Xem mẫu

  1. Tiểu thuyết chính trị Hậu hiện đại Lời dẫn: Cuốn The Fiction of Postmodernity (Tiểu thuyết hậu hiện đại) của Stephen Baker gồm năm phần (Đánh mất niềm tin: Ý thức hệ và Thời đại của Cái Mới; Những phản ánh hậu hiện đại: Tư tưởng hậu Marxist; Cái hậu hiện đại và Tiểu thuyết lịch sử; Tiểu thuyết chính trị hậu hiện đại; Sự thiếu hụt thời hậu hiện đại: Adorno chống lại Jameson), nghiên cứu mối quan hệ giữa lí thuyết hậu hiện đại và thực tiễn sáng tác hậu hiện đại. Ở đây, các tác phẩm của Don Delillo, Toni Morrison, Salman Rushdie, Thomas Pynchon và Martin Amis được đặt trong tương quan với những phê bình về “nền công nghiệp văn hoá”, những phân tích về “điều kiện hậu hiện đại” và các lí thuyết về cái thay thế giả tạo của Theodor Adorno, Jean- Francois Lyotard, Fredric Jameson, Jean Baudrillard. Cuốn sách mô tả về cái hậu hiện đại từ truyền thống phê bình Marxist và từ bối cảnh hậu marxist. Phần trích dịch sau đây thu ộc phần bốn (Tiểu thuyết chính trị hậu hiện đạ i), phân tích tác ph ẩm của nhà văn Ấn Độ Salman Rushdie, chủ yếu là cuốn Những
  2. vần thơ của quỷ sa tăng (Satanic Verses), trong tương quan với các lí thuy ết về điều kiện hậu hi ện đại, với bối cảnh Hồi gi áo hiện đại, với các phê bình về “nền công nghi ệp văn hoá” từ đó, kh ẳng đị nh diện mạo và giá trị thi ết yếu của cuốn tiểu thuy ết chính trị hậu hiện đại này (ND). * “Không đâu là nh à”: Chính trị hậu hiện đại và Những vần th ơ của quỷ sa tăng Điều tôi mu ốn khám phá trong The Satanic Verses (Những vần thơ của qu ỷ sa tang) là quan ni ệm của Rushdie về chủ ngh ĩa phi-chính thống (anti- foundationalism) hậu hiện đại, sự từ bỏ tiêu chí tiên nghi ệm khi phán xét của cuốn tiểu thuy ết. Đặc biệt, tôi sẽ khẳng định, The Satanic Verses thể hi ện - trên cả trang viết và cả trong ý ngh ĩa chính trị của nó - sự khủng hoảng của sự hợp th ức hóa. The Satanic Verses là cuốn ti ểu thuy ết về quy ền uy. Thật nhục nhã, nó là cuốn ti ểu thuy ết tra vấn ho ặc đòi hỏi chúng ta phải nghĩ lại các ph ương di ện của quy ền uy tôn giáo. Vụ việc của “quỷ thi” chỉ là một thí dụ về sự phê ph án của cuốn tiểu thuy ết đối với tính xác thực của mặc khải tôn giáo – và, tất nhiên, đó cũng là sự phê phán đối với cả sự hợp th ức hóa của những phán xét nhân danh quy ền uy thần thánh hay quy ền uy tuy ệt đối. Tương tự, Rushdie nh ạo báng quy ền uy nhà nước Anh qua nh ững đoạn mi êu tả sự thô bạo của gi ới cảnh sát và những câu chuy ện bịa khủng khi ếp để hợp pháp hóa sự nh ạo báng đó. Những phê phán của Ayatollah Khomeini của Iran và Norman Tebbit của thị trấn Chingford (ngo ại ôLondon - ND) đều liên quan đến ph ương diện này trong tác phẩm của Rushdie. Nhưng tâm điểm quy ền uy của cuốn tiểu thuy ết là người kể chuy ện, một giọng điệu dẫn dắt chúng ta qua vô số những câu chuy ện về chủ nghĩa ho ài nghi chính trị, sự ngờ vực tôn giáo và những chuy ện tình phản bội. Điều tôi mu ốn nói là, trong khi The Satanic Verses kịch hóa những câu chuy ện nghi ngờ các hình thức quyền uy xã hội và văn hóa thì Rushdie lại chấp nhận một góc nhìn tự sự cho phép tích hợp chủ đề cấu trúc quy ền uy vào chính cấu trúc của cuốn ti ểu thuy ết. Đó là cái giọng điệu tự sự đơn mà chúng ta phải tin cẩn, chúng ta phải tính đến độ ng cơ và ý đồ của nó; trên hết, đó là giọng điệu mà chúng ta cần phải xác định ngu ồn gốc. Khi mi êu tả cảnh Saladin và Gibreel rơi khỏi máy bay, Rushdie
