Xem mẫu

  1. Tiểu luận TỔ CHỨC XÃ HỘI 1
  2. I.Khái niệm tổ chức xã hội I.1.Khái niệm: Mỗi một xã hội để tồn tại và phát triển được đều có một hệ thống tổ chức xã hội để đảm bảo trật tự, ổn định trong xã hội đó. Vậy tổ chức xã hội là gì và được tổ chức như thế nào? Theo nghĩa rộng: tổ chức xã hội chỉ bất kì tổ chức nào trong xã hội. Theo nghĩa hẹp: Tổ chức xã hội chính là một tiểu hệ thống xã hội trong một tổ chức xã hội nào đó. Trong xã hội học: Tổ chức xã hội là một thành phần của các cấu trúc xã hội, là một dạng hoạt động, là mức độ trật tự bên trong và sự thống nhất hài hoà của các bộ phận của hệ thống xã hội. Như vậy tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ tập hợp liên kết cá nhân với nhau nhằm thực hiện các tiêu chí nhất định Có một cách hiểu khác về tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội là: Hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, sở thích... nhằm đáp ứng các yêu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân như học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ, động viên nhau trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hoá, thể thao, du lịch, xã hội, từ thiện,.... Các tổ chức xã hội có quy mô rất khác nhau: có tổ chức hình thành hệ thống trong cả nước, ở tất cả các địa phương, hoặc tham gia tổ chức quốc tế tương ứng; có tổ chức chỉ hoạt động ở địa phương hoặc ở cơ sở. Các tổ chức xã hội phát triển và hoạt động có kết quả là sự phản ánh mức độ tiến bộ về dân trí và dân chủ trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm quản lí, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1B88aWQ9MzMwM jImZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD14JWMzWEzK2glZTElYmIlp&pag=1 . I.1.Các đặc trưng của tổ chức xã hội: 2
  3. Tổ chức xã hội có 5 đặc trưng: - Đó là nhóm xã hội được lập ra có chủ đích và các thành viên của nhóm đó ý thức đuợc rằng nhóm của họ tồn tại để đạt đựơc mục đích nhất định nào đó. - Nhóm xã hội được xem là tổ chức xã hội phải có sự thể hiện cụ thể các quan hệ quyền lực xã hội tức là phải có quan hệ lãnh đạo – phục tùng, có những cá nhân có khả năng điều chỉnh hành vi thái độ của người khác thuộc nấc thang quyền lực thấp hơn. Nói cách khác, trong các nhóm này có người nhiều quyền lực và những người ít quyền lực hơn. Họ được phân bố trong mạng lưới các quan hệ theo thứ bậc trên – dưới; cao – thấp. - Cùng với các quan hệ quyền lực, tổ chức xã hội là một tập hợp các vị thế vai trò. Mỗi một thành viên của tổ chức xã hội có vị thế xác định trong nhóm tức là họ đã là thành viên của tổ chức thì bao giờ họ cũng có những trách nhiệm và quyền hạn nhất định. Dù họ là những người đứng thấp nhất trong thang bậc quyền lực của tổ chức để thực hiện tốt các trách nhiệm và quyền hạn (tức là vị thế) của từng thành viên, tổ chức xã hội cũng đặt ra cho những cá nhân này một tập hợp những hành vi đựơc phép làm và không đựơc phép làm. - Vai trò của các thành viên trong tổ chức xã hội được thực hiện theo sự mong đợi của tổ chức. Nhưng nếu mọi người tự phát thực hiện các vai trò này thì có thể dẫn đến sự rối loạn hoạt động chính. Vì vậy, trong mỗi tổ chức luôn có những quy tắc điều chỉnh mối quan hệ giưã các vai trò. Những quy tắc này sẽ phối hợp thực hiện vai trò của các thành viên khiến cho tổ chức hoạt động được nhịp nhàng, ổn định. - Một loạt dấu hiệu nữa của tổ chức xã hội là phần lớn các mục đích và mối quan hệ của tổ chức xã hội đựơc công khai hoá. Tức là, không chỉ có một số người lãnh đạo tổ chức mà các thành viên của nó thậm chí đôi khi cả những người bên ngoài đều có thể biết đến mục đích của phần nhiều các hoạt động của tổ chức. Các tương tác giữa các thành viên của tổ chức và tương tác giữa các thành viên của tổ chức với bên ngoài phần nhiều dựa trên những vị thế và vai trò của họ đã đựơc thừa nhận một cách chính thức. Hơn thế, sự tương tác này thông thường đựơc thực hiện một cách công khai tức là các thành viên của tổ chức có thể đựơc biết ở những mức độ khác nhau về nội dung đó. Riêng trong tổ chức xã hội hiện đại và bộ máy quan liêu thì đặc trưng của nó là: (theo Macwerber). + Sự phân công lao động được xác định theo quy định, theo luật. Chẳng hạn những chức vụ vị trí như: hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng khoa…trong một trường đại học thì được xác định theo những quy định của bộ và nhà nước. + Một hệ thống ban hành mệnh lệnh theo thứ bậc từ trên xuống dưới với nhiều cấp bậc khác nhau. + Một hệ thống văn phòng, hành chính công khai, được bổ sung bằng những tập tài liệu viết 3
  4. + Những quy trình đào tạo chính thức cho những công việc trong tổ chức sẽ giúp các cá nhân làm việc hiệu quả hơn, đơn giản hơn so với việc tự mày mò học hỏi qua kinh nghiệm bản thân, + Trong tổ chức, những người lao động cống hiến toàn bộ sự quan tâm và sức lực của mình cho hoạt động của tổ chức và coi đó là sự nghiệp, một ngành nghề. + Những quy định của tổ chức hoặc chính thức ít nhiều ổn định có thể học được và tuân theo một cách dễ dàng. Những quy định này giúp điều chỉnh và định hướng công việc của mỗi thành viên. II.Các tính chất của tổ chức xã hội II.1. Phân công lao động xã hội ( PCLĐXH). II.1.1.Khái niệm Phân công lao động xã hội là sự tách biệt các lao động khác nhau trong xã hội. Phân công lao động XH gắn liền với chuyên môn hóa trong sản xuất - kinh doanh nên nó mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ và là biểu hiện trình độ phát triển kinh tế - xã hội.