Xem mẫu

  1. Tiểu luận Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
  2. Mục lục Mục lục ......................................................................................................... 1 I. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................................................. 3 II. Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...... 3 1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ................................... 3 2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ............................. 4 3. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện 6 4. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........................................................................................ 7 5. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng............................ 8 a) Về vấn đề chứng minh .................................................................... 8 b) Về việc xác định luật áp dụng xác định thiệt hại.......................... 8 III. Kết luận .............................................................................................. 11 IV. Tài liệu tham khảo: ........................................................................... 12
  3. I. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Thiệt hại ngoài hợp đồng là những thiệt hại gây ra không phải do vi phạm nghĩa vụ có thoả thuận trong hợp đồng mà là do vi phạm pháp luật, do tội phạm, như do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, do gây tai nạn gây ra, … Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là thực hiện trách nhiệm dân sự. Bồi hoàn thiệt hại ngoài hợp đồng theo nguyên tắc (Điều 610 - Bộ luật dân sự): a. Toàn bộ và kịp thời: Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. b. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. c. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Vd khi vết thương tái phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thêm. Ngược lại, nếu phải bồi thường vì người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng sau đó người này lại lao động được thì người gây hại có thể yêu cầu toà án có thể thay đổi mức bồi thường. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có điều kiện sau: - Có thiệt hại xảy ra - Phải có hành vi trái pháp luật. - Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. - Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại. II. Vai trò luật sư trong việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm BTTH được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm BTTH nói chung và chương XXI về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm BTTH mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường… Nhìn dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do
  4. hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. 2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn có những đặc điểm riêng sau đây: - Xét về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS. - Với vai trò người luật sư khi tham gia xem xét các vụ kiện liên quan đến trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là:  Có thiệt hại xảy ra Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. + Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. + Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. + Thiệt hại do bị tổn thất về tinh thần. Bộ luật Dân sự quy định: Toà án có thể buộc người xâm hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người thân thích gần gũi của nạn nhân". Những quy định này chỉ định hướng nhưng chưa có tính định lượng trong việc bồi thường thiệt hại. Do đó luật sư là người phải xác định trong trường hợp nào được bồi thường, bồi thường bao nhiêu, bồi thường cho ai... Ví dụ: Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản để tư vấn cho khách hàng.
  5.  Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào "xâm phạm" đến các quyền đó. Bởi vậy, Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Việc "xâm phạm" mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư...  Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra. Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự dưới dạng: "Người nào... xâm phạm... mà gây thiệt hại... thì phải bồi thường". Ở đây chúng ta có thể thấy hành vi đó. Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân, xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.  Có lỗi của người gây thiệt hại Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về hình thức lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý. Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó. Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì không phải bồi thường. Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt
  6. trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Khi xét về hậu quả, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. khi đó yêu cầu về kỹ năng tính toán chính xác những mức bồi thường hợp lý và có thể chấp nhận được tùy vào mỗi vai trò là người bảo vệ cho nguyên đơn hay bị đơn. - Vai trò người luật sư khi xác đinh rõ chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề… 3. Việc xác định Toà án có thẩm quyền để thực hiện việc khởi kiện - Về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp Toà án: Thông thường khi tham gia các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, đối với những việc nêu trên nếu có một bên đương sự đang ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì người bị thiệt hại phải yêu cầu Toà án cấp tỉnh thụ lý giải quyết (các Điều 33, 34 BLTTDS). Do đó luật sư phải xem xét kỹ để tư vấn cho khách hàng khởi kiện đúng cấp đúng theo trình tự - Về thẩm quyền sơ thẩm theo lãnh thổ: Theo quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản còn đối với các việc kiện không phải là tranh chấp về bất động sản thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định theo nguyên tắc nơi hiện diện của bị đơn. Như vậy, về nguyên tắc đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, nếu các đương sự có thoả thuận với nhau bằng văn bản thì cũng có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức (Điều 35 BLTTDS). Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định về quyền lựa chọn của nguyên đơn trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà không cần sự đồng thuận của người bị kiện. Cụ thể như sau:
  7. Theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 36 BLTTDS thì “ Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết” nhằm mở rộng hơn quyền lựa chọn của người bị thiệt hại trong việc xác định Toà án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo luật thực định nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới, do tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người hoặc chủ sở hữu và người chiếm hữu cùng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại…thì Toà án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Điểm h Khoản 1 Điều 36 BLTTDS quy định “Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết”. Như vậy, tuỳ theo trường hợp mà Toà án có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết việc kiện bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là Toà án nơi bị đơn, Toà án nơi nguyên đơn hoặc Toà án nơi xảy ra thiệt hại. Để xác định nơi cư trú của cá nhân là nguyên đơn hay bị đơn trong vụ kiện, cần căn cứ vào các quy định của BLDS (từ Điều 52 tới Điều 57) 4. Về điều kiện thực hiện quyền khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trước khi tham gia các vụ kiện liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng người luật sư phải nghiên cứu kỹ, thời hiệu khởi kiện của vụ việc, thời điểm thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật gây ra. Về thời hiệu khởi kiện: Trước đây, đối với các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện nên trong thực tế các việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không bị giới hạn về thời gian khởi kiện. Thế nhưng, hiện nay theo Điều 607 BLDS thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có chỉ rõ hai mốc thời gian để xác định thời hạn hai năm nói trên. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh kể từ ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 1/1/2005 thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 1/1/2005. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm là ngày nào: Ngày xảy ra sự kiện thiệt hại hay ngày mà quyền được bồi thường của người bị thiệt hại không được bên gây thiệt hại đáp ứng. Ví dụ trong trường hợp nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày xảy ra thiệt hại mà họ không khởi kiện thì họ có mất quyền khởi kiện hay không? Nếu quan niệm người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện nữa thì dường như mâu thuẫn với quy định “người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”. Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng người bị thiệt hại chỉ được hưởng bồi thường cho đến khi chết nếu đã khởi kiện khi sự việc còn thời hiệu khởi kiện, ngược lại nếu không khởi kiện trong thời hạn đó thì sẽ không được hưởng
  8. bồi thường. Nếu giải thích theo hướng này thì quả thực rất bất lợi cho người bị thiệt hại. Thiết nghĩ, sẽ hợp lý hơn nếu cho rằng khi hết thời hạn 2 năm kể từ ngày kết thúc việc điều trị người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện với các khoản chi phí để điều trị nhằm khắc phục thiệt hại, còn đối với các khoản thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút sau khi điều trị thì thời hiệu khởi kiện là 2 năm tính theo định kỳ hàng tháng đối với từng khoản thu nhập. Do đó pháp luật cần phải có những hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng các quy định của BLDS về thời hiệu khởi kiện trong các vụ việc về yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại. 5. Về vấn đề chứng minh và xác định luật áp dụng a) Về vấn đề chứng minh Khi thực hiện việc khởi kiện trước Toà án để yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì về nguyên tắc người khởi kiện phải có trách nhiệm dẫn chứng các giấy tờ, tài liệu để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn nếu có yêu cầu phản tố cũng có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ, tài liệu để chứng minh. Với vai trò người luật sư bảo vệ quyền lợi của người nguyên đơn hoặc bị đơn cần phải tìm hiểu các chứng cứ, tài liệu chứng minh, tài liệu liên quan đến thiệt hại thực tế, các giám định khi cần Trong việc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra thì các chứng cứ tài liệu được cung cấp là để làm rõ những vấn đề sau đây: - Có thiệt hại thực tế xảy ra hay không và mức độ thiệt hại - Người bị khởi kiện có hành vi trái pháp luật hay không? Nếu là tài sản gây thiệt hại thì có sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật hay không? - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật hoặc sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra - Lỗi của người gây thiệt hại, lỗi của người bị thiệt hại Bốn yếu tố này là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên với vai trò luật sư của người bị khởi kiện có thể dẫn chứng những tài liệu để phản bác lại yêu cầu khởi kiện như chứng minh thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Trong các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, luật sư bảo vệ người bị thiệt hại có thể cung cấp cho Toà án những tài liệu, hoá đơn, chứng từ để chứng minh thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Trong trường hợp cần thiết có thể tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn (ý kiến của bác sĩ điều trị, hội đồng giám định y khoa đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; tổn thất về tinh thần, về chi phí thực tế bỏ ra để phục hồi nguyên trạng tài sản…) hoặc tham khảo ý kiến của cơ quan nơi người lao động làm việc để xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. b) Về việc xác định luật áp dụng xác định thiệt hại
