Xem mẫu

  1. BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC  LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH TẠI HÀ NỘI Tên tình huống: “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại thị trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên giữa ông   Hoàng Văn Thức và bà Nguyễn Thị Lan” Học viên :  …………………. Chức vụ:  Chuyên viên Đơn vị:    ………………….
  2. Hà Nội, năm 201… LỜI CẢM ƠN Để  hoàn thành tiểu luận tình huống này, tôi xin chân thành cảm  ơn   sự  hướng dẫn của ……………… cùng các Thầy, Cô giảng viên, cán bộ  quản lý Trường Đại học Nội vụ Hà Nội cũng như sự động viên, hỗ trợ  từ  các bạn đồng nghiệp.  Rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô và các bạn. Xin trân trọng cảm ơn. 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 3 I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 4 1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống 4 1.2. Mô tả tình huống 4 II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 6 2.1. Mục tiêu phân tích tình huống 6 2.2. Cơ sở lý luận 6 2.3. Phân tích diễn biến tình huống 16 2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống 17 2.5. Hậu quả của tình huống 18 III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 21 3.1. Mục tiêu xử lý tình huống 21 3.2. Đề xuất các phương án 21 3.3. Các giải pháp thực hiện phương án đã chọn 23 IV. KIẾN NGHỊ 25 4.1. Kiến nghị với các cơ quan Đảng, Nhà nước 25 4.2. Kiến nghị với các cơ quan quản lý cấp trên 25 KẾT LUẬN 26 3
  4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 MỞ ĐẦU Đất đai là tài nguyên đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường, người ta   coi đất đai là hàng hoá đặc biệt. Câu nói “tấc đất, tấc vàng” nói lên sự quý   giá ở  tầm mức cao nhất của đất đai thực ra cũng không đủ. Nếu nói dưới   góc độ giá trị lịch sử ­ xã hội : “mỗi tấc đất đều nhuốm máu cha ông”; đất   đai là “giang son gấm vóc” thì sự thiêng liêng, quý giá ấy khó lấy thước đo  nào mà định giá. Trong quá trình vận động của xã hội, nhất là trong nền kinh tế  thị  trường, nhiều vấn đề bức xúc xảy ra hàng ngày. Trong đó đứng đầu là vấn  đề  tranh chấp đất đai. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là dân không có  thói quen cắm cột mốc, quá trình sử dụng bị sai lệch hoặc chuyển nhượng,  tặng cho không làm đày đủ  các thủ  tục càn thiết, hợp lệ. Hệ  thống hồ  sơ  địa chính, đặc biệt là bản đồ  địa chính chính quy chưa đày đủ, thiếu đồng  bộ, thống nhất, độ  chính xác và tin cậy không cao nên gây ra những khó  khăn  rất   lớn  cho   các   cấp   chính  quyền   địa  phương  trong  thực   thi   thẩm  quyền quản lý theo quy định của pháp luật, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Nhiều   vấn đề lịch sử để lại chưa được giải quyết dứt điểm và kịp thời như việc  xác định nguồn gốc, mốc giới, thời hạn, mục đích, quy chủ  sử  dụng đất...  đã nảy sinh nhiều bức xúc. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các cơ  4
  5. quan chức năng gặp không ít khó khăn khi tìm chứng cứ  để  xác định tính khách quan của vụ việc, thậm chí có nhiều trường họp phải suy đoán theo  lập luận của các bên. Từ đó, xảy ra nhiều tình trạng khiếu kiện vượt cấp,   kéo dài, thưa gửi nhiều nơi và qua nhiều cấp giải quyết mà các bên vẫn   khiếu nại. Trong những năm qua, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại trên  lĩnh vực đất đai đã có nhiều chuyển biến tích cực, giải quyết được một  khối lượng lớn vụ việc, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ vững an  ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, tình hình tranh chấp, khiếu nại có liên quan  đến đất đai hiện nay vẫn còn diễn biến phức tạp, tiềm  ẩn nguy cơ   ảnh  hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đây là một vấn đề  nhức