(theo từ điển bách khoa toàn thư) II.1.2.Phân loại Phân công lao động bao gồm: - Phân công lao động chung: là phân chia nền kinh tế thành các loại sản xuất khác nhau như: nông nghiệp, công nghiệp... - Phân công lao động riêng ( phân công lao động đặc thù) là phân chia sản xuất thành những ngành và phân ngành. Ví dụ: trong công nghiệp có công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, trong nông nghiệp có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi... - Phân công lao động cá biệt: là phân công lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là sự tách riêng các hoạt động lao động trong phạm vi một tập thể lao động nhất định ( phân xưởng, công đoạn sản xuất...). II.1.3. Một số hình thức phân công lao động phổ biến. a. Phân công lao động theo giới tính. Đây là một hình thái phân công lao động tự nhiên, tồn tại ở giai đoạn đầu của XH nguyên thuỷ, các loại hình lao động được phân theo giới tính nam - nữ. Đàn ông lo việc săn bắt, đàn bà hái lượm và trong thời kì này người phụ nữ đóng vai trò 4
  5. là lao động chính trong gia đình. Cách phân công LĐ này được duy trì trong những thời kì lịch sử muộn hơn nhưng phạm vi ngày càng thu hẹp hơn. Khi nông nghiệp dùng cày xuất hiện, các công việc sản xuất chính nằm trong tay đàn ông, đàn bà chủ yếu chăm lo việc gia đình và vai trò lao động của người đàn ông trong gia đình ngày càng quan trọng hơn. b. Phân công lao động theo lứa tuổi. Đây là hình thức phân công lao động dựa trên tuổi của người lao động để bố trí công việc phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả nhất khả năng lao động của người lao động. c. Phân công lao động theo lãnh thổ. Dựa vào các điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng địa lý để xây dựng các vùng chuyên môn hoá sản xuất với một hay một số sản phẩm nhằm cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước. Phân công LĐ theo lãnh thổ nhằm nâng cao năng suất lao động XH do đã sử dụng hợp lý thế mạnh của từng vùng, tổ chức hợp lý mối liên hệ lãnh thổ sản xuất và tiêu thụ trên một mạng lưới giao thông vận tải tốt. Phân công lao động theo lãnh thổ là nhân tố tạo ra vùng kinh tế quan trọng nhất. d. Phân công lao động theo cơ cấu ngành kinh té. Đó là sự phân công lao động theo các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Sự phân công lao động theo cơ cấu ngành hợp lý, tăng tỉ lệ lao động trong công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ thể hiện một nền kinh tế phát triển. Ngoài các hình thức phân công lao động trên chúng ta còn có thể phân công LĐ dựa trên trình độ chuyên môn và kinh nghiệm. Theo đó sẽ phân công việc theo khả năng và trình độ của người lao động một cách thích hợp nhất. II.1.4. Những xã hội điển hình với sự phân công lao động tương ứng. a. Xã hội nguyên thuỷ ( XH săn bắt và hái lượm). Là một XH sử dụng công cụ đơn giản để săn thú và hái lượm. Ở giai đoạn phát triển của văn hoá XH đầu tiên này nam giới đảm nhiệm việc săn bắt, phụ nữ hái lượm. Người tạo ra lương thực chính là người phụ nữ. Đây chính là lý do dẫn tới việc người phụ nữ giữ vai trò chủ đạo trong gia đình. Như vậy, ngay từ thủa nguyên sơ của lịch sử đã có sự phân công LĐXH một cách sơ đẳng. b. Xã hội nông nghiệp. Khi nông nghiệp xuất hiện thì nam giới dần chuyển sang vị trí chủ đạo trong sản xuất lương thực. Nhiều khi nam giới đảm nhiệm cả hai công việc chính liên quan đến nông nghiệp: đi cày và chăn nuôi. Từ đó dẫn tới người phụ nữ đảm nhận những công việc phụ còn lại và điều đó góp phần làm giảm địa vị của người phụ nữ trong gia đình. c. Xã hội công nghiệp. 5
  6. Là XH sản xuất bằng công nghệ sản xuất cao, trang thiết bị hiên đại. Quá trình phát triển công nghiệp làm cho chuyên môn hoá ngày càng tăng cao. Trong XH vị trí nam và nữ dần được bình quyền, người lao động tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất. II.1.5. Ý nghĩa, vai trò của phân công lao động. Phân công lao động hợp lý có tác dụng to lớn trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất, tăng năng suất lao động. Do phân công lao động mà có thể chuyên môn hoá người lao động, chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra những công cụ chuyên dùng có năng suất lao động cao hơn. Người công nhân có thể làm một một loạt công việc, không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị, thay dụng cụ để làm những công việc khác nhau. Mác đã viết: "Kết quả của việc phân công các ngành sản xuất XH là sản xuất hàng hoá được tốt hơn, các thiên hướng khác nhau và tài năng con người lựa chọn được lĩnh vực hoạt động thích ứng. Không có giới hạn về phạm vi hoạt động thì không thể hoàn thành được một cái gì đáng kể trong bất kì lĩnh vực nào. Do đó, ngay cả sản xuất và người sản xuất sản phẩm cũng nhờ phân công lao động mà hoàn thiện hơn ".