nhà Tuỳ mặc dù chưa hoàn toàn chinh phục được nước Vạn
Xuân nhưng vẫn tuỳ tiện đổi tên một số châu, huyện, trong đó Đức Châu được
đổi thành Hoan Châu. Danh xưng Hoan Châu ra đời từ đó và tiếp tục duy trì cho
đến buổi đầu của thời kỳ độc lập tự chủ dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê.
Dưới thời Lý - Trần, hệ thống hành chính nước ta được thay đổi nhiều lần, kéo
theo sự thay đổi của hệ thống hành chính của nhiều vùng miền trong cả nước,
trong đó có cả vùng miền núi Nghệ An.
Tháng 12/1010 (Thuận Thiên nguyên niên ), Lý Thái Tổ chia cả nước làm 24
lộ, đặt Châu Hoan làm trại (2). Chính quyền các châu được củng cố và do tri châu,
châu bá, châu mục cai quản.
Năm 1101 (Long Phù năm thứ nhất), Lý Nhân Tông cho đổi Nghệ An châu
trại thành phủ Nghệ An. Nhưng đến năm 1256 (Nguyên Phong năm th ứ 6), Trần
Thái Tông lại đổi phủ Nghệ An thành Trại Nghệ An. Bấy giờ, khu vực miền núi
Nghệ An là miền biên viễn Tây Nam của quốc gia Đại Việt thường xuyên bị sự
quấy phá của giặc “Lão Qua” từ đất Nam Nhung nước Ai Lao.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, trong các năm 1334, 1335 (niên hiệu
Khai Hựu năm thứ 6, 7), Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đi tuần thú Nghệ
An cùng các tướng Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, đích thân đem quân
đánh Ai Lao, xa giá tới Châu Kiềm và tiến vào đất Nam Nhung. Quân Ai Lao
thua chạy, Thượng hoàng sai Nguyễn Trung Ngạn mài đá, khắc chữ ghi công ở
núi Thành Nam, thôn Tr ầm Hương (3)…
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sách Đại Nam nhất thống chí
(Quốc sử quán triều Nguyễn) và Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú)
đều cho rằng: thời Trần, miền thượng du sông Lam là đất Mật Châu (Châu Kiềm
hay Kiềm châu là tên gọi khác của Mật Châu). Núi Thành Nam và thôn Tr ầm
Hương nay thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An… Điều đó cho thấy, thời
- Trần địa giới của Châu Mật hay Châu Kiềm rất rộng lớn, có thể bao gồm cả vùng
thượng du sông Cả và sông Hiếu của miền núi Nghệ An ngày nay.
Dưới triều đại nhà Hồ, vào năm 1404 (niên hiệu Hán Thương Khai Đ ại năm
thứ 2), Hồ Hán Thương cho đổi Nghệ An thành 2 phủ: phủ Diễn Châu và phủ
Nghệ An. Phủ Nghệ An gồm 4 châu: Hoan Châu, Nam Tĩnh, Trà Lung, Ngọc
Mavà 13 huyện là: Nha Nghi, Chi La, Phi L ộc, Thổ Du, Kệ Giang, Chân Phúc,
Cổ Xá, Thổ Hoàng, Đông Ngàn, Thạch Đường, Kỳ La, Bàn Thạch, Hà Hoa. Trà
Lung và Ngọc Ma là những châu xa nhất của miền núi Nghệ An.
Năm 1407, sau khi chi ếm được nước ta, để dễ bề cai trị, nhà Minh đã thiết lập
một hệ thống hành chính mới. Những đơn vị hành chính có địa bàn rộng lớn,
nhất là vùng miền núi xa trung tâm bị chia nhỏ và lập thành những châu, huyện
mới. Chúng bỏ tên Đại Việt, gọi nước ta là quận Giao Chỉ, chia thành 15 phủ, 36
châu và 181 huyện (4).
Sách Nghệ An ký của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch chép: Thời thuộc Minh,
năm Vĩnh Lạc thứ 13 (1415), tách đặt Châu Quỳ, lệ thuộc phủ Diễn Châu, đến
năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417), lệ thuộc phủ Thanh Hoá… Bấy giờ châu Quỳ quản
lĩnh 2 huyện: Trung Sơn và Thuý Vân (5).
Trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời, giáo sư Đào Duy Anh đ ã dẫn lại
những điều ghi chép của sách “Thiên hạ quân quốc” rằng: “Mật châu ở miền Tây
Nghệ An. Thời thuộc Minh có châu Quỳ, Châu Trà Lung và Châu Ngọc Ma…
Mặc dầu ba châu ấy đến thời thuộc Minh mới thấy đặt tên như thế, (nhưng) miền
thượng du đó, từ thời Trần đã ở trong bản đồ nước ta rồi. Miền sông Hiếu vốn
đã thuộc phủ Diễn Châu. Nhà Minh th ấy đất ở xa mới tách đặt Quỳ Châu để dễ
cai trị” 6.
Sách “Sổ tay địa danh Việt Nam”của Đinh Xuân Vịnh cũng ghi chép tương tự
nhưng khác về thời gian: Quỳ Châu “nguyên thuộc châu Mật về đời Trần sau là
- châu Quỳ thuộc phủ Diễn Châu đặt thời Minh (1419). Năm 1420 đổi thuộc phủ
Thanh Hoá, sau là ph ủ, thuộc tỉnh Nghệ An... ”(7).
Trong một số ấn phẩm khác như: “Địa lý các huyện, thành phố, thị xã, tỉnh
Nghệ An” của Trần Kim Đôn, “Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Châu” đều viết:
Vùng đất thuộc ba huyện Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ Hợp ngày nay vốn là một
đơn vị hành chính được hình thành từ thuở xa xưa. Từ năm Vĩnh Lạc thứ 13
(1415), được gọi là châu Quỳ (8).
Đại Việt sử ký toàn thư - Bản kỷ, tập 10, phần khởi nghĩa Lam sơn, viết:
“Canh Tý, [1420], (Vĩnh Lạc năm thứ 18). Mùa đông, tháng 10, vua (Lê Lợi)
nghe tin quân Minh s ắp đến, đặt mai phục ở bến Bổng (thượng nguồn sông Chu)
chờ giặc, chém giết quân giặc nhiều vô kể, bắt được hơn trăm con ngựa. Vua cho
nghỉ quân ở Mường Nanh (nay là xã Thịnh Nang, huyện Lang Chánh, Thanh
Hoá), rồi lại dời đến đóng quân ở Mường Thôi (Man Xôi, Thanh Hoá). Tên đồng
tri châu Quỳ Châu là Cầm Lạn dẫn bọn Lý Bân, Phương Chính đem hơn 10 vạn
(9)
quân, theo đường Quỳ Châu đến thẳng Mường Thôi” . Như vậy, điều này cho
thấy thời Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn, Quỳ Châu đã lệ thuộc phủ
Thanh Hoá, đúng như ghi chép c ủa Hoàng giáp Bùi Dương Lịch trong Nghệ An
ký .
Nếu những điều ghi chép trong các dẫn liệu trên là đúng, thì có nghĩa là danh
xưng Châu Quỳ hay Quỳ Châu với tư cách là một đơn vị hành chính cấp châu đã
chính thức xuất hiện từ tháng 4 năm 1415. Đơn vị hành chính cấp châu này tồn
tại 55 năm, từ năm 1415 đến năm 1470.
2. Quá trình thay đổi của địa danh hành chính Quỳ Châu
Năm 1466 (Quang Thuận năm thứ 7), Lê Thánh Tông chia c ả nước thành 12
đạo Thừa tuyên và đổi trấn thành châu, đổi lộ thành phủ. Năm 1470 (Hồng Đức
năm thứ nhất), định bản đồ Thừa tuyên Nghệ An gồm: 9 phủ, 25 huyện, 2 châu.