nhối đang được Đảng và Nhà nước, xã hội rất quan tâm. Việc nhận thức và vận dụng pháp luật không  đúng, không thống  nhất, thậm chí sai phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo nhiều, công tác quản lý   nhà nước các cấp phải tập trung quá nhiều lực lượng, kinh phí để  giải  quyết khiếu nại, tố  cáo của công dân, gây tốn kém, mất thời gian. Có sự  việc nhỏ chỉ cần giải quyết  ở cấp cơ sở là xong, nhưng thực tế việc hiểu   biết và vận dụng pháp luật của một số  cán bộ  còn chưa đúng, chưa phù  hợp đã làm cho sự  việc phức tạp thêm, kéo dài thời gian, tạo ra nhiều dư  luận không tốt trong quần chúng nhân dân. Qua thời gian học tập lớp “Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước  chương trình chuyên viên chính” do Trường Đại học Nội vụ Hà Nội giảng   dạy và tìm hiểu thực tế, tôi lựa chọn tình huống “Giải quyết tranh chấp   quyền sử dụng đất tại thị trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên   giữa ông Hoàng Văn Thức và bà Nguyễn Thị  Lan ” làm chủ  đề  tiểu luận  tình huống cuối khóa học. 5
  6. I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống Vào một ngày năm 2017, trong cuộc họp giao ban, tôi được đồng chí   lãnh đạo giao nhiệm vụ trực tiếp tìm hiểu tình hình, tham gia tổ giải quyết  vụ  việc tranh chấp quyền sử  dụng  đất tại thị  trấn Đình Cả, huyện Võ  Nhai, tỉnh Thái Nguyên giữa ông Hoàng Văn Thức và bà Nguyễn Thị Lan. Chúng tôi xác định giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai là một  trong những chủ  trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một trong những   nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai theo quy định của pháp  luật về  đất đai. Thực hiện tốt nội dung này không những góp phần nâng  cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai, mà còn góp   phần đáng kể trong việc giữ gìn ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh   tế, hàn gắn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giữ gìn an ninh, trật tự và   ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể xảy ra, đảm bảo  trật tự  xã hội cũng như  củng cố  niềm tin của nhân dân đối với Đảng và  Nhà nước, làm căn cứ  để  điều chỉnh và xây dựng các chính sách quản lý  6
  7. phù hợp, đóng góp tích cực vào sự  phát triển chung của địa phương trong  giai đoạn mới. 1.2. Mô tả tình huống Tháng 8 năm 1994, UBND xã Thần Sa, huyện Võ Nhai nhận được   đơn xin giải quyết tranh chấp đất đai của bà Nguyễn Thị  Lan trú tại thị  trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai. Nội dung đơn trình bày việc ông Hoàng Văn  Thức tranh chấp quyền quản lý, sử dụng 3.500 m2 đất canh tác với bà Lan.   Do mâu thuẫn không dàn xếp được dẫn đến vụ việc tranh chấp nói trên. Bà Nguyễn Thị  Lan là cán bộ  công nhân viên chức đã tham gia công  tác và được nghỉ  him trí năm 1974 xã Thần Sa, huyện Võ Nhai. Chồng bà   (ông Bùi Văn Quang) là viên chức nhà nước, hiện đã nghỉ  hưu. Hai ông bà   có năm người con đã lập gia đình riêng, trong đó ba người con gái tham gia  công tác xã hội còn hai người con trai làm mộng tại xã Thần Sa, huyện Võ  Nhai. Trong thời kỳ  bao cấp tình hình kinh tế  xã hội gặp nhiều khó khăn,  bà Lan đã chuyển đến thị  trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai để  làm ăn và xin  đăng ký hộ khẩu thường trú tại đây từ năm 1978 cho tới nay. Ông Hoàng Văn Thức (con ông Hoàng Văn Thắng đã mất năm 1980)  là cán bộ làm việc trong một cơ quan kinh tế của huyện được nghỉ chế độ  năm 1990, vợ  ông (bà Hà Thị  Huệ) hiện đang công tác trong ngành giáo  dục. Vợ chồng ông bà có ba người con, con cả là giáo viên đã xây dựng gia   đình, con thứ  hai phục vụ  trong quân đội còn con út đang theo học phổ  thông trung học. Gia đình ông Thức có diện tích đất canh tác là 9.520 m2, trong đó  phần diện tích đang chanh chấp với bà Lan là 3.500 m2. Do diện tích tương   đối lớn trong khi gia đình lại ít người nên hộ ông Thức không có khả năng   canh tác hết số diện tích trên. Vào năm 1995 ông Thức đã làm thủ  tục bán  một phần diện tích cho các ông, bà: 7