  9. Xuất phát từ nguyên tắc chung của pháp luật dân sự là tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, khi các quyền này bị xâm phạm, gây thiệt hại, việc bồi thường thiệt hại cho nạn nhân là một đòi hỏi cấp thiết và chính đáng. Chính vì vậy, bên cạnh những quy định mang tính nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, pháp luật còn quy định ngoại lệ đối với trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS. Cần phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý: Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó. Để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự. Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây: - Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại; - Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó. Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại... Khi xem xét các vụ việc liên quan đến trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng xác định rõ các văn bản pháp luật cần áp dụng trong mỗi trường hợp như thế nào? Tra cứu và chuẩn bị, đánh dấu các điểm, mục cần trích lục khi dẫn luật để bảo vệ (Bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 45/2005/QH11, Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…)
  10. Về nguyên tắc, trước hết luật phải căn cứ vào các quy định mang tính nguyên tắc, bao gồm quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (các điều từ 604 đến 607 BLDS) và các quy định về xác định thiệt hại (các điều từ 608 đến 612 BLDS) để áp dụng giải quyết. Bên cạnh đó, đối với trường hợp tài sản gây thiệt hại, Toà án cần căn cứ vào cả các quy định riêng biệt cho từng loại vụ kiện cụ thể để giải quyết, cụ thể: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623), do súc vật gây ra (Điều 625), do cây cối gây ra (Điều 626), do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra (Điều 627). Bên cạnh đó, cần phải lưu ý tới các quy định tại Điều 3 BLDS về áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật. Chẳng hạn, trong BLDS có quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625) nhưng nếu là thiệt hại do những vật nuôi khác gây ra thì có thể vận dụng quy định tại Điều 3 và Điều 625 BLDS để giải quyết. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại: Trong các trường hợp Điều 625, 626, 627, thiệt hại xảy ra có thể do lỗi cố ý hoặc vô ý của người bị thiệt hại, ví dụ: công trình xây dựng đang xuống cấp, lún, nứt nghiêm trọng, đã có biển báo nguy hiểm và hàng rào vây quanh nhưng người bị thiệt hại vẫn đi vào khu vực cấm vì cho là không nguy hiểm; đột nhập vào trong nhà để trộm cắp bị chó giữ nhà tấn công… Riêng Điều 627 Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được loại trừ trong trường hợp “thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại”. Quy định như vậy được hiểu là nếu thiệt hại hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phát sinh. Lý do vì nguồn nguy hiểm cao độ luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cao và cần đề cao trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ trong việc trông giữ, quản lý hơn các tài sản khác. Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng: Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện xảy ra hoàn toàn mang tính khách quan mà các chủ thể liên quan không thể tiên liệu được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong điều kiện, khả năng cho phép. Việc không thể tiên liệu và không thể khắc phục được không chỉ đối với chủ sở hữu, người quản lý tài sản mà còn đối với những người khác nếu trong điều kiện, hoàn cảnh đó. Sự kiện bất khả kháng có thể là thiên tai như: lũ quét, mưa đá, sóng thần, động đất… hoặc những thảm họa như nổ bom nguyên tử… Trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường này được quy định trong các Điều 623 – Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Điều 626 – Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra và Điều 627 – Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Riêng đối với thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625), Bộ luật dân sự không cho đây là một trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường, có nghĩa là chủ sở hữu, người quản lý súc vật vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng, ví dụ: do thời tiết mà súc vật bị dịch bệnh, gây thiệt hại cho con người. Chủ sở hữu, người quản lý súc vật có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để quản lý, chăm sóc súc vật, bảo đảm chúng không gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra: Súc vật là những động vật đã được con người thuần hóa, kiểm soát được hoạt động và tuân thủ theo sự quản lý của con người trong quá trình nuôi dưỡng. Mặc dù súc vật đã được thuần hóa nhung chúng vẫn mang bản chất tự nhiên của động vật hoang dã nên chỉ cần con người lơi lỏng, thiếu ý thức trong việc quản lý, chăm sóc là súc vật có khả năng gây thiệt hại. Lỗi của chủ sở hữu, người quản lý súc vật trong trường hợp súc vật gây thiệt hại là lỗi vô ý, thể hiện ở chỗ họ đã không áp dụng tốt, đầy đủ các nguyên tắc trong việc trông coi, quản