( " Mác và Anghen tuyển tập, tập 23, trang 378) II.2.Quyền lực Quyền lực là 1 dạng quan hệ XH,biểu hiện ở khả năng 1 cá nhân hoặc nhóm điều khiển hành vi, thái độ, quan điểm của các cá nhân,các nhóm khác. Chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực XH có thể là 1 cá nhân, 1 nhóm XH hay 1 cộng đồng, 1 XH; thực chất quyền lực chính là việc giời hạn đồng thời mở rộng mức độ tự do của các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực. - Tức là, nếu như chúng ta tham gia vào quan hệ quyền lực, 1 mặt chúng ta lạp tức sẽ bị hạn chế mức độ tự do hành động so với mức tự do hành động trước đó, mÆt khác đồng thời chúng ta cũng sẽ dược mở rộng thêm những mức tự do mới mà trước đó chúng ta chưa hề có.VD:1 người lao động tự do chỉ phải tuân theo những quy định của pháp luật nhưng khi anh ta tham gia vào làm việc tại 1 cơ quan nào đó thì anh ta một mặt không được tự do như khi làm việc tự do mà phải tuân theo những quy định của cơ quan về giờ làm việc,về tốc độ,về chất lượng…nhưng mặt khác anh ta cũng có thể được tham gia vào những điều mà trước đó anh không được phép làm:được nghỉ ngày cuối tuần mà vẫn có lương. Tất nhiên những cái bị giới hạn và những cái được mở rộng không phải như nhau. Do đó, việc so sánh giữa cái “được” và cái “mất” khi tham gia vào các quan hệ quyền lực sẽ giúp cho các quyết định có tham gia vào nó hay không. 6
  7. - Thông thường, mức tự do hành động của chủ thể quyền lực rộng hơn khách thể quyền lực.Trong định nghĩa của Weber về quyền lực,ông đã nhấn mạnh đến bộ mặt thứ nhất của nó:”Quyền lực là khả năng của cá nhân hay nhóm người thực hiện được ý chí của họ,bất chấp sự chống đối của người khác”.Chính vì vậy, nhìn từ góc độ chủ thể đến khách thể quỳền lực thì quyền lực là sự lãnh đạo,phục tùng. Nói cách khác, cái “được” của chủ thể quyền lực nhiều hơn cái “mất”. Chính vì lẽ đó, việc trở thành 1 chủ thể quyền lực là 1 ham muốn phổ biến trong XH. Hơn thế nữa, quyền lực trở thành 1 giá trị XH. - Xem xét quyền lực phải đặt trong bối cảnh toàn XH nói chung chứ không phải trong quan hệ giữa 2 bên các nhân, nhóm. Chúng ta có thể hiểu quyền lực là khả năng áp đặt ý chí của mình lên người khác, tác động lên khả năng động viên các nguồn lực để đạt được 1 mục đích của mình. - Theo Dahrendorf , sự phân chia quyền lực là một nhân tố quyết định, trọng đối với cấu trúc xã hội và quyền lực là nguồn gốc của mâu thuẫn. Mâu thuẫn tất yếu nảy sinh từ cuộc đấu tranh vì quyền lực giữa các nhóm có lợi ích đối lập nhau. Có thể đó cùng là mâu thuẫn giữa một bên là những người cố bảo vệ và duy trì quyền lực và một bên cố kháng cự và tìm cách giành lấy quyền lực. * Điều kiện cơ bản của quyền lực: Weber chỉ ra 2 điều kiện cơ bản của quyền lực: - Thứ nhất:cả 2 bên gồm người có quyền lực và người bị quyền lực chi phối đều phải tham gia vào hành động xã hội. - Thứ hai:người có quyền lực phải là người nắm giữ vị trí nhất định trong cộng đồng xh. a.Nguồn gốc của quyền lực: + Max Weber cho rằng quyên lực có nguồn gốc là kinh tế và các yếu tố phi kinh tế như: gia đình, học vấn, tôn giáo, uy quyền...Trong các dạng quyền lực XH, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường được các cơ quan của chính phủ thực hiện. + Parsons cho rằng nguồn gốc của quyền lực nằm ở các vị thế của 1 cấu trúc XH. Cấu trúc này hoạt động hài hoà, ổn định. Nó qui định cho mỗi vị thế XH 1 quyền hạn tương ứng. Tức là khi chúng ta thực hiện các vai trò được XH trao cho thì chúng ta cũng thực hiện quyền lực mà chúng ta được uỷ nhiệm. Như vậy, XH đã tạo cho các vai trò này 1 sự hợp pháp, hay 1 sự chính đáng, nói cách khác đó chính 7
  8. là quyền lực. Quyền lực của các vai trò XH không giống nhau những chúng phối hợp với nhau để tạo ra 1 cơ cấu thống nhất và hài hoà. + Theo quan điểm Macxit thì nguồn gốc quyền lực chính là sự sở hữu hay không sở hữu tư liệu sản xuất. Chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong XH mà ở đó người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không sở hữu tư liệu sản xuất. Như vậy,chỉ khi nào chúng ta xoá bỏ chế độ tư hữu thì mới xoá bỏ được nguồn gốc tạo ra sự bất bình đẳng và không còn người thống trị và bóc lột người khác. b.Các hình thức quyền lực XH: - Cưỡng bức(Force): 1dạng quyền lực có sử dụng sự ép buộc về thể xác để áp đặt ý chí của người này cho người khác. Tuy nhiên hình thức này cũng khá phổ biến trong mọi XH. - Uy quyền(Authority): là dạng quyền lực có sự đồng tình của công chúng, là “khả năng mà 1 mệnh lệnh và nội dung đặc thù nhất định sẽ được chấp hành bởi 1 nhóm người nhất định”(Max Weber). Những mệnh lệnh thường được đưa ra trong các tổ chức. Chúng được hợp thức hoá theo thứ bậc. Thứ bậc này cho phép người ra lệnh các quyền kiểm soát hành vi của người dưới quyền. Như vậy, dạng quyền lực uy quyền này được hợp pháp hoá. Khi 1 người lãnh đạo thiếu sự đồng tình thì hoặc người đó thực thi quyền lực của mình bằng dạng cưỡng bức hoặc là nhường quyền lực cho người khác. - Theo Weber có 3 loại uy quyền:  Uy quyền lôi cuốn: dựa trên sự tôn sùng và sẵn sàng hiến dâng của các thành viên đối với thủ lĩnh của mình. VD:Chúa Giêsu và các môn đồ của người  Uy quyền truyền thống: dựa trên truyền thống và thói quen. VD:Uy quyền của của người giáo viên đối với học sinh của mình,hoặc uy quyền của người chồng với người vợ của mình  Uy quyền hợp pháp, hợp lí: dựa trên niềm tin về tính đúng đắn và sự cần thiết của những luật lệ,qui định chính thức:trong các tổ chức như:ở công ty 8
