Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: TỰ ĐỔI MỚI, TỰ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG ĐỂ ĐẢM BẢO CHO SỰ THÀNH CÔNG CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
  2. Trên cơ sở làm rõ thực trạng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước, tác giả bài viết đã đi đến kết luận: Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh để đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Đảng cần phải quan tâm đặc biệt đến hai khâu then chốt nhưng lại đang khá bức xúc cần tự đổi mới và chỉnh đốn sớm để làm chỗ dựa cho các khâu khác là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. 1. Thử nhìn vào thực trạng Sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu chỉ thấy và chỉ nhìn vào mặt tiêu cực, mặt suy thoái, hay như mọi người thường nói, sự xuống cấp trong lĩnh vực đạo đức của xã hội nói chung và của đảng viên nói riêng, hoặc sự kém hiệu quả trong kinh tế và trong quản lý xã hội, sự mất dân chủ ở nơi này hay nơi kia, những yếu kém trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác mà người đảng viên phụ trách mắc phải, v.v. để qua đó chê bai hoặc hạ thấp vai trò của Đảng, nghi ngờ rồi đi đến phủ nhận quyền lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thành tựu to lớn trong 20 năm đổi mới vừa qua là do chính quần chúng nhân dân, do cán bộ, công chức và đảng viên ở các cương vị khác nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo ra. Tất cả họ đều đã biết vượt qua sức ỳ, biết dứt khoát bứt phá ra khỏi sự trì trệ của một thời và tìm mọi cách để sáng tạo, để đưa các kế hoạch và chính
  3. sách của Nhà nước vào cuộc sống, để biến đường lối của Đảng thành hiện thực, góp phần đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Họ đã cống hiến biết bao nhiêu sức lực, trí tuệ, tài năng cho công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Đã có biết bao nhiêu tấm gương sáng cùng những điển hình tiên tiến, những người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong số những người đã có công đóng góp to lớn đó cho đất nước chắc chắn số đảng viên chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Đa số cán bộ và đảng viên đã có bước trưởng thành về tất cả các mặt và đóng vai trò tiên phong trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tốt, mặt tích cực là chủ đạo và không thể phủ nhận đó, chúng ta cũng đang phải chứng kiến cả sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận dân cư và đảng viên, kể cả đảng viên có chức, có quyền, có quá trình cống hiến cho Tổ quốc. Đại hội Đảng lần thứ X đã có những nhận định quan trọng liên quan đến điều này. Đó là: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ”(1). Bên cạnh đó, “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả”(2). Như vậy, có thể nói, tại Đại hội X, Đảng ta đã nhìn thẳng vào thực trạng, chỉ ra những yếu kém về năng lực, trình độ, ý thức chính trị, phẩm chất và cả những nguyên nhân của thực trạng yếu kém đó trong cán bộ và đảng viên. Trước một thực trạng nóng bỏng như vậy, nếu không tìm được cách sớm khắc phục và khắc phục một cách có hiệu quả thì sự thoái hoá, sự tụt hậu của đảng viên và cán bộ sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu cả về lý luận lẫn về năng lực lãnh đạo và không loại trừ cả sự thoái hoá trong Đảng. Vì vậy, Đại hội đã dẫn lại và nhấn mạnh những tư tưởng quan trọng đã được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) mà lâu nay chưa được chú ý đúng mức. Đó là: “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”(3). Điều này khác với cách nói, cách viết đơn giản và phổ biến
  4. lâu nay làxây dựng, chỉnh đốn Đảng. Vì vậy, Văn kiện Đại hội X yêu cầu phải “tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”(4). 2. Từ thực trạng ấy, trước hết cần phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn Nhấn mạnh sự tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ý thức rõ được cả những nhu cầu nội tại lẫn những yếu kém, bất cập và cả những gì đó không ổn hay chưa ổn đang tồn tại trong cơ thể mình. Đảng cần phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để đi lên mới mong bắt kịp thời đại, mới mong tránh được sự tụt hậu cả về lý luận lẫn về khả năng cầm quyền và lãnh đạo xã hội. Đó cũng chính là nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của mình. Để nâng cao được tất cả những năng lực đó của Đảng thì trước tiênphải coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Không thể phủ nhận rằng, chủ trương này của Đảng ta là nhất quán từ trước đến nay và đã được ghi rõ trong nhiều văn kiện quan trọng. Công cuộc đổi mới thu được kết quả to lớn như vừa qua có phần đóng góp không nhỏ của công tác lý luận và tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, những đóng góp trong lĩnh vực lý luận chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này và chưa như mong muốn của Đảng. Nguyên nhân của tình trạng ấy thì có nhiều. Có sức ỳ của cách tổ chức nghiên cứu lạc hậu. Có sức ỳ trong tư duy của đội ngũ những người nghiên cứu lý luận. Có cả những sự dò xét, cảnh giác quá mức đối với một ý kiến mới nào đó. Và cũng có cả những sự sợ sệt vô hình do di sản nặng nề từ những án không tuyên trong quá khứ. Mặc dù bầu không khí dân chủ hoá xã hội mở đầu từ Đại hội VI đã thực sự hiện hữu, nhưng những sự dè chừng vẫn còn được coi là cái van an toàn đối với nhiều người nghiên cứu. Không nên để tình trạng này kéo dài hơn nữa, vì rằng, trong thực tế, Đảng đòi