- Quỳ Châu được nâng từ cấp châu lên thành phủ - phủ Quỳ Châu,quản lĩnh 2
huyện: Trung Sơn và Thu ý Vân. Năm 1490 ( Hồng Đức năm thứ 21), Lê Thánh
Tông lại cho đổi Thừa tuyên Nghệ An thành xứ Nghệ An (hay thường gọi là xứ
Nghệ) bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Phủ Quỳ Châu bấy giờ vẫn quản
lĩnh 2 huyện: Trung Sơn gồm 16 động và Thuý Vân gồm 23 động (10), lỵ sở đặt ở
Đồng Lạc, huyện Thuý Vân (nay thu ộc xã Châu Hạnh, Quỳ Châu).
Thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Hồng Thuận (1510-1516), vua Lê Tương Dực
đổixứ Nghệ An thành trấn Nghệ An, nhưng hệ thống các đơn vị hành chính thuộc
phủ Quỳ Châu về cơ bản vẫn giữ nguyên như trước.
Thời nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Tự Đức, địa giới và địa danh hành chính
của Nghệ An được thay đổi nhiều lần, nhưng Quỳ Châu vẫn là đơn vị hành chính
cấp phủ, trực thuộc trấn Nghệ An (thời Gia Long), tỉnh Nghệ An (thời Minh
Mạng) và An Tĩnh (thời Tự Đức). Những thay đổi đáng kể trong thời kỳ này là:
- Năm 1835 (Minh Mạng năm thứ 16), huyện Trung Sơn (phủ Quỳ Châu)
được đổi tên thành huyện Quế Phong, danh xưng hành chính huyện Quế Phong
bắt đầu xuất hiện từ đó.
- Năm 1840 (Minh Mạng năm thứ 21), trích 7 tổng ở phía Tây của huyện
Quỳnh Lưu, 1 tổng của huyện Yên Thành, 1 t ổng của huyện Thuý Vân để
lậpthành huyện Nghĩa Đường, thuộc phủ Quỳ Châu. Năm 1886, vì kỵ huý(11) tên
của vua Đồng Khánh nên đã đổi Nghĩa Đường thành Nghĩa Đàn.
Trong 67 năm (từ 1840-1907), phủ Quỳ Châu quản lĩnh 3 huyện: huyện Quế
Phong (gồm 4 tổng, 16 xã, thôn), huyện Thuý Vân (gồm 5 tổng, 30 xã, thôn) và
huyện Nghĩa Đường/Nghĩa Đàn (gồm 8 tổng, 49 xã, thôn). Ph ủ lỵ đặt ở sách
Nghĩa Hưng, huyện Nghĩa Đường (Nghĩa Đàn)(12).
- Bên cạnh hệ thống hành chính do nhà nước đặt lập, trên địa bàn Quỳ Châu
còn tồn tại một hệ thống đơn vị hành chính được đặt lập theo một trật tự khác.
Nhiều kết quả nghiên cứu của ngành Dân tộc học đã xác nhận: khoảng từ sau
thế kỷ thứ X trở đi đã liên tục diễn ra các cuộc di cư của nhiều nhóm tộc người
từ những hướng khác nhau đổ vào miền đất phủ Quỳ Châu, trong đó chủ yếu là
người Thái, người Khơ-mú và người Kinh (Việt). Trong quá trình t ổ chức khai
phá đất đai và định cư, họ đã tạo lập nên những đơn vị tổ chức xã hội dưới hình
thức là các mường, bản, làng với những tên gọi đặc thù riêng, chứ chưa phải là
những danh xưng hành chính do nhà nước quy định. Điều đó còn in đậm trong
ý thức tự giác tộc người của từng cộng đồng dân cư. Cộng đồng người Thái
trên vùng đất của phủ Quỳ Châu xưa đã lập nên những mường lớn - mường
trung tâm với các mối quan hệ mường trong, mường ngoài được gia cố bởi các
quan hệ dòng họ, lệ tục… Tất cả có 11 mường: Mường Tôn, Mường Quèn,
Mường Chừn, Mường Quáng, Mường Hín, Mường Puộc, Mường Pắn, Mường
Miếng, Mường Chón, Mường Cồ Bá và Mường Xớn Hám. Trong đó, Mường
Tôn được gọi là mường gốc hay mường chủ, từ đó hình thành nên các “mường
con”, phân bổ trên khắp phủ Quỳ Châu xưa. Điều này tạo nên sự độc lập tương
đối trong hệ thống hành chính do nhà nước lập ra.