  9. * Mills cho rằng:khi nói tới quyền lực,ta cần phải phân biệt rõ 3 hình thái của quyền lực:(1):quyền lực cưỡng chế(Coercion)-khả năng bắt người khác phải tuân theo,phải làm theo ý chí,nguyện vọng của mình;(2):quyền lực thống trị(Authority)-quyền lực được những người dưới quyền tự nguyện tin là chính đáng,là đúng đắn;(3):quyền lực thao túng(Manipulation)-quyền lực được thực thi mà người không cóquyền lực không hề biết. * Một số dạng quyền lực khác có thể là: - Quyền lực tuyệt đối là dạng quyền lực không chấp nhận bất cứ sự khác biệt và sự chống đối nào. Quyền lực tuyệt đối tham gia vào tất cả các mặt của đời sống XH. Đối lập với quyền lực tuyệt đối là quyền lực giới hạn. - Quyền lực quân chủ: là mọi quyền hành đều tập trung ở trong tay 1 người như vua của 1 nước hoặc độc tài. - Quyền lực thiểu số là quyền lực do nhóm thiểu số trong XH thực hiện đối với nhóm đa số. Quyền lực thiểu số thường là quyền lực của nhóm người giàu vì vậy nó mang tính tài phiệt. - Quyền lực dân chủ : đó là quyền của nhân dân và đa số nhân dân tham gia vào quyền lực này.Thông thường qua hình thức bỏ phiếu xác định nhân vật quan trọng hoặc họ điều chỉnh trực tiếp. Quyền lực dân chủ có hai loại hình : trực tiếp và gián tiếp. Quan niệm của Weber về quyền lực Theo từ điển XHH thì quyền lực chỉ một khoảng không gian hành động mà một bộ phận xã hội chiếm giữ,cho phép gây ảnh hưởng lên một người khác bên dưới mà người đó không thể lẩn tránh được.Nói chung quyền lực thường biểu đạt một khái niệm bậc trên để nhận thức ưu thế có được về mặt xã hội. Weber đã đưa ra định nghĩa nổi tiếng về quyền lực trong đó nhấn mạnh bộ mặt thứ nhất của nó .Quyền lực là khả năng của cá nhân hay nhóm người thực hiện được ý chí của họ bất chấp sự chống đối của người khác . Nhìn chung chúng ta hiểu quyền lực là cơ hội mà một người hay nhóm người thực hiện ý chí của họ trong một hành động cộng đồng thậm chí chống lại sự kháng cự của những người khác đang tham gia trong hành động đó . Trong khái niệm này Weber đã chỉ ra 2 điều kiện cơ bản của quyền lực. Đó là: - Thứ nhất:cả 2 bên gồm người có quyền lực và người bị quyền lực chi phối đều phải tham gia vào hành động XH Với Weber, hành động xã hội là hành động hướng đến những người khác có ý nghĩa và hướng đến cái mà chú thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. ông cho rằng giải 9
  10. thích xã hội học dối với hành động phải bắt đầu bằng việc quan sát và lý giải trạng thái tinh thần chủ quan. Theo quan niệm của Weber, một hành động xã hội là một hành động của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi hành động đó. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động xã hội. Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội. Weber cho rằng xã hội học cố gắng diễn giải hành động nhờ phương pháp luận về kiểu loại lý tưởng. Ông thực hành phương pháp này để xây dựng một phân loại học về hành động xã hội gồm bốn kiểu: kiểu hành động truyền thống được thực hiện bởi vì nó vẫn được làm như thế từ xưa đến nay, kiểu hành động cảm tính bị dẫn dắt bởi cảm xúc, kiểu hành động duy lý - giá trị hướng tới các giá trị tối hậu, kiểu hành động duy lý - mục đích hay còn gọi là kiểu hành động mang tính công cụ. - Thứ hai : người có quyền lực phải là người nắm giữ vị trí nhất định trong cộng đồng XH Sự thống trị theo Mac weber là khả năng mà một mệnh lệnh với nội dung đã cho sẽ được một nhóm người nhất định tuân theo. Quyền lực là khả năng mà một người trong quan hệ XH có vị thế thực hiện ý chí của mình bất chấp sự kháng cự của người khác Quyền lực có nghĩa là mỗi cơ hội thực hiện ý định bản thân kể cả có sự chống đối trong phạm vi một mối quan hệ - XH dù cơ hội đó dựa trên cơ sở nào Ở đây thống trị được xem là biểu hiện bên ngoài được thể chế hóa hợp pháp của quyền lực(Weber).Cưỡng bức và bạo lực là 2 cách thể hiện cực đoan phần lớn là không hợp pháp của quyền lực,bao gồm cả việc gây tác hại hay tiêu diệt kẻ dưới quyền.Các hình thức biểu hiện này cũng có tác động lành mạnh hay suy yếu trở lại tới quyền lực điều mà người dưới quyền có thể cảm thấy là tích cực,trung tính hay có hại.Quyền lực có được một cách tự nhiên hoặc có thể do quy gán.Còn phải phân biệt giữa người có quyền lực,quá trình quyền lực và người chịu ảnh hưởng. Weber đã xem xét các hình thức quan hệ xã hội khác nhau một cách hệ thống trên cơ sở đã được đặt ra.Theo ông quyền lực có ý nghĩa là mỗi cơ hội thực hiện ý định bản thân kể cả có sự chống đối trong phạm vi một mối quan hệ xã hội,dù cơ hội đó dựa trên cơ sở nào.Quyền lực dược thực hiện bằng việc sử dụng bạo lực hoặc phương tiện khác mà không có sự thỏa thuận giữa các tác nhân. 10
  11. Quyền lực là một dạng quan hệ xã hội ,biểu hiện ở khả năng một cá nhân hoặc nhóm điều khiển hành vi ,thái độ,quan điểm của cá nhân khác hoặc nhóm khác.Chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực XH có thể là một cá nhân ,một nhóm XH,hay một cộng đồng , một XH . Thực chất quyền lực chính là việc giới hạn đồng thời mở rộng mức độ tự do của các chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực.Tức là nếu chúng ta tham gia vào quan hệ quyền lực ,một mặt chúng ta lập tức sẽ bị hạn chế mức độ tự do hành động so với mức tự do hạnh động trước đó , mặt khác đồng thời chúng ta cũng sẽ được mở rộng thêm những mức tự do mới mà trước đó chúng ta chưa hề có.Ví dụ : một người lao động tự do chỉ phải tuân theo những quy định của cơ quan về giờ làm việc,về tốc độ ,về chất lượng… nhưng mặt khác anh ta cũng có thể được tham gia vào những điều mà trước đó anh ta không hề có .Tất nhiên những cái bị giới hạn và những cái được mở rộng không phải như nhau.Do đó ,việc so sánh giữa cái được và cái mất khi tham gia vào các quan hệ quyền lực sẽ giúp cho các quyết định có tham gia