Xem mẫu

  1. Luận văn tốt nghiệp Đề tài: Tình hình sử dụng bảo hiễm xã hội hiện nay ở Việt Nam
  2. lêi më ®Çu Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, có nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. D­íi ®©y lµ bµi tiÓu luËn cña em vÒ t×nh h×nh x· héi hiÖn nay.bµi tiªñ luËn cã g× ch­a ®Çy ®ñ mong c« dãng gãp thªm.
  3. MỤC LỤC A. Cơ sở lí luận 1.Các khái niệm liên quan ………………………………….……......... 3. Vai trũ của nghiên cứu bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế ……... B.Thực trạng và đánh giá bảo hiểm xã hội hiện nay….. - Vấn đề hiện nay trong bảo hiểm xã hội ………………………….... - Đánh giá thực trạng hiên nay của bảo hiểm xã hội …………........ +)các chế độ bảo hiểm xã hội ……………………………………… . +) tình hình phát triển của bảo hiểm xã hội………………………. +)tình hình giải quyết các chế độ bảo hiểm xă hội………………. +)tình hình thu - chi của bảo hiẻm xã hội ………………………… -Đánh giá tình hình bảo hiẻm xã hội hiện nay……………………… C. Giải Phỏp và ý kiến đóng góp ………………………. -Giải pháp……………………………………………………………… - Ý kiến đóng góp……………………………………………………… D. Kết luận………………………………………………...
  4. A. CH¦¥NG 1: C¬ së lÝ luËn 1) Mét sè kh¸i niÖm liªn quan: Bảo hiểm xã hội: BHXH có lịch sử khá lâu và đã có nhiều thay đổi về chất với nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận vì được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm khác nhau. Điều này cho thấy tính đa dạng và phong phú của BHXH. Chính vì vậy, để có thể nêu được khái niệm này, có thể xuất phát từ việc trả lời những câu hỏi sau: - Thứ nhất, tại sao lại phải BHXH? - Thứ hai, mục đích của BHXH là gì? ĐÓ trả lời cho câu hỏi thứ nhất,. Trong lao động sản xuất, song song với những thuận lợi, con người thường gặp phải những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro xã hội” làm giảm hoặc mất thu nhập của họ- Những sự kiện, những “rủi ro xã hội” liên quan đến thu nhập bao gồm: mất hoặc giảm thu nhập do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, ví dụ như tai nạn lao động, ốm đau, thất nghiệp… Từ khía cạnh này hay khía cạnh khác đều dẫn đến đe doạ “an to àn kinh tế” cho người lao động và gia đình họ (bị giảm hoặc mất thu nhập). Vì vậy, phải có những biện pháp và hình thức để chống lại sự đe dọa này mà một trong những biện pháp đó là BHXH. Nói cách khác, BHXH được hình thành là để góp phần đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện không thuận lợi, những “rủi ro xã hội”.
  5. Câu hỏi thứ hai được trả lời từ hệ quả của câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Có thể nêu rõ hơn, mục đích của BHXH là thông qua hệ thống các trợ cấp BHXH, bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho người lao động và gia đình họ trước những sự kiện, những “rủi ro xã hội” làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp, do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, góp phần đảm bảo an to àn xã hội. ở đây cần làm rõ khái niệm bù đắp và thay thế thu nhập. Khi người lao động bị giảm thu nhập thì BHXH thực hiện bù đắp cho khoản thu nhập bị thiếu hụt này. Từ cách tiếp cận này, có thể nêu khái niệm về BHXH như sau: “BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an to àn kinh tế cho người lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. Từ các giác độ khác, cũng có thể có những khái niệm khác nhau về BHXH. : - Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, người lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết. - Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật. - Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an to àn xã hội….
  6. Một số khái niệm có liên quan trong BHXH Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. - Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH, người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính họ. Ở đây người sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với tập đo àn người sử dụng lao động, để bảo đảm cho quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh nhu cầu BHXH. Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH. - Bên BHXH, đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty...) do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ chức kinh tế - xã hội lập ra) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ BHXH phát triển.
