Xem mẫu
- Luận văn tốt nghiệp
Đề tài: Tình hình sử dụng
bảo hiễm xã hội hiện nay ở
Việt Nam
- lêi më ®Çu
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu
cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của cải
xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, có nghĩa là việc thoả mãn
nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống,
không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao
động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc
tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người
nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu,
chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều
kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường
hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái
còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con
người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết
khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và
gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của
cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều
hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực
đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ
thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển.
Díi ®©y lµ bµi tiÓu luËn cña em vÒ t×nh h×nh x· héi hiÖn nay.bµi tiªñ luËn cã g×
cha ®Çy ®ñ mong c« dãng gãp thªm.
- MỤC LỤC
A. Cơ sở lí luận
1.Các khái niệm liên quan ………………………………….…….........
3. Vai trũ của nghiên cứu bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế ……...
B.Thực trạng và đánh giá bảo hiểm xã hội hiện nay…..
- Vấn đề hiện nay trong bảo hiểm xã hội …………………………....
- Đánh giá thực trạng hiên nay của bảo hiểm xã hội …………........
+)các chế độ bảo hiểm xã hội ………………………………………
.
+) tình hình phát triển của bảo hiểm xã hội……………………….
+)tình hình giải quyết các chế độ bảo hiểm xă hội……………….
+)tình hình thu - chi của bảo hiẻm xã hội …………………………
-Đánh giá tình hình bảo hiẻm xã hội hiện nay………………………
C. Giải Phỏp và ý kiến đóng góp ……………………….
-Giải pháp………………………………………………………………
- Ý kiến đóng góp………………………………………………………
D. Kết luận………………………………………………...
- A. CH¦¥NG 1: C¬ së lÝ luËn
1) Mét sè kh¸i niÖm liªn quan:
Bảo hiểm xã hội:
BHXH có lịch sử khá lâu và đã có nhiều thay đổi về chất với nhiều mô hình phong
phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, định
nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận vì được tiếp cận từ nhiều
giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau. Điều này cho thấy tính đa dạng
và phong phú của BHXH. Chính vì vậy, để có thể nêu được khái niệm này, có thể
xuất phát từ việc trả lời những câu hỏi sau:
- Thứ nhất, tại sao lại phải BHXH?
- Thứ hai, mục đích của BHXH là gì?
ĐÓ trả lời cho câu hỏi thứ nhất,. Trong lao động sản xuất, song song với những
thuận lợi, con người thường gặp phải những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro
xã hội” làm giảm hoặc mất thu nhập của họ- Những sự kiện, những “rủi ro xã hội”
liên quan đến thu nhập bao gồm: mất hoặc giảm thu nhập do bị mất hoặc giảm khả
năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, ví dụ như tai nạn lao
động, ốm đau, thất nghiệp…
Từ khía cạnh này hay khía cạnh khác đều dẫn đến đe doạ “an to àn kinh tế” cho
người lao động và gia đình họ (bị giảm hoặc mất thu nhập). Vì vậy, phải có những
biện pháp và hình thức để chống lại sự đe dọa này mà một trong những biện pháp
đó là BHXH. Nói cách khác, BHXH được hình thành là để góp phần đảm bảo thu
nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện không thuận lợi,
những “rủi ro xã hội”.
- Câu hỏi thứ hai được trả lời từ hệ quả của câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Có thể
nêu rõ hơn, mục đích của BHXH là thông qua hệ thống các trợ cấp BHXH, bù đắp
hoặc thay thế thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện,
những “rủi ro xã hội” làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề
nghiệp, do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử
dụng, góp phần đảm bảo an to àn xã hội. ở đây cần làm rõ khái niệm bù đắp và thay
thế thu nhập. Khi người lao động bị giảm thu nhập thì BHXH thực hiện bù đắp cho
khoản thu nhập bị thiếu hụt này.
Từ cách tiếp cận này, có thể nêu khái niệm về BHXH như sau:
“BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành
và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các
nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an to àn kinh tế cho người lao
động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
Từ các giác độ khác, cũng có thể có những khái niệm khác nhau về BHXH. :
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử
dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, người lao động và
được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo
hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu)
hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính giữa
những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời
sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”,
nhằm góp phần đảm bảo an to àn xã hội….