  8. ­ Ông Lưu Vãn Đại: 2.640 m2 (thửa 150 tờ bản đồ địa chính số 20) ­ Bà Ngô Thị  Hương: 690 m2 (thửa 80 tờ  bản đồ  địa chính số  20).   Trong đó diện tích bán cho bà Hương là diện tích đang tranh chấp. Khi tiến hành mua bán số  mộng đất trên, ông Thức đã làm thủ  tục   với chính quyền, được UBND xã Thần Sa, huyện Võ Nhai đồng ý. UBND   huyện Võ Nhai cũng đã cấp giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất cho ông  Lưu văn Đại và bà Ngô Thị  Hương trong năm 1995. Tới năm 1996, ông  Thức tiếp tục bán cho ông Nguyễn Văn Luyện 2.040 m2, diện tích này  đang nằm trong diện tranh  chấp. Việc mua bán này chưa được UBND xã  Thần Sa, huyện Võ Nhai xác nhận và cũng chưa được cấp giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất. Như  vậy qua hai năm ông Thức đã bán cho ba hộ  nói trên số  ruộng  với tổng diện tích là 5.370 m2 trong đó có 2.730 m2 đất tranh chấp. Hiện   nay ông Thức còn sử  dụng 4.150 m2, trong đó có 770 m2 đất đang tranh  chấp với bà Lan. Cho tới nay số  diện tích trên chưa được cấp có thẩm  quyền giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Qua điều tra, xác minh cho thấy nguồn gốc của số ruộng đất kể trên  như sau: Phần diện tích tranh chấp 3.500 m2 nằm trong tổng số 9.520 m2 do  hộ  ông Thức sử  dụng. Toàn bộ  diện tích này trước đây là của ông Thắng   (bố  ông Thức). Năm 1960 ông Thắng công hữu vào họp tác xã. Đến năm   1970 có thực trạng các họp tác xã không còn hoạt động nữa, song UBND xã  Thần Sa, huyện Võ Nhai vẫn tiếp tục quản lý toàn bộ đất canh tác. Lúc đó  các hộ  tự  sản xuất trên diện tích của mình mà trước đây đã góp vào HTX  nhưng không được phép chuyển nhượng, gia đình ông Thắng cũng nằm  trong bối cảnh đó. Năm 1974 bà Lan được về nghỉ hưu trí tại địa phưong. Ông Thắng đã  chia cho bà 3.500 m2 đất ruộng để canh tác tăng thêm thu nhập cho kinh tế  8
  9. gia đình vốn có khó khăn. Sau đó ông Thắng đề  nghị  UBND xã Thần Sa,  huyện Võ Nhai chuyển số  diện tích trên cho bà Lan và đã có tên trong sổ  quy chủ, sổ thuế của xã (theo báo cáo của ông Lê Văn Đăng ­ nguyên Chủ  tịch kiêm Bí thư Đảng uỷ xã giai đoạn 1970­1977) Năm 1976  ông Thắng làm giấy giao ruộng cho bà Lan. Điều này  được bà Phó Chủ tịch UBND xã Thần Sa, huyện Võ Nhai ký xác nhận ngày  03/12/1976, có một số  người khác chứng kiến. Theo hồ  sơ, bà Lan được   chia số  ruộng có diện tích là 3.500 m2 nhưng thực tế lại chỉ sử dụng 770   m2 (từ  năm 1974). số  diện tích còn lại ông Thắng vẫn sử  dụng, đến năm   1978 khi phong trào được củng cố  lại ông góp toàn bộ  diện tích đó vào   HTX. Trên thực tế  gia đình bà Lan là viên chức nhà nước, các thành viên  trong  gia  đình  được  hưởng  chế   độ   cung cấp  theo  chính sách  quy  định.  UBND xã không đồng ý cho bà được sử dụng số diện tích ông Thắng chia   cho. Tuy vậy, do hoàn cảnh kinh tế  gia đình khó khăn hai ông bà đều đã   nghỉ hưu lại đông con, Đảng uỷ, UBND xã cũng đã xem xét và đồng ý cho  bà được phép sử dụng 770 m2 để làm kinh tế phụ (trên đất 5%) nhằm tăng   thêm thu nhập và cải thiện đời sống gia đình. Với những lý do nêu trên, sau khi HTX đã củng cố trở lại và và hoạt   động bình thường, bà Lan vẫn được sử  dụng 770 m2 mà không thu lại.  Thực tế bà quản lý, sử dụng ổn định từ năm 1974 cho đến năm 1993. Năm   1994 ông Thức tiến hành đòi lại số mộng này để sử dụng, kê khai với nhà  nước, dẫn đến việc tranh chấp với bà Lan. Từ   năm   1994   đến   năm   1996   bà   Lan   nhiều   lần   làm   đơn   đề   nghị  UBND xã Thằn Sa, huyện Võ Nhai xem xét việc ông Thức đòi lại mộng   canh tác của bà nhưng không được giải quyết. Sau đó bà làm đơn đề  nghị  lên UBND huyện Võ Nhai. Vụ việc này được các cấp, các ngành chức năng   giải quyết như sau: 9