  5. hỏi, Đảng khuyến khích nhưng cơ chế đôi khi lại làm người ta sợ. Cho đến nay, việc chưa có được sự bứt phá trong lý luận và việc “công tác lý luận chưa làm sảng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới”, “lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(5) một phần không nhỏ bắt nguồn từ những lý do trên đây. Đã đến lúc Đảng cần tự đổi mới, tự chỉnh đốn công tác lãnh đạo nghiên cứu lý luận và tổ chức nghiên cứu lý luận cũng như công tác nghiên cứu khoa học xã hội nói riêng. Xưa nay, những tư tưởng mới trong khoa học xã hội, trong lý luận ban đầu thường xuất phát từ ý kiến riêng lẻ của các cá nhân khi sự tự do và dân chủ được đảm bảo ở mức tối đa. Vì vậy, chúng ta rất cần một sự đổi mới trong cách nhìn nhận và khuyến khích đối với những ý kiến mang tính đột phá mà có thể ban đầu chưa thật thuận tai cho lắm. Còn nếu cứ đi theo lối mòn thì không bao giờ có thể có được sự bứt phá trong lĩnh vực này. Thực tiễn từ trước đổi mới đến nay đã cho ta không ít dẫn chứng tích cực. Những ý kiến ban đầu trong việc đánh giá thực trạng xã hội ta khủng hoảng hay không khủng hoảng, về vai trò động lực của lợi ích và lợi ích cá nhân trong hoạt động của con người và trong việc thúc đẩy xã hội, về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về sự đa dạng các loại hình sở hữu và kinh tế nhiều thành phần, về kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, về vai trò động lực của dân chủ, về việc đảng viên được cho phép làm kinh tế tư nhân, về tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá, về việc Việt Nam hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, về nhà nước pháp quyền, về tính chất của Đảng, về những nguy cơ bất ổn trong xã hội do sự mất dân chủ ở nông thôn và ở các vùng đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên và rất nhiều các vấn đề khác cũng là những ý kiến riêng lẻ của một số người, nhưng về sau đã được thừa nhận là đúng và thực tiễn cũng xác minh là đúng. Tuy nhiên, trước khi các ý kiến đó được thừa nhận thì tác giả của chúng, ở các mức độ khác nhau, đã bị từ chối, đã chịu tai tiếng, chịu sự phê phán có khi công khai, có khi ngấm ngầm. Đấy cũng là những bài học về việc phải phân biệt và tôn trọng những ý kiến tâm huyết, có tinh thần xây dựng và khoa học với những ý kiến có dụng ý không tốt. Nói tóm lại, Đảng cần có sự tự đổi mới trong tổ chức và lãnh đạo công tác nghiên cứu lý luận, tạo điều kiện cho người nghiên cứu bám sát được thực tiễn và qua đó, để đảng viên của Đảng cũng được thường xuyên gần dân hơn, nắm bắt các vấn đề nhanh nhạy
  6. hơn như Đại hội X yêu cầu. 3. Khâu then chốt - đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Đại hội Đảng lần thứ X đề ra nhiệm vụ quan trọng là tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trong đó có việc chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ, kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đổi mới tổ chức, bộ máy công tác cán bộ và đặc biệt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đại hội còn chỉ rõ rằng, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Khâu mấu chốt ở đây là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở tất cả các cấp, từ trung ương đến cơ sở. “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện”(6). Những luận điểm trên đã được thực thi trong thực tế từ nhiều năm qua, chứ không phải đến Đại hội X mới được nêu ra. Song, phải thừa nhận rằng, suốt thời gian đó và cả hiện nay, hiệu quả đạt được trong nhiều lĩnh vực không như mong muốn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất và quản lý kinh tế. Vẫn có sự lãnh đạo của Đảng, vẫn có sự quản lý của Nhà nước, nhưng sự chồng chéo, sự kém hiệu quả, sự thờ ơ, sự không có người chịu trách nhiệm diễn ra trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội là điều dễ nhận thấy. Tại sao có tình trạng ấy? Giải pháp để thoát khỏi tình trạng ấy là gì? Có tình trạng ấy là vì có cái mà ta quen gọi là phân công nhưng thực chất là sự tách biệt. Sự phân công này vô hình trung đã dẫn đến sự dựa dẫm vào nhau, ỷ lại nhau, khoán trắng cho nhau, không có người chịu trách nhiệm thực sự, mặc dù trên lý thuyết đều có ghi rõ ai phải làm gì và phải phối hợp ra sao. Hãy nhìn vào thế giới đương đại để tự rút ra bài học cho ta. Lịch sử thế giới đương đại cho thấy gần như tất cả các đảng cầm quyền (chỉ trừ một vài nước có sự tách biệt như nước ta) đều không bỏ quyền quản lý và quyền điều hành mọi mặt của đất nước mình. Các đảng cầm quyền đều trực tiếp nắm quyền quản lý, điều hành. Các