vào nó hay không. Thông thường mức tự do hành động của chủ thể quyền lực rộng hơn khách thể quyền lực.Chính vì vậy nhìn từ góc độ chủ thể đến khách thể quyền lực thì quyền lực là sự lãnh đạo,phục tùng.Nói cách khác ,cái được của chủ thể quyền lực là một ham muốn phổ biến trong XH.Hơn thế quyền lực đã trở thành một giá trị XH. Weber là một trong những người có đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu về quyền lực.Quan niệm về quyền lực của Weber đề cập đến mối liên hệ giữa 2 nhóm hoặc các phái trong nhóm thực hiện quyền lực với các nhóm khác.Quyền lực này có thể dựa trên việc sử dụng cưỡng bức hay là uy quyền như của người cha đối với con trẻ. Khi các tác nhân hoàn toàn xa lạ lần đầu tương tác với nhau thì quan hệ đó chưa có quan hệ quyền lực. Khi quan hệ quyền lực giữa các cá nhân này xác lập thì nó mới xuất hiện. Theo quan điểm Macxit thì nguồn gốc của sự bất bình đẳng XH chính là việc sở hữu hay không sở hữu TLSX. Chế độ sở hữu TLSX chế độ sở hữu tư nhân là nguồn gốc tạo ra sự phân chia quyền lực trong XH mà ở đó người chiếm hữu TLSX là người có quyền lực điều chỉnh hành vi và cơ hội của người không sở hữu TLSX. Như vậy chỉ khi nào chúng ta xóa bỏ chế độ tư hữu con người thống trị và bóc lột người khác. Weber cho rằng quyền lực không chỉ có nguồn gốc là kinh tế mà có từ nhiều yếu tố phi kinh tế khác nữa như : gia đình, học vấn, tôn giáo, uy tín…Trong các dạng quyền lực XH,quyền lực quan trọng nhất là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị thường được các cơ quan của chính phủ thực hiện. 11
  12. Một số hình thức quyền lực XH: “Cưỡng bức” : là khái niệm hẹp hơn khái niệm quyền lực vì chúng ta có thể thực hiện quyền lực mà không cần cưỡng bức. Đây chỉ là 1 dạng quyền lực có sử dụng sự ép buộc về thể xác để áp đặt ý chí của người này cho người khác.Tuy nhiên hình thức này cũng khá phổ biến trong mọi XH”. “Uy quyền”:là dạng quyền lực có sự đồng tình của công chúng .Mac Weber định nghĩa về uy quyền là “khả năng mà một mệnh lệnh và nội dung đặc thù nhất định sẽ được chấp hành bởi một nhóm người nhất định” “Weber đã phân tích tư tưởng về uy quyền và đưa ra 3 loại uy quyền .Đó là khả năng tác động ảnh hưởng của những người được coi là có những phẩm chất khác thường hoặc siêu nhiên ,cho dù người đó nằm ở vị trí cao háy thấp trong cơ cấu XH.Đó là uy quyền lôi cuốn ,uy quyền truyền thống và uy quyền hợp pháp, hợp lý. “Uy quyền lôi cuốn”: là người thủ lĩnh có một khả năng thu hút, lôi cuốn quần chúng một cách đặc biệt.Các thành viên của nhóm uy quyền tôn sùng thủ lĩnh và sẵn sang hiến dâng phần lớn sức lực của mình cho thủ lĩnh .Vd:chúa Giếsu và các môn đồ của mình. “Uy quyền hợp pháp ,hợp lý”: được dựa trên niềm tin về tính đúng đắn và sự cần thiết của những luật lệ , quy định chính thực.Tức là những người ở những thang bậc quyền lực khác nhau đều tin rằng những quy tắc ,luật lệ đó là đúng và cần phải tuân theo . Uy quyền này thường có trong những tổ chức như : một công ty. II.3.Giao tiếp II.3.1.Định nghĩa Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa người với người thông qua đó con người trao đổi với nhau về những vấnđề mà họ quan tâm. Giao tiếp có nhiều hình thức khác nhau:  Giữa cá nhân với cá nhân  Giữa cá nhân với cá nhóm  Giữa nhóm với nhóm  Giữa nhóm với cộng đồng 12
  13. Giao tiếp thông qua hành động với vật thể hoặc bằng tín hiệu ngôn ngữ, hoặc bằng tín hiêụ cử chỉ, điệu bộ, thái độ… Giao tiếp bằng ngôn ngữ( tiếng nói,chữ viết) là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người trong xã hội. Giao tiếp trực tiếp hoặc giao tiếp hoặc gia tiếp gián tiếp ( thư từ, điện thoại thư tín,…) . ( Thanh lê_Từ điển xã hội học- tr100) Giao tiếp kà hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa con người với con người nhằn thoả mãn những nhu cầu nhất định ( Chu Văn Đức_Kỹ năng giao tiếp-tr13). Ví dụ: giám đốc gặp gỡ đối tác, trưởng phòng trò chuyện với nhân viên,bạn bè thư từ cho nhau,… II.3.2.Các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp Với sự nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như tâm lý học, xã hội học, kinh tế học, ngôn ngữ học, y học…đặc biệt với sự phát triển của tin học và điều khiển học, khái niệm giao tiếp không chỉ đơn thuần như một quá trình truyền đạt thông tin từ một điểm phát tới một điểm thu. Để quá trình giao tiếp phát huy được hiệu quả cao nhất thì phải tính đến các yếu tố tham gia trong giao tiếp. Theo “Giáo trình tâm lý học xã hội” - PGS.TS Trần Thị Minh Đức chủ biên thì có bẩy yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp. Chúng tôi điểm qua và chỉ đi sâu vào nội dung giao tiếp. Chủ thể giao tiếp Là con người cụ thể tham gia vào quá trình giao tiếp: một người hay nhiều người - đó là ai - với những đặc điểm sinh lý, tâm lý và xã hội ra sao? Tri thức và trình độ hiểu biết…như thế nào? Tất cả các đặc điểm của chủ thể giao tiếp đều ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp. Giao tiếp người - người thì cả hai đều là chủ thể giao tiếp và đều là đối tượng giao tiếp, vai trò này được chuyển đổi linh hoạt thường xuyên trong quá trình giao tiếp. Họ không chỉ là người nói và người nghe vì mọi giác quan đều tham gia vào quá trình này, từ dáng điệu, cử chỉ, ánh mắt, vẻ mặt, thậm chí cả mùi nước hoa… Mục đích giao tiếp Nhằm thoả mãn nhu cầu nào - nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cầu tiếp xúc giải trí, nhu cầu được khẳng định trước người khác… Nội dung giao tiếp Nội dung giao tiếp là những vấn đề mà chủ thể đề cập đến khi giao tiếp với người khác. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình giao tiếp thể hiện ở thông tin cần truyền 13
