Xem mẫu
- BAØI THAÛO LUAÄN
BAØI
NHOÙM
NHOÙM
-Nhoùm 3: Lôùp:
Nguyễn Bá Thiện 09CQD7
Ngô Văn Phát 09CQD7
Từ Minh Nhật 09CQD7
Trần Thị Ngọc Quý 09CQD7
Phạm Thị Lan 09CQKS5
Nguyễn Thị Hoài 09CQKS5
Trương Thị Hiền 09CQKS5
Nguyễn Thị Vân An 09CQKS5
Lê Thị Minh Trân 09CQKS5
- naêng
Naêng Löôïng Taùi Taïo ôû Vieät
Nam
Nam
Muïc luïc
Sô Löôïc Toång Quaùt veà NLTT ôû VN
Khaùi nieäm
Phaân loaïi Naêng Löôïng Taùi Taïo
Thöïc traïng nguoàn NLTT hieän nay ôû VN
Nhöõng maët haïn cheá, khoù khaên, raøo
caûn aûnh höôûng ñeán nguoàn NLTT ôû VN
Thuaän lôïi cuûa nguoàn NLTT ñoái vôùi VN
Bieän phaùp khai thaùc vaø söû duïng hôïp
lyù nguoàn NLTT
- Sô Löôïc Toång Quaùt veà
NLTT ôû VN
NLTT
Với điều kiện thuận lợi về địa lý, khí hậu, Việt Nam có
nguồn năng lượng tái tạo khá lớn và đa dạng như thủy
điện, gió, năng lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học... có thể
khai thác để đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng và
góp phần bảo vệ môi trường ở nước ta.
Việt Nam đang có kế hoạch phấn đấu đến năm 2015,
nguồn năng lượng tái tạo khai thác đạt mức 5%, năm 2030
đạt mức 10% trong tổng sản lượng điện khai thác. Tuy
nhiên, đến nay, tỷ lệ khai thác rất thấp, mức đóng góp
trong cân bằng năng lượng quốc gia là không đáng kể và
có xu hướng giảm trong cơ cấu nguồn điện.
Do vậy, việc xây dựng chương trình phát triển năng lượng
tái tạo cấp quốc gia, bao gồm quy hoạch, lộ trình, các
chương trình mục tiêu và từng bước hoàn thiện thể chế,
chính sách về năng lượng tái tạo là vấn đề thật cần thiết
và cấp bách trong giai đoạn tới.
- Khaùi nieäm
Năng lượng tái tạo hay năng
lượng tái sinh được hiểu là những
nguồn năng lượng hay những
phương pháp khai thác năng lượng
mà nếu đo bằng các chuẩn mực
của con người thì là vô hạn. Vô
hạn có hai nghĩa: Hoặc là năng
lượng tồn tại nhiều đến mức mà
không thể trở thành cạn kiệt vì sự
sử dụng của con người (thí dụ như
năng lượng Mặt Trời) hoặc là năng
lượng tự tái tạo trong thời gian
ngắn và liên tục (thí dụ như năng
lượng sinh khối) trong các quy trình
còn diễn tiến trong một thời gian
dài trên Trái Đất
- Phaân loaïi Naêng Löôïng
Taùi Taïo
Naêng löôïng Maët
Trôøi:
Nằm trong vùng nhiệt đới,
số giờ nắng trung bình
khoảng 2.000- 2.500 Cuộc thi nấu ăn bằng bếp
giờ/năm, tổng NL bức xạ parabol thu năng lượng mặt
mặt trời trung bình trời tại Đà Nẵng
khoảng150kCal/cm2.năm,
VN được xem là quốc gia
tiềm năng về NL mặt trời.
Tuy nhiên, đến nay ứng
dụng của NLMT chủ yếu
vẫn là pin mặt trời để cấp
điện cho các hộ gia đình
Những tấm pin năng lượng
ở vùng sâu, vùng xa, làm
- Đèn năng
lượng mặt
trời tp cần
thơ
- Năng lượng mặt trời còn đem đến lợi ích
cho con người đó là:
Máy nước nóng năng lượng mặt trời
- Năng lượng gió
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với
bờ biển dài, Việt Nam có một thuận lợi cơ bản
để phát triển năng lượng gió, chiều dài bờ biển
trên 3.000km, VN là quốc gia có tiềm năng gió
rất lớn, có thể đạt công suất 513.360 MW điện,
gấp 200 lần công suất Nhà máy Thủy điện
Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo
của ngành điện VN vào năm 2020. Theo
những phân tích của Viện Năng lượng (Bộ
Công Thương), vùng có tiềm năng gió tốt tập
trung ở khu vực ven biển và vùng cao nguyên,
đặc biệt là ven biển miền Trung, Nam Trung
Bộ và hải đảo có vận tốc gió trung bình lớn
hơn 4m/s (ở độ cao 12m trên mặt đất) có thể
ứng dụng các loại động cơ gió phát điện.