  7. đảng cầm quyền không nhất thiết chỉ bổ nhiệm người của đảng mình vào các cương vị quản lý, mà bổ nhiệm nhiều người có tài, có đức không phải là đảng viên của đảng mình nắm các cương vị khác nhau trong chính phủ miễn là họ không làm gì trái với hiến pháp và pháp luật. Và thực sự, cách làm ấy có hiệu quả. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, một đảng cầm quyền vừa phải tự mình đề ra đường lối, vừa phải thực sự bắt tay thực hiện đường lối đó trong thực tiễn. Nghĩa là, từ trung ương đến cơ sở, người lãnh đạo cao nhất ở các cấp chỉ nên là một. Có như vậy mới tránh được sự chồng chéo trong khâu tổ chức. Có như vậy Đảng mới có thể tự điều chỉnh nhanh chóng lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết một khi lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách hay nghị quyết ấy đã bị thực tiễn vượt qua. Một khi đã có sự điều chỉnh về đường lối, lý luận, về chủ trương và chính sách thì giải pháp thực hiện cũng sẽ nhanh chóng được điều chỉnh. Đây cũng là một trong những đòi hỏi của sản xuất và của xã hội hiện đại là phải thích nghi nhanh, đổi mới nhanh. Mọi sự chậm chạp, mọi sự trì trệ ở tất cả các khâu và sự không theo kịp cuộc sống của các chủ trương, chính sách cũng đều phát sinh từ sự chồng chéo mà chúng ta đã nói đến khá nhiều suốt một thời gian dài. Nhất thể hoá người đứng đầu Đảng và chính quyền các cấp cũng là một trong những cách tốt để chống lại sự trì trệ và lạc hậu của lý luận, sự tách rời của lý luận với thực tiễn. Mặt khác, sự đổi mới này sẽ khắc phục được tình trạng khi có sai lầm hay thất bại thì hoà cả làng, chẳng ai chịu trách nhiệm đang diễn ra phổ biến hiện nay. * * * Trong vấn đề tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng còn nhiều nội dung khác đã được ghi rõ trong văn kiện Đại hội X, như công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng chống tham nhũng, lãng phí, công tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác quần chúng. Tất cả các nội dung này có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều cực kỳ quan trọng trong việc làm cho Đảng ngày một vững mạnh hơn, vì vậy cần được thực hiện đồng bộ. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng, cần quan tâm đặc biệt đến hai khâu then chốt nhưng lại đang khá bức xúc cần tự đổi mới và chỉnh đốn sớm để làm chỗ dựa cho các khâu khác chính là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
  8. tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.16. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.22. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.21. - Tôi in đậm chữ tự. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr. 279. - Tôi in đậm chữ tự. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 65, 69. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 137-138. XÂY DỰNG BẢN LĨNH VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG THẾ ỨNG XỬ VỚI XU THẾ GIAO LƯU, HỘI NHẬP TOÀN CẦU HIỆN NAY NGUYỄN VĂN THANH (*) Trong bài viết này, tác giả đã tập trung luận giải mối quan hệ giữa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc với việc xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trên cơ sở đó, tác giả đã khẳng định: Đảng ta hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt trong chủ trương gắn phát triển chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bồi dưỡng các giá trị văn hoá, lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay. Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam ta luôn gắn liền với quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong lịch sử giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, dân tộc Việt Nam luôn thể hiện bản lĩnh vững vàng trước sự du
  9. nhập của những trào lưu văn hoá ngoại lai. Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hoá ngày càng trở nên sâu rộng, bản lĩnh văn hoá Việt Nam đang phải đối mặt trực tiếp với những thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trong thế ứng xử với xu thế này, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc phát huy sức mạnh văn hoá, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bản lĩnh của một nền văn hoá là tổng hợp toàn bộ những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động của các nền văn hoá khác trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hoá thiếu bản lĩnh thì dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc. Bản sắc văn hoá là hồn dân tộc và do vậy, mất bản sắc văn hoá chẳng khác nào một người không còn thần sắc. Việt Nam có lịch sử phát triển văn hoá lâu đời. Lịch sử đó thống nhất với lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước. Với đặc thù tự nhiên, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu Bắc – Nam, Đông – Tây, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp thu và đã tiếp thu được nhiều giá trị văn hoá bên ngoài để làm giàu văn hoá dân tộc. Có thể nói, “đầu vào” của văn hoá Việt Nam rất đa dạng, nhưng “đầu ra” lại rất đặc sắc Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam có nhiều dấu ấn, giá trị văn hoá đặc sắc của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, thậm chí cả của phương Tây. Điều đó là do sự tiếp thu có nguyên tắc - không đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam. Các giá trị văn hoá bên ngoài rất đa dạng, phong phú, nhưng khi vào Việt Nam đều được Việt Nam hoá. Chẳng hạn, từ bi của Phật giáo khi xâm nhập vào Việt Nam đã trở thành đại từ, đại bi của Việt Nam; cái hùng, cái nhân của Nho giáo đã trở thành cái đại hùng, đại nhân của Việt Nam (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” - Nguyễn Trãi). Cái đặc sắc và bản lĩnh văn hoá Việt Nam luôn dựa trên sự lựa chọn lối ứng xử “hài hoà” của chủ thể văn hoá. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà trong xã hội được biểu hiện ở tất cả các mặt, các lĩnh vực của cuộc sống và trên tất cả các cấp độ, từ cách đối nhân xử thế hàng ngày đến nếp sống, lối tư duy, quan niệm về đạo lý làm người. Do ứng xử hài hoà, văn hoá Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.