  10. ­ Uỷ ban nhân dân xã Thần Sa, huyện Võ Nhai:       + Sau khi nhận được đơn của bà Lan từ  Phòng Địa chính huyện  chuyển đến, ngày 25/8/1997 UBND xã Thần Sa, huyện Võ Nhai cho mời  hai hộ  đến phân tích và động viên họ  dàn xếp với nhau để  cùng có mộng  sản xuất, xong hai bên không đồng ý.     + UBND xã có kết luận: " Chưa đủ căn cứ trả số mộng trên cho bà   Lan (vì biên bản xác minh và giấy tờ mua bán có mâu thuẫn), Uỷ ban nhân  dân xã vẫn giao số  diện tích này cho ông Thức quản lý, sử  dụng và làm  nghĩa vụ năm 1997, chờ cấp trên giải quyết...".     + Bà Lan không nhất trí với kết luận đó và gửi đơn đề nghị UBND   huyện Võ Nhai giải quyết. ­ Phòng Địa chỉnh huyện Võ Nhai:       + Ngày 22/10/1997 sau  khi  điều  tra xác  minh Phòng  Địa chính  huyện mời hai đương sự đến, Phòng Địa chính đã phân tích trên cơ sở có lý,   có tình để hai bên tự thoả thuận, thương lượng với nhau đồng thời vẫn giữ  được tình cảm hàng xóm láng giềng, nhưng đã không giải quyết được.     + Phòng Địa chính căn cứ  theo pháp luật và những chứng cứ  điều  tra thu được và giải quyết như  sau: Thu hồi thửa ruộng số  170 thuộc tờ  bản đồ  địa chính số  20 có diện tích 770 m2 của ông Thức giao cho bà Lan  quản lý, sử dụng từ sau ngày 22/10/1997. Giao cho ông Thức được quản lý,  sử dụng số diện tích 2.730 m2 gồm hai thửa 145 và 80 thuộc tờ bản đồ địa   chính số 20.     + Với kết luận trên, hai hộ không đồng ý và lại tiếp tục gửi đom  đề nghị UBND huyện Võ Nhai giải quyết. ­ Thanh tra Nhà nước huyện Võ Nhai:     + Qua thời gian nghiên cứu xem xét ngày 20/6/1999, Thanh tra nhà   nước huyện Võ Nhai có kết luận số 06/KL­XKT về việc giải quyết tranh   chấp đất nông nghiệp giữa hai hộ với các nội dung: Không công nhận việc   10
  11. đòi quyền sử  dụng 3.500 m2 đất nông nghiệp gồm các thửa 170, 145, 80   thuộc tờ  bản đồ  địa chính số  20 của bà Nguyễn Thị  Lan. Giao cho ông  Hoàng Văn Thức được quyền quản lý, sử dụng 3.500 m2 đất ở các thửa nói  trên từ năm 1999.      + Nhận được kết luận đó, bà Lan không đồng ý và tiếp tục gửi  đom đề nghị UBND huyện Vố Nhai giải quyết. ­ Uỷ ban nhân dân huyện Võ Nhai:     + Xét hồ sơ vụ việc, căn cứ  luật đất đai năm 1993 và báo cáo kết   luận   số   06/KL­XKT   ngày   20/6/1999;   Công   văn   số   22/CV­TTr   ngày  15/7/2001 của Thanh tra nhà nước huyện Võ Nhai, UBND huyện Võ Nhai  ra quyết định số 125/QĐ­UB ngày 28/11/2001 giải quyết vụ tranh chấp với   các nội dung sau: Thu hồi các thửa ruộng 170, 145, 80 có diện tích 3.500 m2   ở tờ bản đồ địa chính số 20, hiện đang có sự tranh chấp giữa hộ bà Lan và   hộ  ông Thức. Giao cho ông Thức được quản lý, sử  dụng 3.500 m2 đất  ở  các thửa đất trên kể từ vụ mùa năm 2001.     + Bà Lan vẫn không đồng ý với quyết định đó và tiếp tục làm đơn  khiếu nại.    + Ngày 20/4/2002 UBND huyện Võ Nhai ra quyết định số  84/QĐ­ UB giải quyết khiếu nại của bà Lan. Tại quyết định này, UBND huyện đã  kết luận: Quyết định giải quyết số 125/QĐ­UB ngày 28/11/2001 là phù họp  với quy định của pháp luật đất đai và không công nhận nội dung khiếu nại  của bà Lan.     + Cả  hai quyết định giải quyết của UBND huyện Võ Nhai không  được sự  đồng ý của bà Lan, tiếp đó bà lại làm đơn đề  nghị  lên cấp trên  giải quyết. ­ Trong quá trình xác minh, bà Ngô Thị  Hương có làm đơn đề  nghị  các cấp có thẩm quyền xem xét và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng   đất cho bà hiện đang sử dụng diện tích 690 m2 ở thửa 80 thuộc tờ bản đồ  11
  12. địa chính số  20 (trước kia bà đã được cấp giấy chứng nhận, nhưng lúc đó   diện tích này vẫn đang là diện tích tranh chấp giữa bà Lan và ông Thức). 12