  3. ngay lập tức hỏi chúng ta “Tôi là ai?”. Đây là một câu hỏi khá có lí, khơi gợi mức độ quan trọng của bản thân; nhưng có lẽ câu hỏi này cũng bóng gió cho thấy rằng lai lịch của ông có thể tác động đến cách di ễn dịch của chúng ta về câu chuy ện. “Còn ai vào đấy nữa?” không phải là câu trả lời tốt nh ất. Những dấu vết về lai lịch của người kể chuy ện có khắp nơi trong văn bản tác phẩm. Hai câu hỏi tôi vừa dẫn chỉ ra rằng những lời chúng ta đọc được là những lời thi êng, rằng người kể chuy ện là Chúa. Trong khi đó, tên gọi cuốn ti ểu thuy ết lại nhắm tới một quyền uy tự sự ít cao quý: Ông tổ Dóc, Satan hay Shaitan. Đấy là hai khả năng đối lập mà người kể chuy ện liên tục dùng để khi êu khích chúng ta. Trong truyện, sau khi rơi khỏi thi ên đàng hay sau khi được tái sinh trong vụ nổ tái tạo vũ trụ, Saladin và Gibreel trôi dạt vào đất Anh. Người kể chuy ện bình phẩm về sự kiện này và về bản thân như sau: “Rõ ràng tôi biết sự thật. Tôi đã quan sát toàn bộ sự việc. Lúc này tôi chưa thể tuyên bố được cái gì một cách bao quát và đầy đủ được nhưng tôi hi vọng tôi có thể xử lí được vụ việc này. Chamcha mu ốn và Farishta làm theo. Người nào có ph ép th ần? Bài ca của Farishta là theo điệu của thi ên th ần hay ác quỷ? Tôi là ai? Chúng ta hãy hỏi theo cách này: ai có gi ọng âm tốt nhất?”(1). Chúng ta đã biết, trong truy ện, có một phép màu xuất hiện; nh ưng dường như nó được sinh ra từ một bài hát, mà bài hát này lại kh ông được ca sĩ thể hiện thừa nhận, và người ca sĩ này thu ộc “loại” nào – thi ên thần hay ác quỷ - cũng không có gì chắc chắn. Vì thế, chính phép màu này trở nên đáng nghi. Ở đây không phải là việc một sự thật được kể lại, mà là vi ệc chúng ta nên phản ứng nh ư thế nào – sùng kính? hay là hãi sợ? Tình hình trở nên ph ức tạp hơn khi người kể chuy ện quay lại câu hỏi ban đầu về lai lịch của anh ta. Lần này câu trả lời có gợi ý rõ ràng về địa vị ma quỷ của anh ta, nhưng đó vẫn chưa phải là phán quy ết cuối cùng. Nếu anh ta là Shaitan, như chính anh ta bóng gió để lộ ra, thì chúng ta có thể đoán, mục đích của anh ta là những trò tinh quái, anh ta mu ốn đá nh lừa chúng ta. Vậy việc anh ta gieo vào lòng độc giả những hồ nghi về phép màu và bài hát của Gibreel có phải là một ví