  10. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ văn hoá Việt Nam có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hoá, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá như hiện nay. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải được củng cố vững vàng trong tình hình mới. Nội dung quan trọng nhất để xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam là tuân thủ quy luật đó một cách linh hoạt và sáng tạo. Do vậy, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải có chiến lược phát triển văn hoá một cách khoa học, kết hợp được và thể hiện được sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng. Đây là hai mặt của một vấn đề. Nếu vận dụng một cách khoa học, chúng sẽ trở thành tiền đề, động lực phát triển cho nhau; còn nếu vận dụng một cách thiếu khoa học, chúng sẽ cản trở sự phát triển của nhau. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc và sự linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng đó còn phải được thẩm thấu vào tiềm thức của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ từ trên xuống dưới, thậm chí ở mỗi con người cụ thể. Bản lĩnh của một nền văn hoá dựa trên sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài trong quá trình phát triển và trong quan hệ giao lưu, hội nhập. Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam luôn có sức đề kháng to lớn. Nhờ đó, văn hoá Việt Nam đã tạo dựng được bản lĩnh vững vàng trong giữ gìn bản sắc dân tộc. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn hoá bên ngoài, văn hoá Việt Nam đã không bị đồng hoá, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn hoá Việt Nam còn có cội nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không chịu khuất phục trong mỗi con người Việt Nam. Cội nguồn sức đề kháng của văn hoá Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hoá về văn hoá trong suốt thời gian đô hộ cả ngàn năm của phong kiến phương Bắc, thậm chí cả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới hơn một trăm năm vẫn không làm phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc. Dân tộc ta, dù bị thất bại về quân sự nhiều lần, nhưng nhờ cội nguồn sức mạnh đó, cuối cùng vẫn vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập dân tộc. Hiện nay, sức đề kháng trong bản lĩnh văn hoá Việt Nam lại một lần nữa đứng trước thử thách của sự xâm nhập với quy mô lớn của các giá trị văn hoá bên ngoài. Sự xâm nhập đó không chỉ giới hạn ở quy luật giao lưu, hội nhập văn hoá, mà còn ở
  11. chính sách xâm lược về chính trị, quân sự của các thế lực thù địch. Do vậy, giờ đây, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có chiến lược nâng cao sức đề kháng của văn hoá Việt Nam một cách phù hợp để nâng cao bản lĩnh văn hoá Việt Nam – một vấn đề sống còn của dân tộc ta hiện nay. Nâng cao sức đề kháng của nền văn hoá dân tộc ta hiện nay là quá trình làm cho cơ thể văn hoá Việt Nam được “miễn dịch” với mọi tác động của các phản giá trị đang làm băng hoại văn hoá. Sức đề kháng đó chỉ có thể có được khi các yếu tố bên trong cấu thành nền văn hoá Việt Nam cùng phát triển và tác động đồng thuận theo định hướng của Đảng ta. Như vậy, Đảng phải tự đổi mới ngang tầm nhiệm vụ để thật sự là đạo đức, là văn minh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, đủ sức lãnh đạo xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay. Mặt khác, mỗi con người Việt Nam phải thật sự là một chủ thể kiên cường trước sự lôi kéo, mua chuộc của những phản văn hoá. Quá trình nâng cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam cần trang bị cho mỗi người khả năng nhận thức và tự hào về lịch sử phát triển văn hoá dân tộc với tất cả những giá trị của truyền thống oai hùng trong dựng nước đi đôi với giữ nước. Đồng thời, cần phải tạo ra tâm lý biết hổ thẹn với non sông đất nước khi Tổ quốc bị xâm lăng. Trong hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam, tội lớn nhất là phản bội dân tộc, “rước voi về giày mả tổ”, “cõng rắn cắn gà nhà”. Hiện nay, tệ sùng bái văn hoá phương Tây, quay lưng lại quá khứ, thiếu trách nhiệm với hiện tại và mơ hồ về tương lai dân tộc cần phải được lên án mạnh mẽ và đào thải ra khỏi đời sống xã hội. Nâng cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam, chúng ta còn phải đào thải những phản giá trị nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường để xây dựng cơ thể văn hoá Việt Nam không còn những nhân tố làm băng hoại đạo đức, lối sống, suy đồi về văn hoá. Một cơ thể văn hoá cường tráng sẽ không còn những “vi rút” gây bệnh từ bên trong. Sự xâm nhập những phản giá trị từ bên ngoài bao giờ cũng thông qua những phản giá trị nảy sinh từ bên trong. Do vậy, sự thống nhất giữa phòng ngừa, đào thải những phản giá trị ở bên trong với đẩy lùi sự xâm nhập những phản giá trị từ bên ngoài cần được coi là giải pháp hữu hiệu trong xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam hiện nay. Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam hiện nay, chúng ta không thể không phát