  13. II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 2.1. Mục tiêu phân tích tình huống Mục tiêu phân tích tình huống là xác định rõ các vấn đề, mặt được   cũng như các tồn tại nhằm giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp đất đai giữa   các hộ  trên cơ sở pháp luật đất đai, nguồn gốc đất đai; đồng thời cũng tạo  cơ  sở  nhằm phân tích cho các bên chấp nhận một phương án giải quyết   hợp lý, vừa có lý, vừa có tình, đem lại sự  công bằng và hoà thuận trong  nhân dân. 2.2. Cơ sở lý luận Trên cơ sở phân tích hồ  sơ  tài liệu, các văn bản hướng dẫn thi hành  Luật đất đai, có thể thấy đất đai thuộc quyền quản lý của Nhà nước, để có   thể nhận thức rõ hơn xin được đưa ra một số khái niệm như sau: * Quản lý Nhà nước: là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực   lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối  ngoại của Nhà nước.  Nói cách khác: Quản lý Nhà nước là sự tác động bằng pháp luật của   các chủ  thể  mang quyền lực Nhà nước tới các đối tượng quản lỷ  nhằm   thực hiện các chức năng đổi nội và đối ngoại của Nhà nước. Như vậy, tất   cả các cơ quan Nhà nước đều làm chức năng quản lỷ Nhà nước. Trong quản lý xã hội thì quản lý Nhà nước có các đặc điểm sau: ­ Chủ  thể  quản lý nhà nứơc là các cơ  quan trong bộ  máy Nhà nước   thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. ­ Đối tượng của quản lý Nhà nước là toàn thể  nhân dân sóng và làm  việc trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. ­ Quản lý Nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã   hội, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao ...   nhằm thoả mãn nhu càu hợp pháp của nhân dân. 13
  14. ­ Quản lý Nhà nước mang tính quyền lực Nhà nước, pháp luật là  phương tiện, công cụ  chủ  yếu để  quản lý Nhà nước nhằm duy trì sự   ổn  định và phát triển của xã hội. * Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật: ­ Đối với các nhà nước nói chung: pháp luật là hệ thống các quy tắc  xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ỷ chỉ của giai   cấp thống trị trong xã hội, là nhân tổ điều chỉnh các quan hệ xã hội. ­ Quan hệ Nhà nước và pháp luật là mối quan hệ giữa hai yếu tố của  kiến trúc thượng tàng. Nhà nước là cơ quan duy nhất ban hành ra pháp luật  và pháp luật ban hành ra điều chỉnh cả Nhà nước. Pháp luật tiến bộ sẽ giúp  Nhà nước phát triển và ngược lại. Trong nhà nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt nam, việc  điều  chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện theo: Pháp luật xã hội chủ  nghĩa  là hệ  thống các quy tắc xử  sự, thể  hiện  ỷ  chỉ  của giai cẩp công nhân và  nhân dân  ỉao động, dưới sự  lãnh đạo của Đảng, do nhà nước xã hội chủ  nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà   nước, trên cơ sở  giảo dục, thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.   Pháp luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động của tổ chức xã hội và nhà  nước, là công cụ, phương tiện để  Nhà nước thực hiện quyền lực và tuân  theo nguyên tắc tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. ­ Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên  hệ  nội tại thống nhất với nhau được phân định thành các chế  định pháp  luật, các ngành luật và được thể  hiện trong các văn bản do Nhà nước ban   hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất định. * Pháp chế ­ cơ sở để phát huy hiệu lực pháp luật trong quản lý Nhà   nước: Bản chất của Nhà nước sẽ  được thể  hiện như  thế  nào, sức mạnh  của Nhà nước được củng cố  và tăng cường đến mức nào, hiệu lực của   pháp luật được phát huy ra sao liên quan đến vấn đề pháp chế.  14