Dưới thời thuộc Pháp, ngày 20/10/1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị
định sửa đổi hệ thống hành chính ở phủ Quỳ Châu. Chúng chia tách phủ Quỳ
Châu lập thời Minh Mạng (1840) thành hai đơn vị hành chính ngang nhau là: phủ
Quỳ Châu và huyện Nghĩa Đàn. Phủ Quỳ Châu bấy giờ chỉ còn quản lĩnh 2
huyện Quế Phong và Thuý Vân nh ư thời kỳ trước năm 1840, cộng thêm 2 tổng
vùng trên của huyện Nghĩa Đàn. Địa dư phủ Quỳ Châu lúc này bao gồm phần đất
của hai huyện Quế Phong, Thuý Vân và 2 tổng thượng của huyện Nghĩa Đàn với
diện tích 5.000km2, chiều dài từ phà Dinh đến Huổi Ho là 120 km, chiều rộng từ
đỉnh Pù Quế (xã Châu Nga) đến cuối xã Châu Sơn là 80km. Phía Bắc và Đông
Bắc giáp hai huyện Như Xuân và Thường Xuân của tỉnh Thanh Hoá, phía Tây
- giáp huyện Sầm Tớ, tỉnh Sầm Nưa (Lào) với đường biên giới hơn 85km, phía
Tây giáp huyện Tương Dương, phía Đông Nam giáp huyện Nghĩa Đàn(13). Lỵ sở
đặt ở Kẻ Bỏn (nay thuộc xã Châu Hạnh), nên thường gọi Phủ Bỏn; bấy giờ phủ
Quỳ Châu gồm 37 xã, lập thành 11 tổng.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, h ệ thống hành chính được thay đổi trên phạm
vi cả nước, các đơn vị hành chính cấp phủ và tổng bị xoá bỏ, các xã nhỏ được
hợp nhất thành các xã có quy mô lớn hơn. Thực hiện chủ trương trên, tên gọi phủ
Quỳ Châu được đổi thành huyện Quỳ Châu.
Ngày 26/8/1945 thành l ập Ủy ban cách mạng lâm thời (tại công đường phủ
Quỳ Châu). Sau sự kiện này, trong các văn bản hành chính danh xưng huy ện
Quỳ Châu bắt đầu xuất hiện và thay thế danh xưng phủ Quỳ Châu. Do vậy, có
thể xem ngày 26/8/1945 như là ngày chính thức ra đời của đơn vị hành chính
huyện Quỳ Châu (gồm Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong ngày nay, hay còn gọi là
huyện Quỳ Châu cũ). 37 đơn vị hành chính cấp xã của phủ Quỳ Châu trước đây,
giờ được hợp nhất thành 11 xã (Đồng Lạc, Hữu Đạo, Thanh Xuyến, Văn Tập,
Quý Dương, Thuận Khê, Quang Phong, Kim Diêm, Tuy ền Nham, Thuận Hàm,
Phạc Lộ).
Địa bàn của mỗi xã rất rộng, địa hình phức tạp do bị chia cắt bởi sông ngòi,
khe suối và rừng núi, gây trở ngại lớn cho công tác tổ chức và quản lý của chính
quyền cơ sở. Do vậy, ngày 17/2/1961, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số
33/CP, chia 9 xã trong số 11 xã của huyện Quỳ Châu thành 27 xã.
Năm 1963, thực hiện Quyết định số 52/CP ngày 19/4/1961 c ủa Hội đồng
Chính phủ, huyện Quỳ Châu được chia tách thành 3 huyện: Quế Phong, Quỳ
Hợp và Quỳ Châu. Về phương diện văn bản Nhà nước, ngày quyết định chia
tách huyện Quỳ Châu cũ có hiệu lực, cũng có thể xem là ngày tái l ập của huyện
Quỳ Châu mới.