- Một số khái niệm có liên quan trong BHXH
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách
nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại,
trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên
tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của
pháp luật BHXH.
Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước
(trong một số trường hợp).
Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro
của số đông người lao động khác.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình
thuê mướn. Khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính họ.
Ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với tập đo àn người sử
dụng lao động, để bảo đảm cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi
phát sinh nhu cầu BHXH.
Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ
BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp
cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý, định
ra những chế độ, chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH.
- Bên BHXH, đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH
thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty...) do Nhà nước lập ra (ở một số nước có
thể do tư nhân, tổ chức kinh tế - xã hội lập ra) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH. Bên
BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu
phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển.
- - Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh những nhu
cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được bảo hiểm gây
ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và nhân thân
của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu cầu được BHXH do
pháp luật quy định. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế
thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (lao động
chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa
là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho
chính họ
2 ý nghÜa cña viÖc nghiªn cøu b¶o hiÓm x· héi trong nÒn kinh tÕ :
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và
đi lại v.v… Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để
làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì
đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi
điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất
lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập
hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn
trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự
phục vụ bị suy giảm v.v… Khi r ơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm
chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chứa bệnh và
điều trị ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng
v.v… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài
người phải t ìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san
sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự
cứu trợ của Nhà nước v.v… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và
không chắc chắn.
- Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến.
Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết
cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải
những nhu cu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v… Trong
thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi
ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc
nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh,
giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này
diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội.
Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp
này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và
giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt
chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp
của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ
này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời
sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những
mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải,
cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định.
Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát
sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được
thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy BHXH ra đời và
phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia BHXH,
nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu
cầu tất yếu khách quan
ChÝnh v× vËy chóng ta cÇn t×m hiÓu vµ cã nh÷ng ®ãng gãp ý kiÕn lµm c ho b¶o
hiÓm x· héi ngµy cµng v÷ng ch¾c vµ tèt ®Ñp h¬n
- B.ch¬ng2 : thùc tr¹ng vµ ®¸ng gi¸
1 S¬ lîc vÒ b¶o hiÓm x· héi
Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña b¶o hiÓm x· héi :
Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị
mất việc làm hoặc khi về già..., đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình
thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự
bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người
làm công ăn lương t ìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái
(lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải
có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang
đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị
giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu
chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường
hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã
mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp
mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên).
Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân
biệt già - trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ - người
yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích chung.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu á, châu
Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống
An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con
người.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới
chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với
- trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được
nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp
những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của
BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một
cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho
xã hội loài người trong quá trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH là
một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần
thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã
trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu
cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên
ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu.
B¶n chÊt cña b¶o hiÎm x· héi :
BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát
triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có
điều kiện ra đời phát triển. Thực chất BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của
những “rủi ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện
thông qua quá trình t ổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH.
Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã
hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành
viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH
được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự
phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối
lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo
chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh
tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam
giới) và người sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu
nhập thấp... Để dễ hình dung có thể dùng “lát cắt ngang” vào một tập hợp những
người đang và đã tham gia BHXH vào bất kỳ thời điểm nào vào bất kỳ “đoạn” nào
- của tập hợp ta đều có thể thấy được mối quan hệ của sự phân phối này. ở lát cắt này
có cả người mới tham gia BHXH, người đang hưởng BHXH; người khỏe mạnh,
người ốm đau; người già, người trẻ; người có thu nhập cao, người có thu nhập
thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian.
Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu
nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu cầu an toàn
kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả
bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của
người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã
hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải
đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ
có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực
hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh t ế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen
lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã
nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ
trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho
người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một
khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm
vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động xuất
phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua
đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng
suất lao động ổn định trật tự xã hội.
- 2. Thùc tr¹ng t×nh h×nh b¶o hiÎm x· héi ViÖt Nam hiÖn nay
C¸c chÕ ®é b¶o hiÓm x· héi ë ViÖt Nam:
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ
năm 1952 th× cã c¸c chÕ ®é b¶o hiÓm x· héi sau:
Chăm sóc y tế;
Trợ cấp ốm đau;
Trợ cấp thất nghiệp;
Trợ cấp tuổi già;
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
Trợ cấp gia đình;
Trợ cấp sinh sản;
Trợ cấp tàn phế;
Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng.
Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam ®· thực hiện ®îc 5 chế độ :
Trợ cấp ốm đau;
Trợ cấp thai sản;
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
Trợ cấp hưu trí;
Trợ cấp tử tuất.
Trong ®ã 5 chÕ ®é trªn ®îc ¸p dông chñ yÕu cho c¸c ®èi tîng sau ®©y
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
- d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; ng ười làm công tác cơ
yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân
phục vụ có thời hạn;
Ngoµi ra trong chÕ ®é trî cÊp tö tuÊt th× th©n nh©n cña ngêi mÊt sÏ ®îc
hëng theo møc quy ®inh cña ph¸p luËt
§Æc biÖt s¾p tíi b¶o hiÓm x· héi ViÖt Nam sÏ c«ng bè loai h×nh b¶o hiÓm thÊt nghiÖp
Chính sách sẽ giúp những người lao động có thu nhập thấp có được nguồn thu
nhập khi họ mất việc hoặc đang trong thời gian t ìm việc.Bảo hiểm thất nghệp, áp
dụng khởi điểm đối với các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên.
Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người
lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc
T×nh h×nh ph¸t triÓn cña b¶o hiÓm x· héi ViÖt Nam hiÖn nay :
HiÖn nay nhµ níc ta ®· x©y dùng ®îc nguån quü b¶o hiÓm x· héi vµ hµng lo¹t
c¸c chÝnh s¸ch b¶o hiÓm x· héi
Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Người sử dụng lao động đóng góp;
Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;
Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
Chính sách BHXH
Là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã hội của Nhà nước, là những
chủ trương, quan điểm, nguyên tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một
tầng lớp đông đảo người lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời kỳ.
Trong mỗi giai đoạn phát triển khinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra
và thực hiện phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội từng giai đoạn.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung thống
nhất từ trung ương đến địa phương, gồm có :
1. ë Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
2. ë tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực
thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
3. ë huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị
xã, thành phố trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh.
Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính
sách, chế độ bảo hiểm xã hội, và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Tỉnh:
Bảo hiểm xã hội tỉnh là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt tại tỉnh nằm
trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Tổng giám đốc
tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quản lý Quỹ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (gọi chung là bảo hiểm xã hội) trên địa bàn tỉnh.
Bảo hiểm xã hội tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã
hội Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Bảo hiểm xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ, có dấu, tài khoản
riêng.
Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Huyện:
Bảo hiểm xã hội huyện (tên gọi chung của Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh) là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh đặt tại huyện, nằm trong hệ
thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã
hội tỉnh tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính bảo
hiểm xã hội trên địa bàn huyện.
- Bảo hiểm xã hội huyện chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội
tỉnh, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân huyện.
Bảo hiểm xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ, có dấu, tài khoản
riêng.
Từ khi thực hiện cải cách kinh tế năm 1986, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã khai thác, huy động và khuyến khích được
mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ lao động trong các thành
phần kinh tế phát triển mạnh và vị trí của người lao động được bình đẳng trước các
chính sách xã hội cho dù họ làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau. Hoạt
động BHXH dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã được hình thành và
phát triển. Ngày 1/1/1995, Bộ Luật Lao động ở nước ta có hiệu lực thi hành, trong
đó có chương XII về BHXH. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày
26/1/1995 về Điều lệ BHXH áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà
nước và người lao động; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 về Điều lệ BHXH đối
với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính sách
BHXH cũng thường xuyên được bổ sung, sửa đổi kịp thời cho phù hợp với hiện
trạng kinh tế - xã hội từng giai đoạn.
Kết quả đạt được về chính sách BHXH:
- Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc không chỉ bó hẹp đối với những người lao
động trong khu vực Nhà nước, mà bao gồm tất cả những người lao động có quan hệ
lao động hay còn gọi là người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH
từng bước được mở rộng đã tạo được sự bình đẳng giữa những người lao động làm
việc trong các thành phần kinh tế khác nhau về nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo
được sự an tâm, tin tưởng vào chính sách BHXH mới.
- Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp chủ yếu của 2 bên tham gia quan
hệ lao động: người sử dụng lao động và người lao động; ngoài ra còn có sự hỗ trợ
của Nhà nước. Việc đóng góp vào quỹ BHXH và được hưởng quyền lợi từ nguồn
quỹ này thể hiện sự tuân thủ nguyên tắc cơ bản của BHXH và là cơ sở để phân biệt
- chính sách BHXH với các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách ưu đãi xã hội, phúc
lợi xã hội trong hệ thống đảm bảo xã hội. Quỹ BHXH được sự bảo hộ của Nhà
nước và hoạt động độc lập với ngân sách Nhà nước. Hơn 10 năm qua, nguồn quỹ
BHXH đã góp phần rất quan trọng để tham gia đầu t ư phát triển kinh tế - xã hội, tạo
thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Tổng số tiền sinh lợi của quỹ
BHXH qua 10 năm (1997 - 2006) là khoảng 16.000 tỷ đồng, riêng tiền lãi năm 2006
ước tính đạt 3.800 tỷ đồng. Sự bền vững của nguồn quỹ là sự đảm bảo vững chắc
quyền lợi cho người tham gia BHXH.
- Các chế độ BHXH được kế thừa và phát triển, quyền lợi của người lao động đã
được mở rộng hơn, cụ thể bao gồm: chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Những người đang
được hưởng chế độ BHXH hàng tháng từ trước năm 1995 như: hưu trí, tử tuất, mất
sức lao động… thì đến nay vẫn tiếp tục được hưởng và mức trợ cấp cũng thường
xuyên được điều chỉnh tăng lên cho phù hợp với mức sống chung của xã hội và tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.
- Đã hình thành được Hệ thống ngành BHXH Việt Nam gồm 3 cấp từ Trung ương
đến địa phương. Hệ thống BHXH Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương
đến địa phương đã chuyên môn hoá việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế
độ BHXH. Do đã tách hoạt động sự nghiệp thu - chi - quản lý quỹ BHXH ra khỏi
chức năng quản lý nhà nước, ngành BHXH có điều kiện để thực hiện cải cách hành
chính, tổ chức thực hiện tốt thu - chi, từng bước hiện đại hoá công tác thu - chi bằng
công nghệ thông tin, cải tiến quy tr ình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong
cả nước được thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả..
.)Kết quả thực hiện của ngành BHXH những năm qua:
Năm 1995, có 2,85 triệu người thì đến cuối năm 2006 số người tham gia
BHXH là 6,7 triệu (không kể đã giải quyết hơn 1,5 triệu người nghỉ việc hưởng
lương hưu, hưởng trợ cấp một lần), riêng số tiền thu BHXH năm 2006 đạt khoảng
22.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH.
Năm 1993 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2006 tăng lên
khoảng 36 triệu người, chiếm khoảng 40% dân số cả nước,
- Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động
cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2 nghìn t ỷ đồng (2006), đảm
bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người; không còn
tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng
tháng từ quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh theo các năm sau và đồng thời nguồn quỹ
chi trả từ ngân sách nhà nước sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn những đối tượng
hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi thực hiện cải cách BHXH từ năm 1995, chính
sách BHXH của nước ta cũng không ngừng đổi mới cho phù hợp với nhu cầu tham
gia BHXH của người lao động, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội nói
chung và điều đáng lưu ý là các chính sách BHXH mới đã có nhiều điểm tương
đồng trong tiến trình hội nhập với hệ thống BHXH của các nước trong khu vực
cũng như các nước trên thế giới.
.) Những tồn tại của chính sách BHXH:
Bên cạnh những ưu điểm chủ yếu hiện nay, chính sách BHXH còn bị
lồng ghép với các chính sách khác như chính sách giải quyết lao động dôi dư... Chất
lượng KCB cho người có thẻ BHXH còn nhiều bất cập. Đặc biệt, chưa xác lập được
đầy đủ mối quan hệ tương thích giữa mức đóng góp và khung quyền lợi được
hưởng đã dẫn đến việc cân đối quỹ BHXH chưa bền vững.