  12. triển tư chất, khí phách, cốt cách của chủ thể văn hoá trong tư thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập. Bởi lẽ, bản lĩnh của một nền văn hoá bao giờ cũng biểu hiện tập trung, sâu sắc ở tư chất, cốt cách và khí phách của chủ thể văn hoá. Mỗi dân tộc đều có tư chất, khí phách riêng trong quan hệ, giao lưu với văn hoá nước ngoài. Văn hoá Việt Nam luôn thể hiện tư chất, cốt cách, khí phách đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Mặc dù là một nước nhỏ bên cạnh nước lớn, trong thế liên tục phải chống lại sự đồng hoá văn hoá, nhưng dân tộc Việt Nam đã hình thành cho mình tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng, không chịu khuất phục. Trước sự phát triển rực rỡ của nền văn hoá Hán, nhiều dân tộc xung quanh, mặc dù chiến thắng về quân sự, nhưng lại thất bại về văn hoá, bị đồng hoá về văn hoá và trở thành bản sao của văn hoá Hán. Thế nhưng, cũng trong bối cảnh đó, văn hoá Việt Nam vẫn luôn khẳng định được bản sắc của mình, vẫn giữ được cốt cách, tư chất và khí phách của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động như hiện nay, dân tộc Việt Nam với tư cách một chủ thể văn hoá càng phải thể hiện rõ cốt cách, tư chất, khí phách của mình để bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam trước những khó khăn, phức tạp mới trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu. Để thực hiện điều này, trong bối cảnh mới, chúng ta cần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc… để hun đúc khí phách, cốt cách và tư chất con người Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng. Đồng thời, nêu cao tính chủ động để sẵn sàng giao lưu, hội nhập, tiếp thu những giá trị văn hoá nhân loại với tư thế, tư chất và khí phách con người Việt Nam. Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, chúng ta cũng cần phải gia tăng hàm lượng trí tuệ trong bản sắc văn hoá Việt Nam. Văn hoá và văn minh không đồng nhất, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiện nay, sự phát triển với tốc độ vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là kinh tế tri thức đang mở ra một môi trường cạnh tranh và chạy đua về trí tuệ gay go, phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc và tác động sâu sắc đến các nền văn hoá. Trong bối cảnh đó, sự biểu đạt, tiếp thu và lan toả những giá trị của một nền văn hoá thể hiện bản lĩnh vững vàng của chủ thể văn hoá một dân tộc cũng cần phải chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao. Trong thế ứng xử hiện nay, bản lĩnh của một nền văn hoá không thể có thế mạnh, nếu không có sự
  13. gia tăng về hàm lượng trí tuệ. Để bản lĩnh văn hoá Việt Nam mang tầm thời đại, chúng ta không thể không nâng cao hàm lượng trí tuệ cho nó. Nâng cao hàm lượng trí tuệ trong xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải bắt đầu từ giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí. Chất lượng và hiệu quả của việc nâng cao dân trí sẽ đem lại cho con người Việt Nam khả năng phân biệt được cái giá trị, cái phản giá trị; cái cần tiếp thu, cái không cần tiếp thu của văn hoá ngoại lai. Trên cơ sở nâng cao trình độ khoa học về mọi mặt, họ sẽ tự khẳng định được tính chủ thể và bản lĩnh của một chủ thể văn hoá tích cực, nhờ đó bản lĩnh văn hoá Việt Nam trở nên thực sự vững vàng trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay. V.I.Lênin đã nói: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người ta lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”(1). Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử hiện nay phải tạo thế chủ động trong phát triển văn hoá và trong giao lưu, hội nhập. Xu thế giao lưu, hội nhập có tính chất toàn cầu hiện nay là quy luật phát triển của nhân loại và của từng dân tộc. Một nền văn hoá có bản lĩnh không thể ở thế bị động trong xu thế giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác. Tạo thế chủ động trong xây dựng bản lĩnh nền văn hoá Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ bản sắc dân tộc và sự phát triển của văn hoá Việt Nam. Yêu cầu đó đòi hỏi phải có sự kết hợp một cách hợp lý giữa chiến lược phát triển lâu dài với chủ trương, biện pháp trước mắt. Quá trình giao lưu, hội nhập trong xu thế hiện nay luôn đòi hỏi chúng ta phải bảo đảm sự hài hoà giữa giữ vững nguyên tắc với phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Tính nguyên tắc trong việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc để không trở thành bản sao văn hoá của dân tộc khác là quán triệt quan điểm giai cấp của Đảng, tạo thế chủ động và tích cực tham gia vào xu thế chung hiện nay, đồng thời cần khắc phục tâm lý lo ngại hoặc tham gia giao lưu, hội nhập một cách vô nguyên tắc. Trong xu thế giao lưu, hội nhập mang tính toàn cầu hiện nay, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam vững vàng là vấn đề có tính sống còn trong việc bảo vệ và giữ gìn