- Từ đó đến nay, địa dư hành chính c ủa huyện Quỳ Châu có thêm một số điều
chỉnh như: Cắt chuyển xã Châu Phương 14 nhập về huyện Quế Phong, theo
Quyết định số 143-NV, ngày 17/4/1965 c ủa Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Chia xã
Châu Hoàn thành 2 xã: Châu Hoàn và Diên Lãm theo Quy ết định số 159-NV
ngày 24/3/1969 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Thành lập thị trấn Quỳ Châu theo
Quyết định số 275/QĐ - BTCCBCP, ngày 14/6/1990 c ủa Ban tổ chức cán bộ
nước CHXHCN Việt Nam. Tháng 5/2010, thị trấn Quỳ Châu được mở rộng địa
giới và đổi tên thành thị trấn Tân Lạc (theo Nghị quyết số 24/NQ-CP ngày
12/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Trong quá trình lịch sử gần 600 năm, danh xưng Châu Qu ỳ - Quỳ Châu đã trải
qua nhiều lần thay đổi về cấp độ hành chính và địa dư. Vì vậy, tìm hiểu địa danh
hành chính Quỳ Châu sẽ có một ý nghĩa nhất định đối với việc nghiên cứu lịch
sử, địa chí các huyện Quỳ Hợp, Quế Phong, Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hoà ngày
nay.
- Bảng Phủ Quỳ Châu xưa (tên mường - tổng - xã qua các thời kỳ)(15)
Tên
Tên tổng
Số Tên xã Tên xã
TT Tên xã hiện tại
thời phong
mường xã trước 1945 sau 1945
kiến
xưa
Căm Lư
Tạo Khê,
Mường
Châu Kim, Tri Lễ,
Tạo Khê Kim Sơn,
1 3 Thính Giai,
Châu Thôn
Tôn Tri Lễ
Châu Hùng
½ xã Mường Nọc, ½
Mường
Quý
Quý Dương Chóm Búa
2 1 xã Châu Kim (Quế
Dương
Quèn Phong)
Quế Sơn, Hành Dịch
Vân Tập,
Mường và ½ xã Mường Nọc,
Vân Tập Hữu Văn, Phảnh Keo
3 3 ½ xã Châu Kim
Chừn Hành Dịch
(Quế Phong)
Kắm Muộn, Quang
Quang
Mường Kắm Muộn
4 3
Quang
Phong, Nặm Nhóng
Phong,
- Bàng Nghệ, (Quế Phong)
Quáng Phong
Phụ Thánh
½ xã Tiền Phong
Thanh
Mường
(Quế Phong); Châu
Thanh Xuyên,
5 3 Tiêu Bính
Xuyến Việt Phú, Bính, Châu Thu ận
Hín
Thi Phố (Quỳ Châu)
Quang
Thông Thụ, Đồng
Mường
Quang Liên, Kim
Thông Thụ Văn và ½ xã Châu
6 3
Liên Diêm, Hiệp
Puộc Kim (Quế Phong)
Cát
Hữ u
Châu Tiến, Châu
Đạo,Thọ
Mường Kắm Lán,
Thắng (Quỳ Châu) và
Sơn, Giá
Hữ u Đ ạo
7 4
½ xã Tiền Phong
Pắ n Tân Tiến
Hội, Thanh
(Quế Phong)
Nga
Đồng Lạc,
Châu Hạnh, TT Tân
Mường
Tân Lạc,
Đồng Lạc Hạnh Thiết Lạc, Châu Hội, Châu
8 2
Gia Hội,
Miếng Nga (Quỳ Châu)
Thanh Nga
Tuyền Châu Phong, Châu
Tuyền
Mường
9 3 Hùng Chân
Hoàn, Diên lãm (Quỳ
Nham,
Nham
Diên Lãm, Châu); Châu Thành,
- Tiên Lộc Châu Hồng, Châu
Chón
Tiến (Quỳ Hợp)
Châu Bình (Quỳ
Cồ Bá, Yên Châu);
Độ, Yên
Mường Chúng
10 4
Yên Hợp, Châu Lộc,
Cồ Bá Lãng, Đắc Láng
Phạc Lộ
Liên Hợp, Đồng Hợp
L ộc
(Quỳ Hợp)
Thuận
Châu Quang, Thị Trấn
Hàm, Tử
Mường
Qùy Hợp, Châu
La Diêu
Thuận
Phi,Tạo Khủn Tinh Cường, Châu Đình,
11 6
Xớ Hàm
Châu Lý, Bắc Sơn,
Thân Vĩnh
Nhám
Lộc, Trọng Nam Sơn (Quỳ Hợp)
Hạp
Bảng theo dõi thay đổi địa danh hành chính Quỳ Châu từ khi xuất hiện
danh xưng Châu Quỳ (4/1415) đến nay
Cấ p Thời gian Trực thuộc Quản lĩnh
Danh xưng
hành
- chính
1415-
Phủ Diễn Châu
1417
- 2 huyện: huyện
Trung Sơn và
1419-
huyện Thuý Vân.