  15. Khái niệm về pháp chế được thể hiện rõ trong Hiến pháp Việt nam   năm 1992. Điều 12 Hiến pháp quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng   pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Điều này  khẳng định một trong những nội dung quan trọng của pháp chế  là quản lý  nhà nước bằng pháp luật, pháp luật là cơ  sở  chủ  yếu của quản lý Nhà  nước. Như  vậy có thể  hiểu: Pháp chế  là những yêu cầu, đòi hỏi các cơ  quan Nhà nước, các tổ  chức kinh tế, tổ  chức xã hội, đơn vị  vú trang nhân  dân và mọi công dân phải tuân thủ, chấp hành, thực hiện đúng đắn nghiêm  chỉnh pháp luật trong mọi hoạt động, hành vi, xử  sự  của mình; đồng thời  không ngừng đẩu tranh phòng ngừa, chổng các tội phạm và các vi phạm   pháp luật khác, xử lỷ nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật. Pháp chế và pháp luật xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ mật thiết vói   nhau. Là hai khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Pháp  luật chỉ có thể phát huy hiệu lực của mình, điều chỉnh có hiệu quả các quan  hệ  xã hội khi dựa trên cơ  sở  vững chắc của nền pháp chế  và ngược lại.   Pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp  luật hoàn thiện về  nội dung và hình thức. Pháp luật là tiền đề  của pháp  chế. Nhưng để có pháp chế, bên cạnh hệ thống pháp luật hoàn thiện phải   có   sự   tuân   thủ,   chấp   hành,   sử   dụng   pháp   luật   thường   xuyên   liên   tục,   nghiêm minh của mọi cơ quan, tổ chức và công dân. * Quản lý hành chính nhà nước: Quản lý hành chính nhà nước là hoạt  động tác động bằng quyền lực pháp luật của nhà nước, được thực hiện bởi  các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành các   văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức, chỉ  đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc kinh tế, văn hoả  ­ xã   hội và hành chỉnh ­ chỉnh trị. Nói cách khác quản lý hành chỉnh nhà nước là   hoạt động chấp hành ­ điều hành của nhà nước. 15
  16. ­ Tính chất chấp hành thể hiện  ở chỗ mọi hoạt động đều được tiến  hành trên cơ sở pháp luật và theo nguyên tắc pháp chế. ­ Tính chất điều hành được thể hiện ở chỗ bảo đảm cho các văn bản  pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện trên thực tế,  các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải được tiến hành hoạt động tổ  chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền quản  lý. Trong quá trình điều hành, cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân   danh nhà nước ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật để  đặt ra các   quy phạm pháp luật hay các mệnh lệnh cụ thể buộc các đối tượng quản lý  có liên quan phải thực hiện. ­ Hoạt động điều hành là một nội dung cơ bản của hoạt động chấp   hành quyền lực nhà nước, luôn gắn với hoạt động chấp hành và cùng với  hoạt động chấp hành tạo thành hai mặt thống nhất của quản lý hành chính  nhà nước. Nội dung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được cụ  thể  hoá thông qua các mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng hoạt động cụ  thể  của  từng cơ  quan hành chính Nhà nước, từng ngành, từng cấp và toàn thể  hệ  thống hành chính Nhà nước.Các cơ  quan hành chính Nhà nước với thẩm  quyền được xác định, với cơ  cấu tổ  chức và đội ngũ cán bộ  công chức  tương ứng thực hiện chức năng hành pháp hoạt động trên tất cả các mặt và   lĩnh vực, trong đó có quản lý hành chính Nhà nước về đất đai. *  Ngành luật đất đai: khái niệm về  ngành luật đất đai  ở  Việt nam  như  sau: Tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm   thiết lập quan hệ đất đai trên cơ  sở  chế độ  sở  hữu toàn dân về  đất đai và  sự bảo hộ đầy đủ của Nhà nước đổi với các quyền của người sử dụng đất  tạo thành một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt nam, đó  là ngành luạt đất đai. 16