Như vậy, chính sách BHXH, mới được ban hành trên cơ sở kế thừa và
phát triển các quyền lợi có liên quan trước đó nên một mặt đã không ảnh hưởng đến
quyền lợi của những người đang nhận trợ cấp BHXH, và khắc phục được những
hạn hẹp về nguồn chi trả trợ cấp trong thời kỳ bao cấp, mặt khác đã mở rộng diện
đối tượng tham gia BHXH, góp phần tạo ra sự chuyển đổi nhịp nhàng về mặt xã hội
từ nền kinh tế kế hoạch hoá hành chính tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình quỹ BHXH tập trung và được quản lý thống nhất
theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương đã khẳng định sự phù hợp
trong công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách BHXH nói riêng. Mô
hình quản lý này thực sự có hiệu quả và là cơ sở để thúc đẩy sự nghiệp BHXH tiếp
tục phát triển.
- Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ 1/1/2007 và các văn bản dưới luật đã tạo
cơ sở pháp lý để mọi người trong độ tuổi lao động đều có quyền và có thể tham gia
BHXH với các hình thức khác nhau (bắt buộc hoặc tự nguyện) và bổ sung thêm chế
độ bảo hiểm thất nghiệp nhằm giúp người lao động khi bị mất việc làm có được
khoản trợ cấp để ổn định cuộc sống, để t ìm kiếm việc làm và nhanh chóng trở lại
với thị trường lao động.
Tuy nhiên, đến nay số đối tượng tham gia BHXH còn ít, năm 2008 mới
có khoảng 19% lực lượng lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH hưu trí- tử tuất
vẫn chưa đảm bảo cân đối dài hạn. Theo nguồn tin của BHXH Việt Nam, năm
2008, số người tham gia BHXH đạt gần 8,7 triệu người, tăng 6,4% so với năm
2007, số lao động tham gia BHXH tăng chủ yếu trong khu vực kinh tế ngo ài quốc
doanh, đầu tư nước ngoài và HTX. Riêng số người tham gia BHXH tự nguyện đến
cuối năm 2008 mới có 6.200 người, trong đó trên 80% là số người trước đó tham
gia BHXH bắt buộc. Năm 2008, số thu từ đóng góp của người lao động và người
sử dụng lao động vào quỹ BHXH được gần 30.217 tỷ đồng, tăng 27% so với năm
2007, trong đó thu qu ỹ ốm đau và thai sản 4.533 tỷ đồng; quỹ tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp 1.511 tỷ đồng; quỹ hưu trí và tử tuất trên 24.173 tỷ đồng.
Nhưng, tình trạng nợ BHXH vẫn còn nan giải. Năm 2008, số tiền nợ
đóng, chậm đóng BHXH trên 1.895 tỷ đồng, trong đó, 65,5% là các khoản nợ dưới
6 tháng; 19,5% t ừ 6 tháng đến 1 dưới 1 năm; 9,6% từ 1 năm đến dưới 2 năm và
5,4% từ 2 năm trở lên. Hà Nội hiện đứng đầu cả nước về nợ đóng BHXH. Tính tới
30/8/2009, có t ới 1.800 đơn vị nợ BHXH 6 tháng trở lên với số tiền nợ đọng tới 256
tỷ đồng; trong đó có 79 đơn vị nợ BHXH từ 1 tỷ đồng trở lên.
Một trong những nguyên nhân để xảy ra nợ đọng BHXH nhiều là do
mức xử phạt chưa đủ mạnh. Theo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều
của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 thì mức phạt cao
nhất có thể áp dụng với vi phạm pháp luật lao động chỉ dừng ở mức 30 triệu đồng,
nên không phát huy tác dụng trong đời sống. Một nguyên nhân nữa là sự phối hợp
- giữa tổ chức BHXH và các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành hữu quan chưa
được chặt chẽ.
Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ 1/1/2007, những qui định về các chế
độ BHXH, quản lý, sử dụng quỹ BHXH... có rất nhiều điểm mới nhưng các văn bản
hướng dẫn chưa ban hành kịp thời, chưa đồng bộ do vậy ảnh hưởng đến tiến độ
triển khai thực hiÖn
Tuy nhiên trong từng giai đoạn, do các chính sách chưa được hoàn thiện nên một
bộ phận cán bộ HTX, nhất là HTX nông nghiệp, bị thiệt thòi về quyền lợi, trong đó
có quyền tham gia BHXH. Bộ Nội vụ đã ba lần gửi văn bản trình Thủ tướng Chính
phủ, đề nghị: Đối với cán bộ trước đây có thời gian làm chủ nhiệm HTX nông
nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có qui mô toàn xã, sau đó chuyển sang làm cán bộ
cấp xã (theo qui định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998), khi nghỉ
việc cộng thời gian công tác trước và sau khi làm chủ nhiệm HTX mà chưa đủ 15
năm công tác thì được cộng thêm toàn bộ thời gian làm chủ nhiệm HTX cho đủ 15
năm để hưởng chế độ hưu trí.