  7. - Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại rủi ro được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (lao động chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho chính họ 2 ý nghÜa cña viÖc nghiªn cøu b¶o hiÓm x· héi trong nÒn kinh tÕ :  Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v… Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v… Khi r ơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chứa bệnh và điều trị ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải t ìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
  8. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy BHXH ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan ChÝnh v× vËy chóng ta cÇn t×m hiÓu vµ cã nh÷ng ®ãng gãp ý kiÕn lµm c ho b¶o hiÓm x· héi ngµy cµng v÷ng ch¾c vµ tèt ®Ñp h¬n
  9. B.ch­¬ng2 : thùc tr¹ng vµ ®¸ng gi¸ 1 S¬ l­îc vÒ b¶o hiÓm x· héi Sù h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña b¶o hiÓm x· héi : Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già..., đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương t ìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già - trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ - người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích chung. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội, cùng với
  10. trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu. B¶n chÊt cña b¶o hiÎm x· héi : BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Thực chất BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá trình t ổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp... Để dễ hình dung có thể dùng “lát cắt ngang” vào một tập hợp những người đang và đã tham gia BHXH vào bất kỳ thời điểm nào vào bất kỳ “đoạn” nào
  11. của tập hợp ta đều có thể thấy được mối quan hệ của sự phân phối này. ở lát cắt này có cả người mới tham gia BHXH, người đang hưởng BHXH; người khỏe mạnh, người ốm đau; người già, người trẻ; người có thu nhập cao, người có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”. Tuy nhiên, tính kinh t ế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội.
  12. 2. Thùc tr¹ng t×nh h×nh b¶o hiÎm x· héi ViÖt Nam hiÖn nay C¸c chÕ ®é b¶o hiÓm x· héi ë ViÖt Nam: Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952 th× cã c¸c chÕ ®é b¶o hiÓm x· héi sau: Chăm sóc y tế;  Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thất nghiệp;  Trợ cấp tuổi già;  Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp gia đình;  Trợ cấp sinh sản;  Trợ cấp tàn phế;  Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng.  Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam ®· thực hiện ®­îc 5 chế độ : Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thai sản;  Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp hưu trí;  Trợ cấp tử tuất.  Trong ®ã 5 chÕ ®é trªn ®­îc ¸p dông chñ yÕu cho c¸c ®èi t­îng sau ®©y a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; b) Cán bộ, công chức, viên chức; c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
  13. d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; ng ười làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; Ngoµi ra trong chÕ ®é trî cÊp tö tuÊt th× th©n nh©n cña ng­êi mÊt sÏ ®­îc h­ëng theo møc quy ®inh cña ph¸p luËt §Æc biÖt s¾p tíi b¶o hiÓm x· héi ViÖt Nam sÏ c«ng bè loai h×nh b¶o hiÓm thÊt nghiÖp Chính sách sẽ giúp những người lao động có thu nhập thấp có được nguồn thu nhập khi họ mất việc hoặc đang trong thời gian t ìm việc.Bảo hiểm thất nghệp, áp dụng khởi điểm đối với các doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc T×nh h×nh ph¸t triÓn cña b¶o hiÓm x· héi ViÖt Nam hiÖn nay : HiÖn nay nhµ n­íc ta ®· x©y dùng ®­îc nguån quü b¶o hiÓm x· héi vµ hµng lo¹t c¸c chÝnh s¸ch b¶o hiÓm x· héi Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội Người sử dụng lao động đóng góp;  Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;  Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.  Chính sách BHXH Là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế và xã hội của Nhà nước, là những chủ trương, quan điểm, nguyên tắc BHXH để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời kỳ. Trong mỗi giai đoạn phát triển khinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà nước đề ra và thực hiện phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội từng giai đoạn.
  14. Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương, gồm có : 1. ë Trung ương là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 2. ë tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. 3. ë huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh. Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Tỉnh: Bảo hiểm xã hội tỉnh là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đặt tại tỉnh nằm trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Tổng giám đốc tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (gọi chung là bảo hiểm xã hội) trên địa bàn tỉnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ, có dấu, tài khoản riêng. Vị trí và chức năng Bảo hiểm xã hội Huyện: Bảo hiểm xã hội huyện (tên gọi chung của Bảo hiểm xã hội huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh đặt tại huyện, nằm trong hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và quản lý tài chính bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện.