  17. *  Chế  độ  quản lý Nhà nước về  đất đai: Hoạt động quản lý Nhà  nước về  đất đai không chỉ  chú trọng đến việc hình thành và kiện toàn cơ  quan quản lý Nhà nước về đất đai; mà điều có ý nghĩa quan trọng và thiết   thực hơn cả là xác định nội dung quản lý đất đai một cách cụ thể, phù họp  và thực hiện nội dung đó trên thực tế thật triệt để. * Luật đất đai: Là tổng thể  các quy phạm pháp luật điều chỉnh các   quan hệ  về  chiếm hữu, sử  dụng, định đoạt số  phận pháp lý của đất đai   giữa Nhà nước và người sử dụng đất; nhằm mục đích sử dụng đất đai họp  lý, hiệu quả. Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và người sử dụng đất. Nhận thấy được ý nghĩa to lớn của hoạt động quản lý Nhà nước về  đất đai; pháp luật về đất đai trong thời gian qua đã không ngừng được sửa  đổi, bổ  sung và điều chỉnh các nội dung quản lý Nhà nước về  đất đai cho  phù họp với yêu càu mới của nền kinh tế xã hội.Trên cơ sở kế thừa và phát   triền các nội dung về  quản lý Nhà nước đã được ghi nhận trong Luật đát  đai 1993; luật đất đai 2003 đặc biệt quan tâm đến một số  nội dung quan  trọng trước thực tế  cuộc sống đòi hỏi càn phải quản lý mà pháp luật đất  đai trước đây chưa đề cập hoặc đề cập chưa cụ thể, rõ ràng như: thanh tra,   kiểm tra, xử lý các vi phạm đát đai; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo   về đất đai. 2.3. Phân tích diễn biến tình huống Trên cơ sở phân tích hồ  sơ  tài liệu, các văn bản hướng dẫn thi hành  Luật đất đai, có thể thấy tính chất phức tạp của vụ việc tranh chấp đất đai   nói trên, vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp, diễn biến kéo dài nhiều năm,  qua nhiều cấp ngành xử  lý, giải quyết, song chưa dứt điểm, gây dư  luận  không tốt trong nhân dân. Về tranh chấp đất đai, tại khoản 2 điều 38 luật đất đai năm 1993 đã   quy định: "Các tranh chấp về  quyền sử  dụng đất mà người sử  dụng đất  17
  18. không có giấy chứng nhận của cơ  quan có thẩm quyền thì do UBND giải  quyết theo quy định sau đây: ­ UBND huyện, quận, thị  xã, thành phố  thuộc tỉnh giải quyết các   tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân hộ gia đình với   tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý   cuả mình. ­ UBND tỉnh, thành phố  trực thuộc Tmng  ương giải quyết các tranh  chấp, giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân nếu   tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc Tmng ương. ­ Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của UBND đã giải  quyết tranh chấp, đương sự  có quyền khiếu nại lên cơ  quan hành chính  Nhà nước cấp trên. Quyết định của cơ  quan hành chính nhà nước cấp trên   trực tiếp có hiệu lực thi hành...”. Sau khi xác minh, thu thập hồ sơ, nghiên cứu tài liệu có liên quan đến   vụ  việc, đối chiếu với quy định của Luật đất đai, các văn bản pháp quy   được ban hành và phân tích điều kiện, hoàn cảnh thực tế của hai gia đình,   có thể rút ra nhận xét sau: ­ Về  nguồn gốc đất của ông Thức: Diện tích đất tranh chấp 3.500   m2 nguyên trước đây là của ông Thắng – bố  ông Thức sử  dụng. Trải qua   các thời kỳ  thay đổi chính sách đất đai của Nhà nước, diện tích đó không  thuộc quyền quản lý của ông Thắng nữa. Mặt khác, khi có chủ trương thay   đổi vể hình thức tổ chức quản lý trong nông nghiệp thì bản thân ông Thức  cũng chưa được cấp có thẩm quyền giao đất sản xuất nông nghiệp. Lúc  này ông Thức sử  dụng diện tích trên với ý nghĩa là đất cũ của cha để  lại.  Mặt khác khi ông Thắng mất năm 1980  không có di chúc thừa kế  để  lại   cho ông Thức. Như  vậy số  diện tích trên chưa thuộc quyền sử  dụng hợp   pháp của ông Thức. 18