Đường bờ biển trải dài, khiến lưu lượng gió ở
nước ta cũng khá lớn: Tại hải đảo là 860 –
1.410 kWh/m2/năm; khu vực duyên hải là 800
– 1.000 kWh/m2/năm; một số khu vực trong
nội địa: 500 – 800 kWh/m2/năm.
- Hiện còn có dự án xây dựng 20 cột gió với tổng
công suất 15MW tại khu bờ biển bán đảo Phương
Mai, Thành phố Quy Nhơn và một phần huyện
Phù Cát, tỉnh Bình Định. Viện Năng lượng đang
chuẩn bị nghiên cứu khả thi xây dựng các trang
trại gió quy mô lớn, một trong số đó là trang trại 20
MW ở Khánh Hoà. Tổng công ty điện lực Việt Nam
dự định tài trợ để xây dựng một trang trại nữa với
công suất 50 MW, cũng ở Khánh Hoà. Giá phong
điện hiện ở vào khoảng 78cent (800
đồng/kWh).Tổng đầu tư giai đoạn 1 cho 50MW
điện là 65 triệu USD, và giá bán điện dự kiến là 45
USD/MWh
- Cho tới nay, 5 tua-
Cho
bin gió Fuhrlaender
bin
FL1500 mới đã
FL1500
được dựng lên trên
một đồi cát tại tỉnh
Bình Thuận. Mỗi
cột cao 85m, đường
kính cánh quạt
77m, công suất 1,5 Quạt gió trên huyện đảo Bạch Long Vĩ
megawatt, tổng
trọng lượng tua-bin
và cột là 255 tấn,
đây là những tua-
bin gió hiện đại
nhất ở Việt Nam.
Hệ thống đèn chạy bằng năng
lượng mặt trời và gió đặt tại Khu
Công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội)
- Năng lượng địa nhiệt:
Khả năng điện địa nhiệt với hơn 300 nguồn nước
khoáng nóng có nhiệt độ bề mặt từ 30-1050C, tập trung
tại Tây Bắc, Trung Bộ dự báo đến 2025 cho khai thác từ
200 - 400MW điện. Theo thống kê, hiện ở nước ta, điều
tra trên toàn quốc phát hiện 264 nguồn nước nóng,
nhiều nhất là nguồn nước ấm dưới 40 độ C, nguồn
Nước ta có 264 nguồn
nước cực nóng trên 100 độ C mới phát hiện được 4
nước nóng
nguồn, với các nguồn nước trên 200 độ C có thể dùng
làm nhiên liệu trạm phát điện, nhiệt độ từ 80 độ đến
dưới 200 độ C có thể dùng trực tiếp để sấy nông thủy
sản, sưởi ấm cho các căn hộ, nhà máy và nhiệt độ dưới
80 độ C dùng để dưỡng bệnh, phục vụ du lịch...
Suối nước nóng Bình Châu
- Năng lượng Sinh Khối:
VN có nguồn sinh khối dồi dào và đa dạng (chất thải động, thực vật...)
có thể khai thác cho sản xuất điện đạt công suất khoảng 250400 MW.
Việc sản xuất điện từ sinh khối (gỗ củi, các phế thải từ gỗ, phụ phẩm
cây trồng...) cũng đang được thực hiện tại hơn 40 nhà máy đường. Bã
mía là nguyên liệu chính được đốt để tạo ra 2 sản phẩm cuối cùng là
điện và hơi. Hiện nay, một số nhà máy đường đã bán điện thừa cho lưới
và đang dự kiến mở rộng công suất phát điện từ nguồn bã mía.
Hàng nghìn nhà máy xay xát lúa gạo thải ra trấu; mà từ trấu đó có thể
xây dựng các nhà máy điện chạy bằng vỏ trấu với tổng công suất có thể
lên tới 70MW. Bã mía do các nhà máy đường thải ra hiện nay cũng thể
cung cấp để sản sinh điện với tổng công suất khoảng 250MW. Thậm
chí, các hệ thống biogas hiện đang được các hộ gia đình ở nông thôn sử
dụng để nấu nướng, thắp sáng và chạy các động cơ công suất nhỏ
cũng là nguồn năng lượng hiện hữu có thể khai thác mạnh.