Phủ Thanh Hoá
1428
Châu Quỳ
CHÂU
↨ Phủ Nghệ An → Đạo Hải -
1428- Năm 1835,
1466 Tây Trung Sơn được
Quỳ Châu
đổi tên thành Quế
Phong
1466-
Thừa tuyên Nghệ An
1490
1490-
Xứ Nghệ An
1510
1510-
Trấn Nghệ An
1778
1778-
Nghĩa An trấn
1802
Trấ n Nghệ
1802- An (Gia
1820 Long)
- Tỉnh Nghệ An (Minh
1820-
Mạng)
1840
Tỉnh Nghệ An (Minh
1840-
Gồm: Thuý Vân,
Mạng)
1848
Qu ế Phong và
Phủ Nghĩa Đàn
1848-
An Tĩnh (Tự Đức)
1883
PHỦ Quỳ Châu Gồ m huyện:
2
Quế
Thuý Vân,
Phong
1883-
tỉnh Nghệ An
1907
Gồm: Quỳ Hợp,
Qu ỳ Châu 1945-
Nghệ An Quỳ Châu, Quế
(cũ) 1963
Phong
→ Nghệ Tĩnh (1976 - 1991)
1963
Quỳ Châu
HUYỆN Gồm: Thị trấn Tân
Nay
Lạc và 11 xã
(ngày nay) (2011) Nghệ An
Chú thích
1
Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1972, tr.109.
2
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr.213.
- 3
Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ - kỷ nhà Trần, Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội,
1993.
4
Dẫntheo Lịch sử Hà Tĩnh, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.150.
5
Bùi Dương Lịch: Nghệ An ký (Nguyễn Thị Thảo dịch và chú giải, Bạch Hào
hiệu đính), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1993, tr.34-36.
6
Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hoá, 1994,
tr.157.
7
Đinh Xuân Vịnh: Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2002, tr.548.
8
Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Châu, Nxb Nghệ An, 2005, tr.7 Trần Kim Đôn:
Địa lý các huyện, thành phố, thị xã, tỉnh Nghệ An, Nxb Nghệ An, 2004.
9
Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, tập 10, Khởi nghĩa Lam Sơn, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1993.
10
Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí - Dư địa chí Nghệ An, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.79.
11
Đại Nam nhất thống chí, quyển 5, tập II (phần Dựng đặt và diên cách), Nxb
Thuận Hoá, 1992, tr.118 -129.
12
Vua Đồng Khánh có nhiều tên huý như: Nguyễn Phúc Chánh Mông,
Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, Nguyễn Phúc Ưng Thị, Nguyễn Phúc Biện và Nguyễn
Phúc Đường.
13
Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳ Châu, Nxb Nghệ An, 2005, tr.7-8
- 14
Sau khi cắt nhập về huyện Quế Phong, xã Châu Ph ương được đổi tên thành
xã Tiền Phong.
15
Tài liệu sưu tầm của ông Vi Ngọc Chân, cán bộ Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị huyện Quỳ Châu.
Hoàng Quốc Tuấn
nguon tai.lieu . vn