  14. bản sắc văn hoá dân tộc. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, khi nhấn mạnh chủ trương phát triển văn hoá với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá…, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”(2). Tư tưởng chỉ đạo này cần được quán triệt sâu rộng và đi vào phong trào quần chúng để mỗi con người, mỗi tổ chức và cả dân tộc ta luôn là chủ thể văn hoá có bản lĩnh vững vàng trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay. (*) Tiến sĩ, Khoa Triết học, Học viện Chính trị - Quân sự. (1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.57. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY KHOA HỌC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO - MỘT YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VŨ VĂN VIÊN (*) Bài viết tập trung luận giải nhằm khẳng định việc nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo là yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở làm rõ khái niệm “năng lực tư duy khoa học” cũng như các bộ phận hợp thành của nó, tác giả nhấn mạnh một số biện
  15. pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Đó là: 1/ Nâng cao năng lực phương pháp luận biện chứng duy vật; 2/ Nâng cao năng lực tư duy lôgíc; 3/ Nâng cao năng lực vận dụng, tổng kết thực tiễn; 4/ Tạo dựng môi trường xã hội thuận lợi; 5/ Nâng cao sự hiểu biết về khoa học và công nghệ hiện đại. Một trong những bài học lớn dẫn tới những thành công trong 20 năm đổi mới mà Đảng ta đã rút ra tại Đại hội X là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”(1). Bài học này bao trùm một phạm vi khá rộng những hoạt động cơ bản của Đảng nhằm lãnh đạo nhân dân ta “tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới” đất nước. Trong các lĩnh vực hoạt động ấy, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng có một ý nghĩa đặc biệt. Điều này không chỉ quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước, mà còn có ảnh hưởng lớn lao đến uy tín, vị thế của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là vấn đề được toàn Đảng, toàn dân hết sức quan tâm. Nó đã được đặt ra trong nhiều hội thảo khoa học, nhiều kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng như của tổ chức đảng các cấp. Có thể nói, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi khách quan, cấp bách trong tình hình hiện nay. Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy, một mặt, đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn đúng đắn, đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Mặt khác, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống... và do vậy, để khắc phục các nguy cơ ấy, đẩy nhanh nhịp độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan hết sức cấp bách. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để thực sự nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề hết sức phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Từ góc độ nghiên cứu của mình, chúng tôi nhận thấy, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng thì một yếu tố hết sức quan trọng là phải nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán
  16. bộ lãnh đạo của Đảng. Bài viết này tập trung phân tích vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh đạo của Đảng và đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng. 1. Vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh đạo của Đảng Năng lực lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới, của sự nghiệp phát triển đất nước. Năng lực lãnh đạo càng cao thì hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với đất nước càng lớn. Trong các yếu tố tác động đến năng lực lãnh đạo của Đảng thì năng lực tư duy khoa học của cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng. Dưới đây, chúng ta hãy phân tích vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh đạo của Đảng. Để làm rõ điều này, chúng ta hãy phân tích một số biểu hiện về năng lực lãnh đạo của Đảng. Chúng ta thấy rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng trước hết được thể hiện qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, kế hoạch… phát triển đất nước, gọi tắt là việc xây dựng các quyết sách và tổ chức thực hiện các quyết sách ấy của các cấp uỷ Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các cấp uỷ cơ sở cũng như của các cá nhân đảng viên nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, có thể khẳng định rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng được thể hiện tập trung ở hai nội dung: a. Năng lực xây dựng các quyết sách. Việc xây dựng các quyết sách ở các cấp khác nhau cũng có những biểu hiện khác nhau. Ở cấp Trung ương, đó là việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch chung… cho sự phát triển đất nước; ở các địa phương, ngành - xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển của địa phương, của ngành. Việc xây dựng các quyết sách đúng đắn đem lại hiệu quả cao phụ thuộc vào việc nhận thức một cách khoa học thực trạng đối tượng mình quản lý, bối cảnh xung quanh và mục tiêu cần đạt được. Hiệu quả của việc nhận thức như vậy rõ ràng phụ thuộc vào năng lực tư duy khoa học của chủ thể (tập thể, cá nhân). Năng lực tư duy khoa học của chủ thể càng phát triển thì việc xây dựng các quyết sách càng đúng đắn và hiệu quả đối với cuộc sống càng cao. b. Năng lực tổ chức thực tiễn. Tổ chức thực tiễn bao gồm hai bộ phận: vận dụng các quyết sách vào thực tiễn và tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm điều chỉnh các quyết sách đã có hoặc xây dựng các quyết sách mới.