Về việc truy nộp BHXH, Bộ KH&ĐT đã có công văn số 2561/BKH-HTX
ngày 13/4/2006 đ ề nghị Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn đóng BHXH cho các đối t ượng
tham gia BHXH bắt buộc trong các HTX trong đó đề nghị: "Bộ LĐ-TB&XH hướng
dẫn đóng BHXH cho các đối tượng nộp BHXH bắt buộc trong các HTX; nghiên
cứu, kiến nghị Thủ tướng chính phủ chính sách truy đóng BHXH đối với HTX đã
phục vụ lâu năm cho HTX từ trước khi có Luật HTX năm 1996". Song cho tới nay
vẫn chưa có văn bản hướng dẫn.
Vì vậy, Bộ Nội vụ, Bộ LĐ-TB&XH, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan
có liên quan cần nghiên cứu đề nghị các cấp có thẩm quyền ban hành chính sách và
hướng dẫn cụ thể việc truy đóng BHXH đối với một số cán bộ đã phục vụ lâu năm
trong HTX nhưng tuổi đã cao được truy nộp BHXH kể từ ngày 1/1/1997 là thời
điểm Luật HTX năm 1996 có hiệu lực thi hành và có chính sách hỗ trợ thiết thực hỗ
trợ cho cán bộ xã viên HTX tham gia BHXH.
- ĐÓ các chính sách BHXH đi vào cuộc sống trong thời gian tới cần phải thực hiện
cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực BHXH, tạo điều kiện thuận lợi để người
lao động dễ dàng tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; bảo đảm tính công khai
và minh bạch trong đóng và hưởng BHXH; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực
thi chính sách BHXH, trên tinh thần phục vụ người lao động một cách chu đáo,
nhằm thu hút được ngày càng nhiều người tham gia BHXH, tăng cường an sinh xã
hội.
Đặc biệt, cần tiếp tục chỉnh sửa bổ sung các sách nhằm ho àn thiện pháp luật
về BHXH. Để ngăn chặn tình trạng trốn đóng BHXH, nhiều ý kiến cho rằng nên
nâng các mức xử phạt và bổ sung hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm
Luật Bảo hiểm xã hội.
Đối với 2% tiền BHXH để lại đơn vị sử dụng lao động (quy định tại Điều 92
của Luật Bảo hiểm xã hội) cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Thời gian
qua, có rất nhiều đơn vị đã có công văn gửi cơ quan BHXH đề nghị không giữ lại
2% do vì đa số cán bộ làm công tác BHXH tại đơn vị sử dụng lao động chủ yếu là
kiêm nhiệm, không nắm chắc chính sách để thanh toán chế độ ốm đau, thai sản theo
qui định của Luật Bảo hiểm xã hội dẫn đến chi sai số tiền BHXH. Đối với những
đơn vị có số lao động lớn thì số tiền 2% không đủ để chi trả các chế độ ngắn hạn
cho người lao động.
Định hướng phát triển BHXH trong hội nhập quốc tế
Việt Nam gia nhập WTO chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế
thế giới, từng bước đưa nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận cấu thành của nền
kinh tế thế giới và thị trường nước ta trở thành bộ phận cấu thành của thị trường thế
giới. Việc gia nhập WTO sẽ có sự tác động trực tiếp, toàn diện vào các thị trường
hàng hoá, thị trường tiền tệ và thị trường lao động…trong nước. Sự tác động này sẽ
tạo ra một động lực mới, một không gian mới cho sự cạnh tranh và phát triển.
Nếu nhìn dưới góc độ của quá trình công nghiệp hoá mà Đảng và Nhà nước ta đang
thực hiện trong nhiều năm qua, việc gia nhập WTO chính là yếu tố thúc đẩy nhanh
nguon tai.lieu . vn