  14. đạt. Thông tin cần phải được cấu trúc như thế nào để nó phản ánh được đúng nội dung cần truyền đạt, cũng như đến được người thu với kết quả cao nhất. Đối với các chủ thể giao tiếp, thông tin có thể đã biết hoặc chưa biết, muốn biết hoặc không muốn biết. Nội dung thông tin có thể đem lại điều tốt lành hoặc gây thất thiệt hoặc chỉ đơn giản là một điều thông báo… Trong nội dung giao tiếp người ta thường chia ra hai loại: nội dung tâm lý và nội dung công việc. Hoàn cảnh giao tiếp Là bối cảnh trong đó diễn ra quá trình giao tiếp, bao gồm cả khía cạnh vật chất và khía cạnh xã hội. Khía cạnh vật chất thí dụ như địa điểm, kích thước không gian gặp gỡ, số người hiện diện, khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, màu sắc đồ vật xung quanh…Đây là những khía cạnh nằm bên ngoài các đối tượng đang giao tiếp. Khía cạnh xã hội ví dụ như mục đích giao tiếp, quan hệ giao tiếp. Kênh giao tiếp Là đường liên lạc giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp. Vì vậy phải tổ chức kênh sao cho quá trình giao tiếp đạt được hiệu quả nhất. Thí dụ: Kênh giao tiếp là thị giác thì cần phải cấu trúc bài viết ra sao và làm thế nào để đối tượng giao tiếp nhìn thấy rõ các chữ viết… Quan hệ giao tiếp Thể hiện mối tương quan giữa các chủ thể giao tiếp. Chẳng hạn như mức độ thân sơ, vai vế, uy tín, địa vị xã hội, tuổi tác… giữa họ. II.3.3.Đặc trưng cơ bản của giao tiếp Theo cuốn Tâm lý học đại cương - Trần Thị Minh Đức (chủ biên), giao tiếp có những đặc trưng cơ bản sau Mang tính nhận thức 14
  15. Cá nhân ý thức được mục đích giao tiếp, nhiệm vụ, nội dung của tiến trình giao tiếp, phương tiện giao tiếp; ngoài ra còn có thể hiểu đặc trưng được của giao tiếp là khả năng nhận thức và hiểu biết lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, nhờ đó tâm lý, ý thức con người không ngừng được phát triển. Nếu không giao tiếp với những người xung quanh, đứa trẻ không nhận thức được. Trao đổi thông tin Dù với bất kì mục đích nào, trong quá trình giao tiếp cũng xảy ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhân sinh quan. Nhờ đặc trưng này mà mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình theo những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của nghề nghiệp, của vị trí xã hội mà họ chiếm giữ. Cũng nhờ đặc trưng này, những phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử, thái độ biểu hiện của con người được nảy sinh và phát triển theo các mẫu hình “nhân cách” mà mỗi cá nhân mong muốn trở thành. Giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. Quan hệ xã hội chỉ được thực hiện thông qua giao tiếp người - người. Con người vừa là thành viên tích cực của các mối quan hệ xã hội vừa hoạt động tích cực cho sự tồn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội đó. Giao tiếp giữa các cá nhân mang tính chất lịch sử phát triển xã hội. Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân thực hiện với nội dung cụ thể, trong khung cảnh không gian và thời gian nhất định. Sự kế thừa chọn lọc Giao tiếp bản thân nó chứa đựng sự kế thừa, sự chọn lọc, tiếp tục sáng tạo những giá trị tinh thần, vật chất thông qua các phương tiện giao tiếp nhằm lưu giữ, gìn giữ những dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm của con người. Giao tiếp được phát triển liên tục không ngừng đối với cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, cộng đồng tạo thành nền văn hoá, văn minh của các thời đại. Trong cuốn Tâm lý học xã hội, giao tiếp còn có những đặc trưng cơ bản khác như: Tính chủ thể trong quá trình giao tiếp 15
  16. Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi các cá nhân cụ thể: một người hoặc nhiều người. Các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tượng luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau tạo thành “các chủ thể giao tiếp”. Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp và hiệu quả giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể như vị trí xã hội, vai trò xã hội, tính cách, uy tín, giới tính, tuổi tác…cũng như các mối quan hệ và tương quan giữa họ. Sự lan truyền, lây lan các cảm xúc, tâm trạng. Sự biểu cảm thể hiện đầu tiên bằng nét mặt có ý nghĩa tiến hoá sinh học cũng như ý nghĩa tâm lý - xã hội, nó phản ánh khả năng đồng cảm, ảnh hưởng lẫn nhau của con người. Sự chuyển toả các trạng thái cảm xúc này hay khác không thể nằm ngoài khuôn khổ của giao tiếp xã hội. II.3.4.Vai trò của giao tiếp Giao tiếp có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống xã hội, trong đời sống của mỗi con người. Vai trò của giao tiếp với đời sống của xã hội: Đối với xã hội giao tiếp là sự tồn tại và phát triển của xã hội. Xã hội là một tập hợp người có mối quan hệ qua lại với nhau. Chúng ta hãy thử hình dung xem nếu mọi người tồn tại mà không có mối quan hệ gì với nhau< mỗi người chỉ biết mình mà không quan tâm tới người khác, không quan hê gì với những người xung quanh? Đó không phải là một xã hội mà chỉ là tập hợp những cá nhân đơn lẻ. mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với con người trong xã hội là điều kiện của phát triển. Ví