  17. Việc vận dụng các quyết sách vào cuộc sống và tổng kết thực tiễn rõ ràng cũng phụ thuộc vào năng lực tư duy khoa học của chủ thể. Năng lực tư duy khoa học càng cao thì hiệu quả vận dụng thực tiễn, tổng kết thực tiễn càng lớn. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, của các đảng viên là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung. Cho nên, nói đến năng lực tư duy khoa học của chủ thể cũng là nói đến năng lực tư duy khoa học của các cán bộ lãnh đạo Đảng các cấp – những người giữ vị trí trọng trách về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Đảng ta coi “cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”(2). Như vậy, để thấy rõ tác động của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh đạo của Đảng, chúng ta có thể phân tích kỹ hơn về vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo (các cấp) của Đảng. Cũng như tư duy khoa học nói chung, năng lực tư duy khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng. Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(3). Điều này cho thấy, một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con người có thể nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn, được chỉ đạo bởi các tri thức đúng đắn, con người có thể cải biến hiện thực khách quan vì những lợi ích của mình. Cũng từ đó, có thể khẳng định tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập đến từng khía cạnh nói trên. Thứ nhất, năng lực tư duy khoa học có vai trò lớn đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong việc xây dựng các đường lối, chủ trương, kế hoạch, trước hết là đưa ra các quyết định chiến lược (sau đây gọi chung là các quyết sách)trong phạm vi mình quản lý. Nói đến vai trò của năng lực tư duy khoa học đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, thực chất là nói đến vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý của họ. Xét trong phạm vi xây dựng các quyết sách, vai trò này thể hiện ở những nội dung sau:
  18. Một là, năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo xác lập tri thức đúng đắn về đối tượng. Để ra được các quyết sách về một vấn đề, đối tượng nào đó, cần phải hiểu đúng về nó trong trạng thái hiện tại cũng như xu hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Đây được xem như sự nhận diện vấn đề. Các quyết sách đưa ra chỉ có hiệu quả nếu như chúng ta nhận thức đúng bản chất của vấn đề. Việc nhận diện mơ hồ vấn đề sẽ dẫn đến việc đưa ra các quyết sách kém hiệu quả, thậm chí có hại. Hai là, năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể phân tích bối cảnh chung tác động đến vấn đề cần giải quyết. Nếu như việc nhận thức bản chất vấn đề chỉ liên quan đến phạm vi, lĩnh vực mà chủ thể phụ trách thì việc phân tích bối cảnh chung vượt ra ngoài phạm vi đó. Mỗi vấn đề nào đó cần được giải quyết luôn nằm trong bối cảnh xác định, đồng thời có quan hệ nhất định với các vấn đề khác. Vì vậy, việc đưa ra các quyết sách cũng cần phải tính đến các vấn đề ấy. Việc tách rời vấn đề với bối cảnh và những vấn đề liên quan khác sẽ dẫn đến những sai lầm siêu hình, phiến diện và đương nhiên, kết quả nhận được sẽ rất hạn chế. Ba là, năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể đưa ra các quyết sách hợp lý, tối ưu. Trên cơ sở nắm được bản chất vấn đề, bối cảnh chung, dựa vào năng lựcphán đoán, lựa chọn và luận chứng, chủ thể sẽ đưa ra các quyết sách. Đây là quá trình biến những tri thức (về vấn đề, về bối cảnh chung, về mục tiêu cần đạt được) đã lĩnh hội được thành các chủ trương, đường lối, quyết định của chủ thể. Hiệu quả của các quyết định này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tư duy khoa học của chủ thể. Thứ hai, năng lực tư duy khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Hoạt động thực tiễn đặc thù của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là hoạt động tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, kế hoạch, quyết định (các quyết sách) trong phạm vi mình phụ trách. Với loại hoạt động này, năng lực tư duy khoa học có một vai trò đặc biệt. Vai trò này được thể hiện cụ thể như sau: Một là, năng lực tư duy khoa học giúp cho chủ thể hiểu biết sâu sắc, đúng đắn, chính xác mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định (gọi chung là các quyết sách) của cấp trên, của tập thể lãnh đạo cùng cấp trên địa bàn hoặc lĩnh vực mình phụ trách. Đây là khâu rất quan trọng trong hoạt động tổ chức thực hiện. Bởi lẽ, chỉ