  4. dụ của trò đùa hiểm ác này không? Có thể anh ta đang cố làm cho chúng ta nghi ngờ hay e ngại những dấu hiệu chứng tỏ quy ền lực của Thần thánh và lòng trắc ẩn. Nhưng cái giả thi ết về người kể chuy ện là quỷ lúc này lại nuôi dưỡng một câu hỏi khác liên quan đến phần đầu tác phẩm: có phải toàn bộ sự mi êu tả - vụ rơi máy bay và điều thần kì, sự chết đi sống lại – là bịa đặt ho àn toàn? Bởi vì chính hắn nhắc nhở chúng ta rằng hắn là quy ền uy duy nhất li ên quan đến sự ki ện kì diệu này. Gibreel Farishta đánh mất niềm tin và thực hiện hành vi báng bổ. Chúng ta được nghe kể, những giấc mơ theo sau sự báng bổ của Gibreel có một chức năng đặc biệt: “Sau khi anh ta ăn hết chỗ thịt lợn thì sự báo th ù bắt đầu, sự báo thù về đêm, sự trừng phạt của những giấc mơ” (The Satanic Verses, tr.32). Lòng ho ài nghi tôn gi áo của Gibreel được kịch hóa trong bộ óc mộng mị và trên trang giấy. Người kể chuy ện hàm ý, việc bị ám ảnh bởi nh ững giấc mơ như thế là số phận của những kẻ rời bỏ Chúa. Mặc dù vậy, rõ ràng những gi ấc mơ này còn có dụng ý khác: chúng gợi ý cho độc giả nh ững cách diễn dịch khác, phi chính th ống về lịch sử. Đồng th ời, những câu chuy ện báng bổ được kể tỉ mỉ trong giấc mơ của Gibreel về xứ Jahilia có thể xem như là biểu hi ện tâm lí của lòng bất tin nơi nhân vật (điều này liên quan đến cả những chi tiết tôn giáo và lãng mạn); và, nếu chúng ta thử đoán người kể chuy ện là qu ỷ Sa tăng, thì có thể xem nh ững báng bổ kia là sự bóp méo đầy bịp bợp về nguồn gốc Hồi giáo, với ý định dẫn dắt độc giả, như đã từng dẫn dắt Gibreel, đi lầm đường và xúi giục họ nghi ng ờ sự chân xác tuy ệt đố i của đức tin tôn giáo. Những mâu thu ẫn của hai chức năng này xuất hi ện mà không gây một bất ngờ lớn nào. Ở mỗi trường hợp, vi ệc chúng ta giải th ích cách đánh giá tính báng bổ trong những giấc mơ cần phải giả định trước một quy ền uy xác định đối với nh ững giấc mơ (v ới những nguy ên cớ và lợi ích rõ ràng). Nhưng những giấc mơ kiểu đó hoàn toàn vắng bóng ở đây. Nói cách kh ác, The Satanic Verses được nuôi dưỡng bởi một cấu trúc tự sự có vẻ như dẫn người đọc đi tới những đánh giá chính trị hoặc đạo đức về ho ạt độ ng kể và hoạt động được kể; những đá nh giá đó dựa trên nh ững tiền đề ti ên nghi ệm về bản chất của quy ền uy vốn hay được dẫn ra để biện minh (ví dụ, nếu người kể chuy ện là Chúa, thì những giấc mơ là sự trừng phạt; nếu là quỷ Sa tăng, th ì đó là sự xúi gi ục báng bổ). Nh ưng
  5. cấu trúc tự sự ở đây, đồng thời, cũng cản trở độc giả ti ến tới một kết luận về ng ười kể chuy ện, bằng cách xây dựng ngh ịch lí về hai khả năng xác định gốc gác của quy ền uy tự sự; mà ở đây, người đọc bị quy định là phải thừa nhận hai khả năng này là đố i lập. Những giấc mơ cũng như câu chuy ện trong giấc mơ liên quan đến câu hỏi về cách thức các nền văn hóa và các xã hội thi ết lập những quy ước có hiệu lực về lòng sùng kính và trò ma quỷ; những quy ước này gây khó kh ăn cho độ c gi ả khi tìm hiểu và tin vào gi ọng của người kể chuy ện chính thống. Những rối rắm tinh thần đặt ra với bất cứ độc giả nào, những người trước tiên phải vật lộn với tình trạng thần học mơ hồ (v à do đó , cả sự đáng tin) của người kể chuy ện, sau đó lại phải xem xét cấu trúc chính trị của toàn bộ quan điểm về cái tôn kính và cái ph ỉ báng (t ức là quan điểm về cái căn cứ vững chắc để nhận dạng dòng tự sự), này chỉ là được hình