  15. Bảo hiểm xã hội huyện chịu sự quản lý trực tiếp toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân huyện. Bảo hiểm xã hội huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở đặt tại tỉnh lỵ, có dấu, tài khoản riêng. Từ khi thực hiện cải cách kinh tế năm 1986, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã khai thác, huy động và khuyến khích được mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ lao động trong các thành phần kinh tế phát triển mạnh và vị trí của người lao động được bình đẳng trước các chính sách xã hội cho dù họ làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau. Hoạt động BHXH dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã được hình thành và phát triển. Ngày 1/1/1995, Bộ Luật Lao động ở nước ta có hiệu lực thi hành, trong đó có chương XII về BHXH. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước và người lao động; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 về Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, chính sách BHXH cũng thường xuyên được bổ sung, sửa đổi kịp thời cho phù hợp với hiện trạng kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Kết quả đạt được về chính sách BHXH: - Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc không chỉ bó hẹp đối với những người lao động trong khu vực Nhà nước, mà bao gồm tất cả những người lao động có quan hệ lao động hay còn gọi là người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH từng bước được mở rộng đã tạo được sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau về nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo được sự an tâm, tin tưởng vào chính sách BHXH mới. - Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp chủ yếu của 2 bên tham gia quan hệ lao động: người sử dụng lao động và người lao động; ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước. Việc đóng góp vào quỹ BHXH và được hưởng quyền lợi từ nguồn quỹ này thể hiện sự tuân thủ nguyên tắc cơ bản của BHXH và là cơ sở để phân biệt
  16. chính sách BHXH với các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách ưu đãi xã hội, phúc lợi xã hội trong hệ thống đảm bảo xã hội. Quỹ BHXH được sự bảo hộ của Nhà nước và hoạt động độc lập với ngân sách Nhà nước. Hơn 10 năm qua, nguồn quỹ BHXH đã góp phần rất quan trọng để tham gia đầu t ư phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Tổng số tiền sinh lợi của quỹ BHXH qua 10 năm (1997 - 2006) là khoảng 16.000 tỷ đồng, riêng tiền lãi năm 2006 ước tính đạt 3.800 tỷ đồng. Sự bền vững của nguồn quỹ là sự đảm bảo vững chắc quyền lợi cho người tham gia BHXH. - Các chế độ BHXH được kế thừa và phát triển, quyền lợi của người lao động đã được mở rộng hơn, cụ thể bao gồm: chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Những người đang được hưởng chế độ BHXH hàng tháng từ trước năm 1995 như: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động… thì đến nay vẫn tiếp tục được hưởng và mức trợ cấp cũng thường xuyên được điều chỉnh tăng lên cho phù hợp với mức sống chung của xã hội và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. - Đã hình thành được Hệ thống ngành BHXH Việt Nam gồm 3 cấp từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống BHXH Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương đã chuyên môn hoá việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ BHXH. Do đã tách hoạt động sự nghiệp thu - chi - quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, ngành BHXH có điều kiện để thực hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt thu - chi, từng bước hiện đại hoá công tác thu - chi bằng công nghệ thông tin, cải tiến quy tr ình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước được thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả.. .)Kết quả thực hiện của ngành BHXH những năm qua: Năm 1995, có 2,85 triệu người thì đến cuối năm 2006 số người tham gia BHXH là 6,7 triệu (không kể đã giải quyết hơn 1,5 triệu người nghỉ việc hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp một lần), riêng số tiền thu BHXH năm 2006 đạt khoảng 22.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH. Năm 1993 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2006 tăng lên khoảng 36 triệu người, chiếm khoảng 40% dân số cả nước,
  17. Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2 nghìn t ỷ đồng (2006), đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng tháng từ quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh theo các năm sau và đồng thời nguồn quỹ chi trả từ ngân sách nhà nước sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn những đối tượng hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quỹ BHXH. Trong nhiều năm qua, kể từ khi thực hiện cải cách BHXH từ năm 1995, chính sách BHXH của nước ta cũng không ngừng đổi mới cho phù hợp với nhu cầu tham gia BHXH của người lao động, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội nói chung và điều đáng lưu ý là các chính sách BHXH mới đã có nhiều điểm tương đồng trong tiến trình hội nhập với hệ thống BHXH của các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới. .) Những tồn tại của chính sách BHXH: Bên cạnh những ưu điểm chủ yếu hiện nay, chính sách BHXH còn bị lồng ghép với các chính sách khác như chính sách giải quyết lao động dôi dư... Chất lượng KCB cho người có thẻ BHXH còn nhiều bất cập. Đặc biệt, chưa xác lập được đầy đủ mối quan hệ tương thích giữa mức đóng góp và khung quyền lợi được hưởng đã dẫn đến việc cân đối quỹ BHXH chưa bền vững. Như vậy, chính sách BHXH, mới được ban hành trên cơ sở kế thừa và phát triển các quyền lợi có liên quan trước đó nên một mặt đã không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người đang nhận trợ cấp BHXH, và khắc phục được những hạn hẹp về nguồn chi trả trợ cấp trong thời kỳ bao cấp, mặt khác đã mở rộng diện đối tượng tham gia BHXH, góp phần tạo ra sự chuyển đổi nhịp nhàng về mặt xã hội từ nền kinh tế kế hoạch hoá hành chính tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình quỹ BHXH tập trung và được quản lý thống nhất theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương đã khẳng định sự phù hợp trong công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách BHXH nói riêng. Mô hình quản lý này thực sự có hiệu quả và là cơ sở để thúc đẩy sự nghiệp BHXH tiếp tục phát triển.