dụ: Nền sản xuất hàng hoá phát triển được là nhờ mối quan hệ chặt chẽ giữa ngưòi xản xuất với người tiêu dùng: người sản xuất nắm được nhu cầu của người tiêu dùng, xản xuất ra những loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu đó nghĩa là được người tiêu dùng chấp nhận và thúc đẩy xản xuất phát triển Vai trò của giao tiếp đối với cá nhân: Giao tiếp lá diêu kiên để tâm lí và nhân cách của cá nhân phát triển bình thường: Nhờ có giao tiếp mà caon người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, gia nhập cộng đồng, phản ánh mối quan hệ xã hội, kinh nghiệm xã hội và chuyển chúng thành tài sản riêng của mình. những trường hợp trẻ em bị thất lạc vào trong rừng cho thấy rằng những đứa trẻ này vẫn có hình hài của con người nhưng tâm lí và hành vi của các em lại không phải của con người. Trong giao tiếp nhiều phẩm chất của con người đặc biệt là các phảm chất đạo đức đươc hình thành và phát triển: 16
  17. Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận được chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ , pháp luật tồn tại xã hội, tức là những nguyên tắc xã hội như: biết cái gì đúng cái gì sai, cái gì đẹp và không đẹp, cái gì lên làm và không nên làm… Giao tiếp thoả mãn nhiều nhu cầu của con người: Nhu cầu thông tin, nhu cầu được thừa nhận, nhu càu được hoà nhập vào nhóm xã hội,… chỉ được thoả mãn trong giao tiếp. chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu tự giam mình trong phòng 1 ngày, không gặp gỡ hay tiếp xúc với ai qua điện thoại, ti vi, đài báo? chắc chắn đó là 1 ngày dài lê thê, nặng nề. đó là vì nhu cầu giao tiếp của chúng ta không được thoả mãn. Theo các nhà tâm lí học, trong cuộc đời của mỗi con người nhu cầu giao tiếp xuất hiện rất sớm khoảng 2-3 tuổi những đúa trẻ đã biết nói với người lớn. Những thiếu hụt trong tiếp xúc với người lớn ở giai đoạn ấu thơ sẽ để lại những dấu hiệu về tâm lí nhân cách khi trưởng thành. II.3.5.Chức năng của giao tiếp Có thể chia chức năng của giao tiếp thành hai nhó chính đó là nhóm chức năng xã hội và nhóm chức năng tâm lí Nhóm chức năng xã hội: Chức năng thông tin: chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thông cuả giao tiếp. Qua giao tiếp con người trao đổi với nhau những thông tin nhất định. Ví dụ: người thư kí báo cáo lại kết quả của một đối tác theo uỷ quyền của giám đốc, giám đốc đưa ra những yêu cầu chỉ thị mới đối với người thư kí. Chức năng tổ chức và phối hợp hành động: trong một tổ chức, một công việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện. để hoàn thành tốt công việc thì những người này phải thống nhất với nhau và phối hợp với nhau nhịp nhàng. muốn vậy họ phải tiếp xúc trao đổi với nhau, phân công nhiệm vụ trong quá trình thực hiện công việc đó.Theo các nhà ngôn ngữ học, chính nhu cầu thống nhất, phối hợp hành động trong việc phối hợp săn bắt thú của người nguyên thuỷ mà ngôn ngữ_phương tiện giao tiếp cơ bản của con người đã xuất hiện. Chức năng điều khiển: trong giao tiếp chúng ta chịu sự ảnh hưởng của người khác và ngược lại chúng ta cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới người khác thông qua nhiều hình thức khác nhau như|: thuyết phục, ám thị, bắt trước. Đây là chức năng rất quan trọng của giao tiếp. Một người có khả năng lãnh đạo chính là người có khả năng ảnh hưởng tới người khác. Chức năng phê bình: trong xã hội,mỗi con người là 1 “chiếc gương”.Giao tiếp với họ chính là soi mình với chiếc gương đó.Từ đó chúng ta thấy được ưu điểm, thiếu sót của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản thân. Nhóm chức năng tâm lí: 17
  18. Chức năng động viên khích lệ: trong giao tiếp con người con khơi dậy cho nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định, chúng kích thích hành động của họ.Một lời khen chân tình, một lời động viên kịp thời sẽ làm cho người khác tự tin, cảm thấy có trách nhiệm phải cố gắng nhiều hơn. Chức năng phát triển, củng cố, thiết lập mối quan hệ: giao tiếp không chỉ biểu hiện giữa con người với con người, mà còn phải thiế lập các mối quan hệ mới đồng thời phải củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc và gặp gỡ nhau đó là khởi đầu của mối quan hệ nhưng các mối quan hê này có tiếp tục phát triển bền chặt hay không, điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong quá trình giao tiếp sau đó. Nếu chỉ tiếp xúc một vài lần mà sau đó bị ngắt quãng trong một thời gian dài kể cả anh em ruột thịt thì cũng khó duy trì. Chức năng cân bằng cảm xúc: trong cuộc sống chúng ta có nhiều cảm xúc được bộc lộ. Những niềm vui hay nỗi buồn, nhưng bi quan hay lạc quan đều muốn có người cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm thấy được sự đồng cảm, cảm thông và giả toả được cảm xúc của mình. Chức năng hình thành, phát triển tâm lí, nhân cách: (đã nói ở phần chức năng của giao tiếp) Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của chúng ta nếu các chức năng của giao tiếp không được thực hiện đầy đủ thì điêu đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đền cuộc sống và hoạt động cũng như trong việc hoàn thiện tâm lí và nhân cách của bản thân mỗi chúng ta. II.3.6.Cấu trúc của giao tiếp Giao tiếp gồm có ba mặt quan hệ chặt chẽ với nhau: truyền thông, nhận thức và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.  Truyền thông trong giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin giữa những người giao tiếp với nhau. Quá trình này diễn ra ở 2 cấp độ: cá nhân và tổ chức. + Truyền thông giữa các cá nhân là quá trình tương hỗ tuần hoàn không đơn giản. Để truyền thông chính xác, ngoài việc hạn chế các yếu tố nhiễu các cá nhân còn phải, hiểu yếu tố tâm lí các đói tượng truyền thông,mục đích thời gian, địa điểm, phương pháp truyền thông tối ưu. 18