  11. lý, chăm sóc súc vật như: không cột giữ trâu bò cẩn thận khi chăn thả ngoài đồng làm trâu bò tự do đi lại dẫm nát ruộng lúa của người khác; không tiêm phòng dịch cho gia súc, gia cầm khi đến mùa dịch bệnh… Đây là những biện pháp phòng ngừa thiệt hại cần thiết mà người quản lý súc vật hoàn toàn có thể thấy trước và có khả năng thực hiện được nhưng đã không thực hiện, dẫn đến súc vật gây thiệt hại. Trường hợp bồi thường thiệt hại do cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng gây ra: Chủ sở hữu, người quản lý cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng có các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản, trong đó có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về chuẩn mực an toàn trong xây dựng cũng như các quy tắc trồng cây, không để tài sản mình đang quản lý gây thiệt hại cho người khác. Để có thể thực hiện tốt nghĩa vụ này, người trông coi quản lý phải kịp thời phát hiện nguy cơ cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác có khả năng gây thiệt hại cho những người xung quanh để tìm cách khắc phục như cây đã mục ruỗng, cành cây to chưa được chặt khi cơn bão sắp tới hoặc nhà bị nghiêng…Nếu không có ngay biện pháp khắc phục kịp thời thì người trông coi phải có các cách thức thông báo tình trạng nguy hiểm của cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng để những người xung quanh tránh xa chúng hay có biện pháp tự bảo vệ. Nếu thiệt hại xảy ra trong trường hợp chủ sở hữu, người quản lý đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình trong việc quản lý thì họ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường. Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”. Quy định này được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt, hoàn toàn không cần xem xét đến điều kiện lỗi. III. Kết luận Hiện nay, BLDS Việt Nam chưa quy định về trường hợp một người chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản như chiếm hữu thông qua hợp đồng dân sự (ví dụ thông qua hợp đồng thuê, mượn, gửi giữ …) hoặc chiếm hữu tài sản do pháp luật quy định (chiếm hữu tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm thất lạc…) mà tài sản này gây thiệt hại cho người khác thì ai phải bồi thường thiệt hại. Xét về nguyên tắc theo quy định của pháp luật hiện nay thì chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường,tuy nhiên định như vậy sẽ không phù hợp vì trong trường hợp này chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu của mình cho người khác và việc kiểm soát, quản lý tài sản đã nằm ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trong trường hợp này, pháp luật cần quy định về người phải chịu trách nhiệm BTTH là người chiếm hữu hợp pháp bởi lẽ tài sản hiện đang thuộc quyền nắm giữ, quản lý và kiểm soát của những người này. Như vậy, thiệt hại xảy ra nhất thiết phải có nguyên nhân xác định mà không thể là tự nhiên. Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ nối tiếp nhau, nguyên nhân bao giờ cũng đi trước, là cái sinh ra kết quả; nhưng một kết quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Vì vậy khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai, cần xem xét thiệt hại đó do các nguyên nhân nào gây ra, các nguyên nhân đó do đâu mà có v.v… Nếu không xác định được mối quan hệ nhân quả, nghĩa là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Sự kiện xảy ra ngoài mong đợi và nằm ngoài ý chí mong muốn của chủ sở hữu.
  12. Xác định đúng thiệt hại để ấn định mức bồi thường cụ thể là một vấn đề khó khăn và rất phức tạp. Nguyên tắc của tính toán thiệt hại là: Đó là những thiệt hại về vật chất (thiệt hại về tài sản) hoặc là những chi phí những thu nhập thực tế bị giảm sút hay bị mất do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Hoặc là những lợi ích vật chất thực tế khác bị mất đi do người vi phạm đã gây ra cho người bị thiệt hại. Có thể nói cho đến nay, trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra vẫn là một vấn đề phức tạp. Thông lệ và tập quán quốc tế liên quan tới bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra tuy xảy ra trên thực tế nhưng vẫn chậm phát triển và thiếu tiền lệ pháp lý. Việc khôi phục các thiệt hại do tài sản gây ra tương tự như việc khôi phục thiệt hại do các chủ thể khác gây ra. Việc quy định chi tiết các quy định bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra làm cơ sở cho việc xác định thiệt hại vật chất và một số thiệt hại về tinh thần – là một yếu tố cơ bản và quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường – dựa vào đặc điểm và tính chất của các thiệt hại do tài sản gây ra trên thực tế. Để xác định được một cách tương đối chuẩn xác và đầy đủ các thiệt hại do đồ tài sản gây ra, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần phải áp dụng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau phù hợp với tính chất và mức độ của thiệt hại. Để đạt được mục tiêu đó, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật thống nhất, đầy đủ nhằm điều chỉnh một cách phù hợp và chặt chẽ các quan hệ trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Theo đó: Cần quy định đặc thù về trách nhiệm dân sự trong bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra đối với các trường hợp cá biệt như: bồi thường thiệt hại do tài sản là động sản, là bất động sản, máy móc, thiết bị… để đạt được tính thống nhất và phù hợp. Quy định một cách đầy đủ và có hệ thống các loại trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại do tài gây ra, các trường hợp cần áp dụng trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại để có thể thuận tiện khi áp dụng, tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trong thực tiễn thi hành. IV. Tài liệu tham khảo: - Bộ Luật dân sự - Bộ Luật tố tụng dân sự - Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội “Về việc thi hành Bộ luật dân sự” - Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối
nguon tai.lieu . vn