  18. Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ 1/1/2007 và các văn bản dưới luật đã tạo cơ sở pháp lý để mọi người trong độ tuổi lao động đều có quyền và có thể tham gia BHXH với các hình thức khác nhau (bắt buộc hoặc tự nguyện) và bổ sung thêm chế độ bảo hiểm thất nghiệp nhằm giúp người lao động khi bị mất việc làm có được khoản trợ cấp để ổn định cuộc sống, để t ìm kiếm việc làm và nhanh chóng trở lại với thị trường lao động. Tuy nhiên, đến nay số đối tượng tham gia BHXH còn ít, năm 2008 mới có khoảng 19% lực lượng lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH hưu trí- tử tuất vẫn chưa đảm bảo cân đối dài hạn. Theo nguồn tin của BHXH Việt Nam, năm 2008, số người tham gia BHXH đạt gần 8,7 triệu người, tăng 6,4% so với năm 2007, số lao động tham gia BHXH tăng chủ yếu trong khu vực kinh tế ngo ài quốc doanh, đầu tư nước ngoài và HTX. Riêng số người tham gia BHXH tự nguyện đến cuối năm 2008 mới có 6.200 người, trong đó trên 80% là số người trước đó tham gia BHXH bắt buộc. Năm 2008, số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động vào quỹ BHXH được gần 30.217 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2007, trong đó thu qu ỹ ốm đau và thai sản 4.533 tỷ đồng; quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp 1.511 tỷ đồng; quỹ hưu trí và tử tuất trên 24.173 tỷ đồng. Nhưng, tình trạng nợ BHXH vẫn còn nan giải. Năm 2008, số tiền nợ đóng, chậm đóng BHXH trên 1.895 tỷ đồng, trong đó, 65,5% là các khoản nợ dưới 6 tháng; 19,5% t ừ 6 tháng đến 1 dưới 1 năm; 9,6% từ 1 năm đến dưới 2 năm và 5,4% từ 2 năm trở lên. Hà Nội hiện đứng đầu cả nước về nợ đóng BHXH. Tính tới 30/8/2009, có t ới 1.800 đơn vị nợ BHXH 6 tháng trở lên với số tiền nợ đọng tới 256 tỷ đồng; trong đó có 79 đơn vị nợ BHXH từ 1 tỷ đồng trở lên. Một trong những nguyên nhân để xảy ra nợ đọng BHXH nhiều là do mức xử phạt chưa đủ mạnh. Theo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 thì mức phạt cao nhất có thể áp dụng với vi phạm pháp luật lao động chỉ dừng ở mức 30 triệu đồng, nên không phát huy tác dụng trong đời sống. Một nguyên nhân nữa là sự phối hợp
  19. giữa tổ chức BHXH và các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành hữu quan chưa được chặt chẽ. Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực từ 1/1/2007, những qui định về các chế độ BHXH, quản lý, sử dụng quỹ BHXH... có rất nhiều điểm mới nhưng các văn bản hướng dẫn chưa ban hành kịp thời, chưa đồng bộ do vậy ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiÖn Tuy nhiên trong từng giai đoạn, do các chính sách chưa được hoàn thiện nên một bộ phận cán bộ HTX, nhất là HTX nông nghiệp, bị thiệt thòi về quyền lợi, trong đó có quyền tham gia BHXH. Bộ Nội vụ đã ba lần gửi văn bản trình Thủ tướng Chính phủ, đề nghị: Đối với cán bộ trước đây có thời gian làm chủ nhiệm HTX nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có qui mô toàn xã, sau đó chuyển sang làm cán bộ cấp xã (theo qui định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998), khi nghỉ việc cộng thời gian công tác trước và sau khi làm chủ nhiệm HTX mà chưa đủ 15 năm công tác thì được cộng thêm toàn bộ thời gian làm