  19. có hiểu đúng, chính xác các chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định thì mới có thể làm (thực hiện) đúng và có hiệu quả; sự hiểu biết hời hợt tất yếu sẽ dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí còn có hại. Đương nhiên, để có được sự nhận thức đúng đắn các quyết sách ấy, ngoài tinh thần trách nhiệm cao, đạo đức trong sáng, chủ thể phải có một năng lực tư duy khoa học nhất định đáp ứng được các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra. Hai là, năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể có năng lực thuyết phục, tập hợp quần chúng trong việc thực hiện các quyết sách (có thể gọi tắt là năng lực công tác quần chúng). Để đưa các quyết sách vào cuộc sống, người cán bộ lãnh đạo phải làm cho quần chúng hiểu được ý nghĩa của quyết sách, tin tưởng vào hiệu quả mà chúng đem lại, động viên được quần chúng hăng say, phấn khởi, tích cực tham gia thực hiện quyết sách. Chỉ có như vậy thì các quyết sách mới mau chóng được đưa vào cuộc sống và hiệu quả xã hội của nó mới cao. Ba là, năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể lựa chọn phương pháp, hình thức để thực hiện các quyết sách. Mỗi một quyết sách có những đặc thù riêng và để việc thực hiện nó có hiệu quả, chúng ta cần sử dụng các phương pháp phù hợp. Năng lực tư duy khoa học giúp chủ thể lựa chọn được các phương pháp phù hợp cũng như cách thức vận dụng chúng một cách tối ưu. Bên cạnh các phương pháp, cách thức thực hiện quyết sách cũng rất quan trọng. Có những quyết sách tác động toàn diện, lại có những quyết sách chỉ tác động tới bộ phận, có những quyết sách tác động dài hạn, lại có những quyết sách tác động ngắn hạn. Với từng loại quyết sách như vậy, cần phải có cách thức thực hiện thích hợp. Hơn nữa, trong phạm vi phụ trách của chủ thể, có thể có nhiều quyết sách khác nhau cùng được thực hiện. Ở đây, cần một sự phối hợp hợp lý để đạt được hiệu quả cao nhất. Những yêu cầu trên, rõ ràng đòi hỏi chủ thể phải có năng lực tư duy khoa học phát triển ở mức nhất định. Bốn là, năng lực tư duy khoa học giúp cho chủ thể có năng lực tổng kết thực tiễn trong phạm vi mình phụ trách. Việc tổng kết thực tiễn, một mặt, giúp chủ thể rút ra được các bài học kinh nghiệm quý giá; mặt khác, nó giúp cho việc điều chỉnh các quyết sách, thậm chí đưa ra các quyết sách mới. Vì vậy, nó cần được thực tiễn trên
  20. cơ sở khoa học. Rõ ràng, đây là công việc quan trọng trong quá trình tổ chức thực tiễn và để việc tổng kết thực tiễn có hiệu quả, chủ thể cần có một năng lực tư duy khoa học nhất định... 2. Vấn đề nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo Về năng lực tư duy khoa học. Trước hết, có thể nhận xét rằng, tư duy khoa học cũng là một phần của tư duy nói chung, cho nên năng lực tư duy khoa học cũng liên quan mật thiết đến năng lực tư duy nói chung. Vì vậy, trước hết chúng ta phải tìm hiểu về năng lực tư duy nói chung. Có thể nói, mọi hoạt động của con người đều phải thông qua tư duy và hiệu quả của sự hoạt động đó luôn tuỳ thuộc vào năng lực tư duy của mỗi người. Cũng chính vì vậy, năng lực tư duy càng cao thì hiệu quả càng lớn. Từ đó, có thể khẳng định tư duy là một giá trị căn bản của loài người. Bước vào nền văn minh trí tuệ, nhiều học giả đã nhấn mạnh tới việc khai thác nguồn lực trí tuệ, xem “trí tuệ là thứ khai thác không bao giờ hết”. Tuy nhiên, “tư duy của con người vừa là tối cao vừa là không tối cao, và khả năng nhận thức của con người vừa là vô hạn vừa là có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi một thời điểm nhất định”(4). Cũng chính vì vậy, ở mỗi chủ thể, mỗi thời đại thì năng lực ấy luôn có hạn. Vấn đề là phải tích cực nâng cao nó và khai thác nó một cách có hiệu quả. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có”(5). Khi diễn tả hiệu quả hoạt động của con người mà tư duy đem lại, người ta thường sử dụng khái niệm năng lực tư duy. Dưới góc độ triết học, việc đưa ra một quan niệm có thể bao quát tương đối đầy đủ mọi lĩnh vực hoạt động của tư duy và cho ta khả năng phân tích sâu hơn về hoạt động của tư duy là điều cần thiết. Với định hướng như vậy và trên cơ sở kế thừa các quan niệm đã có, chúng tôi bước đầu xác định: năng lực tư duy là tổng hợp các phẩm chất tâm, sinh lý, tri thức của chủ thể nhằm đáp ứng các yêu cầu phát hiện và giải quyết một vấn đề nào đó do nhận thức và thực tiễn đặt ra với một mục đích xác định và đem lại hiệu quả nhất định. Theo chúng tôi, định nghĩa này đã bao quát được các lĩnh vực tư duy khác nhau, từ tư duy khoa học đến tư duy nghệ thuật; từ tư duy kinh
nguon tai.lieu . vn