  19. Sơ đồ truyền thông giữa hai cá nhân + Truyền thông trong tổ chức có thể là truyền thông chính thúc hoặc không chính thức. Khái niệm tổ chức: tổ chức là tập hợp những người có cơ cấu nhất định, cùng tiến hành một hoạt đọng nào đó vì lợi ích chung Ví dụ: cơ quan, nhà máy,công ty, xí nghiệp,văn phòng, … Truyền thông chính thức là hình thức truyền thông theo những qui định, hoặc bản thân của quá trình truyền thông là một bộ phận của công việc. Ví dụ: hai nhân viên gặp nhau cùng tro đỏi cho nhau về công việc mà giám đốc giao cho họ. Truyền thông không chính thức là quá trinh trao đổi thông tin trong quá trình giao tiếp, người phat đi thông điệp chỉ với tư cách của cá nhân không thay mặt cho ai hay đai diên cho ai một cách chính thức. Ví dụ: hai nhân viên ngồi uống nước và bàn tán về tin đồn rằng công ti của họ chuẩn bị sát nhập vào công ti khác.  Nhận thức trong giao tiếp là quá trình chủ thể giao tiếp tìm hiểu đực điểm của nhau và chính bản thân mình. Kết quả của quá trình này là hình về đối tượng giao tiếp và về bản thân, là những đánh giá , nhận xét về nhau được rút ra thông qua giao tiếp.trong quá trình này ấn tuaoạng ban đầu có vai trò nổi bật.  Trong giao tiếp, chủ thể giao tiếp còn tác động ảnh hưởn lẫn nhau. Sự ảnh hưởng này tác đọng qua lại dưới nhiều hình thức, trong đó phổ biến là lây lan tâm lí, thuyết phục , bắt chước, áp lực nhóm, ám thị. II.3.7.Các phương tiện tham gia giao tiếp Trong quá trrình giao tiếp con người sử dụng ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ Ngôn ngữ là quá trình cá nhân sử dụng một thứ tiếng nào đó để giao tiếp và tư duy. Nó là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Ngôn ngữ trong giao gồm: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.Ngôn ngữ là loại phương tiện chủ yếu để con người truyền đi chính xác những thông tin miêu tả tâm trngj, hành động của các sự vật hiện tượng. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ như: ánh mắt, nét mặt, nụ cuời, trang phục,vị trí ,khoảng cách, … nghĩa là chúng rất đa dạng phong phú. Các phương tiên phi ngôn ngữ thường hỗ trợ, bổ sung cho phuơng tiện ngôn ngữ. II.3.8.Phân loại của giao tiếp Phân loại theo tính chất tiếp xúc 19
  20. Giao tiếp trực tiếp: là loại giao tiếp trong đó các chủ thể trực tiếp trao đổi gặp gỡ với nhau. Ví dụ: trò chuyện trực tiếp,hội thảo, đàm phán, … Đây là loại hình phổ biến nhất trong đời sống xã hội của mỗi con người. Loại giao tếp này có những ưu điểm sau:  Bên cạnh ngôn ngữ ta còn có thể sử dụng loại hình phi ngôn ngữ (ăn mặc, ánh mắt, trang điểm,cử chỉ, diệu bộ,… ) do đó lượng thông tin trao đổi phong phú và đa dạng hơn.  Có thể nhanh chóng biết được ý kiến của người đối thoại  Có thể điều chỉnh quá trình giao tiếp kịp thời, đạt được mục đích Tuy nhiên loại hình giao tiếp trực lại bị giới hạn về mặt không gian và bị chi phối bởi các yếu tố ngoại cảnh. Giao tiếp gián tiếp: là loại giao tiếp trong đó chủ thể tiếp xúc với nhau thông qua các phương tiện điện thoai, vô tuyến truyền hình, thư từ hoặc qua người thứ ba. Giao tiếp gián tiếp ít bị hạn chế về mặt không gian, những người ở xa nhau có thể cùng giao tiếp được với nhau va với nhiều đối tượng khác nhau. Tuy nhiên trong giao tiếp gián tiếp chúng ta không thể nhìn được vẻ mặt của đối tượng, không biết họ đang làm gì, ở trong hoàn cảnh nào và cũng không thể dùng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. Phân loại theo qui cách giao tiếp Giao tiếp chính thức: là loại giao tiếp theo tính chất công vụ, chức tách, qui định thể chế. Ví dụ: hội họp, mittinh, đàm phán,… trong giao tiếp chính thức vấn đề cần trao đổi, bàn bạc thường được xác định trước, thông tin cũng được chủ thể can nhắc trước, vì vậy thông tin thường có tính chính xác cao. Giao tiếp không chính thức là loại hình giao tiếp mang tính cá nhân, khồng câu nệ vào thể thức, chủ yếu dựa trên sự hiểu biết của các chủ thể. Ví dụ: bạn bè gặp gỡ nhau trò chuyện với nhau, giám đốc nói chuyện riêng tư với nhân viên. Ưu điểm chính của giao tiếp không chính thức là thân thiện, cởi mở, hiểu biết lẫn nhau. Và chúng ta có thể tự do biểu hiện những nỗi niềm mà không bị e ngại trước bất kì điều gì, có thể tự do trao đổi những vấn đề mà chúng ta muốn. Phân loại giao tiếp theo mối quan hệ người tham gia giao tiếp và tính chất của mối quan hệ giữa họ  Giao tiếp giữa hai cá nhân, vd: hai ngưòi bạn trò chuyện với nhau  Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm, vd : thầy giao giảng bài trên lớp  Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, vd: hai nhóm thảo luận học tập với nhau  Giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm, vd: một người trong nhóm có ý kiến về bài thuyết trình của nhóm mình. III.3.9.Kết luận Giao tiếp là một hình thức hoạt động của con người. Thông qua giao tiếp, những mối quan hệ giữa con người được kiến tạo. Sự hiểu biết và nắm những quy luật của giao tiếp góp phần làm tăng hiệu quả lao động và điều chỉnh các quan hệ xã hội. 20
nguon tai.lieu . vn