chủ nhiệm HTX cho đủ 15 năm để hưởng chế độ hưu trí. Về việc truy nộp BHXH, Bộ KH&ĐT đã có công văn số 2561/BKH-HTX ngày 13/4/2006 đ ề nghị Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn đóng BHXH cho các đối t ượng tham gia BHXH bắt buộc trong các HTX trong đó đề nghị: "Bộ LĐ-TB&XH hướng dẫn đóng BHXH cho các đối tượng nộp BHXH bắt buộc trong các HTX; nghiên cứu, kiến nghị Thủ tướng chính phủ chính sách truy đóng BHXH đối với HTX đã phục vụ lâu năm cho HTX từ trước khi có Luật HTX năm 1996". Song cho tới nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Vì vậy, Bộ Nội vụ, Bộ LĐ-TB&XH, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan có liên quan cần nghiên cứu đề nghị các cấp có thẩm quyền ban hành chính sách và hướng dẫn cụ thể việc truy đóng BHXH đối với một số cán bộ đã phục vụ lâu năm trong HTX nhưng tuổi đã cao được truy nộp BHXH kể từ ngày 1/1/1997 là thời điểm Luật HTX năm 1996 có hiệu lực thi hành và có chính sách hỗ trợ thiết thực hỗ trợ cho cán bộ xã viên HTX tham gia BHXH.
  20. ĐÓ các chính sách BHXH đi vào cuộc sống trong thời gian tới cần phải thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực BHXH, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động dễ dàng tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; bảo đảm tính công khai và minh bạch trong đóng và hưởng BHXH; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi chính sách BHXH, trên tinh thần phục vụ người lao động một cách chu đáo, nhằm thu hút được ngày càng nhiều người tham gia BHXH, tăng cường an sinh xã hội. Đặc biệt, cần tiếp tục chỉnh sửa bổ sung các sách nhằm ho àn thiện pháp luật về BHXH. Để ngăn chặn tình trạng trốn đóng BHXH, nhiều ý kiến cho rằng nên nâng các mức xử phạt và bổ sung hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm Luật Bảo hiểm xã hội. Đối với 2% tiền BHXH để lại đơn vị sử dụng lao động (quy định tại Điều 92 của Luật Bảo hiểm xã hội) cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Thời gian qua, có rất nhiều đơn vị đã có công văn gửi cơ quan BHXH đề nghị không giữ lại 2% do vì đa số cán bộ làm công tác BHXH tại đơn vị sử dụng lao động chủ yếu là kiêm nhiệm, không nắm chắc chính sách để thanh toán chế độ ốm đau, thai sản theo qui định của Luật Bảo hiểm xã hội dẫn đến chi sai số tiền BHXH. Đối với những đơn vị có số lao động lớn thì số tiền 2% không đủ để chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động. Định hướng phát triển BHXH trong hội nhập quốc tế Việt Nam gia nhập WTO chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, từng bước đưa nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới và thị trường nước ta trở thành bộ phận cấu thành của thị trường thế giới. Việc gia nhập WTO sẽ có sự tác động trực tiếp, toàn diện vào các thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ và thị trường lao động…trong nước. Sự tác động này sẽ tạo ra một động lực mới, một không gian mới cho sự cạnh tranh và phát triển. Nếu nhìn dưới góc độ của quá trình công nghiệp hoá mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện trong nhiều năm qua, việc gia nhập WTO chính là yếu tố thúc đẩy nhanh
nguon tai.lieu . vn