dung ra. Tôi khẳng định, vi ệc không th ể đưa ra kết luận cuối cùng về người kể chuy ện là quỷ hay Thi ên th ần, hay là cái gì đó ở giữa, buộc người đọc The Satanic Verses phải từ bỏ toàn bộ quan điểm tạo ra những nấc thang chính trị và đạo đức về cái nền tảng có sẵn hay những câu trả lời tiên nghi ệm về một người kể chuy ện đặc quy ền, có khả năng chịu trách nhi ệm - một quan điểm mà chính tiểu thuy ết này khi êu khích. Những rắc rối th ái quá trong việc xây dựng nhân dạng và mức độ đáng tin của ng ười kể chuy ện trong tiểu thuy ết này khi ến cho tất cả những nỗ lực giải thích hay ph ân tích người kể chuy ện uy quyền trở nên ph ù phi ếm và vô lí. Chúng ta ph ải từ bỏ đức tin trước đây cho rằng, có thể làm phát lộ một câu chuy ện chân thật, không tì vết, được ẩn chứa, bằng việc cật vấn đị a vị người kể chuy ện và khám phá chính xác phạm vi vận động của dòng tự sự. Với tôi, cuốn tiểu thuy ết đư a đến kiểu tự sự của chủ ngh ĩa phi-ch ính thống hậu hiện đại (ND nhấn mạnh). Mặc dù vậy, điều này dẫn đến một vấn đề trầm trọng liên quan đến những thảo luận về ý ngh ĩa chính trị của cuốn tiểu thuy ết. Zygmunt Bauman (Nhà xã hội học Anh - ND) viết như sau: “Có lẽ phải tranh luận xem, liệu các triết gia hi ện đại có làm cho nguy ện vọng của mọi ng ười khớp vào nền tảng của các quy tắc đời sống văn minh phương Tây, các quy tắc văn hoá phương Tây, mĩ học, đạo đức, logic, sức mạnh khách
  6. quan của lí trí ph ương Tây, v.v... không. Tuy nhi ên, trong thực tế, họ không bao giờ ngừng tìm ki ếm một sự ho à hợp như vậy và cũng hiếm khi ngừng tin rằng, cuộc tìm ki ếm đó sẽ đem lại - phải đem lại - kết quả. Thời hậu hiện đại được nhận diện bởi sự từ bỏ cuộc tìm kiếm này và nhận thức về tính vô ích của chúng. Thay vào đó , thời hậu hiện đại cố gắng tự điều hoà với tình trạng cuộc sống thường xuy ên vô đị nh và nan gi ải; một cuộc sống không thể chứng tỏ được rằng những xác quyết đặt nền tảng cho tất cả lại vững bền hơn những lẽ thường được đị nh hình trong lịch sử riêng”(2). Tiểu thuy ết của Rushdie xuất hi ện để đưa ra chính xác một lời phê bình như vậy. Nó phủ nhận việc các độc giả tìm đến câu chuy ện chính đáng của lẽ phải thời Khai sáng để bảo vệ nó khỏi mi ệng lưỡi của các nhà phê bình nhất thần, thu ộc trào lưu chính thống. Cuốn tiểu thuy ết tự nó đã gợi ra rằng, những câu chuy ện như th ế, những câu chuy ện bao hàm một mô hình biểu hiện văn hóa tự do và dân chủ không thể bị coi là tiêu chí kết tội. Một cách hài hước, tôi nghĩ đến vi ệc Thomas Docherty đã liên hệ kiểu tiếp nhận chính trị cuốn tiểu thuy ết này với thu ật ngữ “differand ” của Jean-Francois Lyotard, thu ật ngữ chỉ “cuộc xung độ t giữa (ít nhất) hai nhóm, không thể gi ải quy ết một cách công bằng do thi ếu một nguy ên tắc xét xử có thể áp dụng cho cả hai lí lẽ”(3). Docherty viết: “Một mặt tôi mu ốn kh ẳng định văn bản này mâu thu ẫn với luật lệ Hồi giáo, một mặt, tôi lại không thấy văn bản này phải bị xét xử bởi luật lệ đó hay là duy nhất một luật lệ đó. Ở (ví dụ này), hóa