  19. ­ Về nguồn gốc đất của bà Lan: Tuy được ông Thắng chia cho 3.500  m2 đất, được UBND xã Thần Sa, huyện Võ Nhai xác nhận, có tên trong sổ  quy chủ của xã vào năm 1976, song bà Lan chỉ sử dụng diện tích 770 m2 từ  năm 1974 đến năm 1993. Nhu vậy diện tích 2.730 m2 còn lại không thuộc  quyền quản lý sử dụng của bà Lan, do vậy không thể giao số diện tích này   cho bà Lan. ­  Việc   UBND  xã   Thần  Sa,  huyện  Võ  Nhai   đồng  ý   để   ông  Thức   chuyển nhượng đất nông nghiệp cho các hộ ông Luyện và bà Hương trong  lúc diện tích chuyển nhượng đó đang có tranh chấp là trái pháp luật (quy  định tại khoản 3 điều 30 Luật đất đai năm 1993).  ­ Tại điều 2, luật đất đai năm 1993 quy định: "Nhà nước không thừa  nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử  dụng trong quá trình thực  hiện chính sách đất đai của Nhà nước ...". Như  vậy việc ông Thức đòi lại   diện tích 770 m2 đất nông nghiệp mà bà Lan đang sử  dụng là trái với quy  định này. ­ Tại điều 6 khoản 7 Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ  quy định việc giao đất nông nghiệp cho hộ  gia đình, cá nhân sử  dụng  ổn  định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp như sau: "Đối tượng được  giao đất nông nghiệp là nhân khẩu nông nghiệp thường trú tại địa phưong.   Đối với cán bộ, công nhân viên chức nhà nước nghỉ  mất sức, phải nghỉ  việc do tinh giản biên chế  chỉ  được hưởng trợ  cấp một lần... Nếu có nhu  càu sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp thì UBND xã, phường căn cứ vào  quỹ đất của địa phương xét và đề nghị UBND huyện, thị xã, thành phố giao   đất...". Tại điểm 1 điều 5 của Chỉ  thị  số  06/CT­TU ngày 20/4/1990 của  Tỉnh uỷ  Bắc Thái (trước đây) và Quyết định số  106/QĐ­ƯB của UBND   tỉnh Bắc Thái ban hành ngày 09/5/1990 có quy định: Ruộng đất là sở  hữu  của Nhà nước, không có khái niệm mộng  ông cha, mộng tổ, mộng cũ.  Không giao mộng đất cho hộ  phi nông nghiệp... Như  vậy, căn cứ  các quy  19
  20. định nêu trên cho thấy việc giải quyết của UBND huyện Võ Nhai tại quyết   định số 125/QĐ­UB ngày 28/11/2001 là không đúng pháp luật.  ­  Trong  quá   trình  xem  xét  giải  quyết  vụ   tranh  chấp,  các   cấp  các   nghành chức năng của huyện Võ Nhai đã thiếu thận trọng, thiếu hiểu biết  về pháp luật đất đai, do đó có những sai sót trong việc xử lý giải quyết, gây  ra tranh chấp kéo dài và ngày càng phức tạp. ­ Bản thân ông Thức cũng như vợ ông Thức đều là cán bộ viên chức   nhà nước, không thuộc đối tượng được giao đất nông nghiệp theo quy định  tại Nghị  định 64/CP ngày 27/9/1993. Đối với số  diện tích trước đây ông  Thắng (bố  ông Thức) theo chính sách đất đai của Nhà nước đã góp vào   HTX có nghĩa là toàn bộ số đất đó trở thành tài sản của HTX, do HTX quản  lý, sử  dụng và thực hiện các chính sách theo quy định. Bởi vậy việc ông  Thức đòi quyền sử dụng đối với số diện tích trên là không được thừa nhận.   Hơn nữa, trên thực tế  cho thấy gia đình ông Thức không có nhu cầu sử  dụng đất nông nghiệp, thể  hiện qua việc ông đã bán đi tổng số  5.370 m2   đất cho ba hộ. Cho nên UBND huyện Võ Nhai có quyết định giao 3.500 m2  đất nông nghiệp cho ông Thức sử dụng là không phù họp với quy định của  pháp luật. 2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống Bản thân nhũng người là đối tượng sử dụng đất đang tranh chấp như  đã nêu trên nằm ở khu vực địa bàn thuộc vùng sâu , vùng xa của một huyện   miền núi nên sự hiểu biết của họ về chế độ, chính sách, quy định của pháp  luật về  đất đai còn rất nhiều điểm bị  hạn chế. Một mặt do nguyên nhân  chủ  quan là tự  bản thân họ  chưa có ý thức, tức là không chủ  động tìm  hiểu . Mặt khác còn do công tác tổ chức nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận  thức cho người dân về chế độ, chính sách, quy định pháp luật nhà nước về  đất đai của cơ quan chức năng trên các phương tiện thông tin đại chúng tại  20
nguon tai.lieu . vn