ra chúng ta thiếu một điểm tựa đồng thuận với nền tảng hợp lí ở cả hai mặt”(4). Một lời biện hộ mang tính chính trị hậu hiện đại về The Satanic Verses, một lời biện hộ thích hợp với quan điểm chính trị của cuốn tiểu thuyết vừa không thể xác định một cách máy móc tác phẩm của Rushdie như là totem cho một nguyên lí trừu tượng, chính thống của “diễn văn tự do” nào đó, vừa không thể chấp nhận nó như là một bài luận phỉ báng (tuy nhiên, trong thực tế, nó vẫn bị phán xử). Thay vào đó, với tôi, vấn đề then chốt là phải nhấn mạnh sự vô cùng cá biệt của cả cuốn tiểu thuyết và cả hoàn cảnh chính trị mà trong đó những lệnh cấm và luật fatwa (tên một luật hồi giáo - ND) được tuyên bố. Đây không phải là việc vi phạm nguyên tắc tôi đã nói ở trên. Đúng là trong một tình thế chính trị nào đó, cần sáng tạo ra những hình thức về “quyền con người” và “diễn văn tự do”. Nhưng ở đây, nó không được
  7. thừa nhận là quan điểm hoa mĩ tiên nghiệm vì nó có truyền thống không trung thành với chính những giá trị đó. Cả ở trong và ngoài trang sách, The Satanic Verses sáng tạo ra một thế giới chính trị; đó là thế giới không thể tin vào bất cứ một tiêu chuẩn đã có nào, bất cứ một sự biện minh được thừa hưởng nào; đó là thế giới với các giá trị được công thức hoá theo kiểu mới, xây dựng theo kiểu mới, trong ánh sáng của hoàn cảnh cụ thể và riêng biệt. The Satanic Verses, suy cho cùng, là cuốn tiểu thuy ết nói về việc cái mới đến với thế giới như thế nào (ND nhấn mạnh). Trong phần cuối Wizard of Oz, Rushdie bàn về các kết luận của Frank L. Baum viết trong cuốn sách dành cho trẻ em này. Ông nhấn mạnh cuốn mười sáu, trong đó, dì Em, chú Henry và Dorothy, mặc dù gắn bó thân thiết với thế giới Kansas thân thuộc và sung túc, nhưng tất cả vẫn chuyển tới vùng Oz: “Cuối cùng xứ Oz đã trở thành nhà; th ế giới tưởng tượng đã trở thành thế giới th ực khi nó làm tho ả mãn tất cả chúng ta, bởi vì sự th ật là, có lần chúng ta rời bỏ không gian tuổi thơ và bắt đầu thu vén cuộc sống ri êng, chúng ta chỉ tập trung duy nhất vào việc xem chúng ta có gì, chúng ta là gì, chúng ta hiểu rằng, bí ẩn thực sự của đôi hài ng ọc không phải là “kh ông đâu là nhà”, mà xa hơn, là không có nơi nào nữa giống như nhà: trừ, tất nhi ên, ngôi nh à chúng ta xây, hay ng ôi nhà được làm cho chúng ta; ở xứ Oz: bất kì nơi nào và tất cả mọi nơi đều không phải là nhà, trừ cái nơi mà từ đó chúng ta bắt đầu”(5). Kết luận, tôi cho rằng, The Satanic Verses, vừa là sự thực hành mang tính hậu hiện đại nh ững mi êu tả của Marx về sự tan chảy của chủ ngh ĩa tư bản và về quy ền lực phá huỷ: “tất cả những gì rắn chắc đều tan thành không khí; tất cả những gì thi êng li êng đều bị báng bổ”, vừa nhấn mạnh yêu cầu không thể tránh được và nó không ng ừng nhắc đi nhắc lại là tạo ra cái nhìn phán xét về chính trị và sự thống nhất về chính trị; một cái nhìn và một sự th ống nhất được đặt trong phạm vi lịch sử, chứ kh ông phải là những kh ái niệm siêu vi ệt, xuy ên lịch sử hay vật chất hóa.
nguon tai.lieu . vn