- Năng lượng Thủy triều (NL Biển)
Ngoài nguồn năng lượng gió, mặt trời,
biển Việt Nam còn những gì?
Đặc điểm thủy triều, có hai vùng có biên
độ thủy triều đủ lớn là Quảng Ninh và Trà
Vinh có khả năng sử dụng năng lượng
thủy triều. Biển Việt Nam nguồn năng lượng sạch
vô giá.
Nguyên lí khai thác và sử dụng năng lượng thủy triều là dựa trên quá
trình khống chế việc chứa nước và tháo nước ở một vịnh hay một cửa
sông nhờ cái đập làm quay turbin thủy điện.
Dòng năng lượng trung bình yếu nhất đạt 15kW/m; mạnh nhất 30kW/m.
Cụ thể vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, vịnh Gành Rái, Bà Rịa - Vũng Tàu hội
tụ đủ ba yếu tố: Mật độ năng lượng GWh/km2; tiềm năng GWh; hiệu suất
GWh/km. Đủ điều kiện để xây dựng nhà máy thủy điện thủy triều.
- Năng Lượng Thủy Điện
Với 9 hệ thống sông chính chảy về
VN, cùng hàng ngàn sông suối nhỏ
với vận tốc dòng chảy lớn, VN hiện là
1 trong 14 nước giàu thủy năng trên
thế giới.
Ước tính Việt Nam có khoảng 480
trạm thuỷ điện nhỏ với tổng công suất
lắp đặt là 300MW, phục vụ hơn 1 triệu
người tại 20 tỉnh. Trong số 113 trạm
thuỷ điện nhỏ, công suất từ 100KW
10MW, chỉ còn 44 trạm đang hoạt
động. Con số 300MW quả là quá nhỏ
bé so với tiềm năng của thuỷ điện nhỏ
ở Việt Nam là 2.000MW, tương đương
với công suất của nhà máy thuỷ điện
Hoà Bình.
- Thủy điện Pleikrông
Nhà máy thủy điện Bình
Nhà máy thủy điện YALY
(Kon Tum)
Điền (Thừa Thiên Huế)
Nhà máy thủy điện
Nhà máy
Nhà máy thủy Sesan 3A (Gia Lai)
thủy điện
điện trong
sau đập
thân đập
Nhà máy thủy điện Hòa Bình
Thủy điện Thác Bà
- Biểu đồ thể hiện tiềm năng NL thủy điện ở
VN
NL thủy điện ở VN
- Thực trạng nguồn NLTT ở VN hiện nay
Nguồn năng lượng truyền thống (hoá thạch, thuỷ năng…) vốn được
coi là nguồn năng lượng chủ yếu hiện tại, và có thể sử dụng trong
khoảng 4 - 5 thập kỷ nữa giờ đây đang cạn dần và trở nên đắt đỏ.
Dự báo trong những năm tới, trung bình mỗi năm, lượng khai thác
than là 25 triệu tấn, dầu thô 20 triệu tấn, khí 18 - 20 tỉ m3. Như vậy,
nếu có khai thác một cách kinh tế, thì dầu khí cũng chỉ đủ dùng trong
vòng 30 - 40 năm, than còn có khả năng sử dụng trong vòng hơn 60
năm, sau đó sẽ cạn dần, khai thác không kinh tế và giá thành cao.
Tuy nhiên, những kết quả nêu trên so với thế giới còn quá nhỏ nhoi,
và chưa phát huy hết tiềm năng hiện có, hầu như các dự án của nước
ta đều phải có sự hỗ trợ từ nước ngoài. Mặc dù vậy, trong quá trình
ứng dụng vẫn còn gặp nhiều vấn đề khó khăn, mà đặc biệt là ý thức
của người dân.
Rất nhiều trường hợp hiệu quả sử dụng của các hệ thống bị giảm
trầm trọng do người dân tự ý thay đổi thiết kế ban đầu, hoặc sử
dụng quá tải cho phép, không chăm sóc bảo dưỡng, thậm chí còn tự
ý bán đi một số thành phần trong hệ thống đó…
- VN lần đầu tiên triển lãm năng lượng tái tạo
Minh chứng cho sự dồi dào về năng lượng tái tạo của
Việt Nam, ông Lê Tuấn Phong, Vụ phó Năng lượng (Bộ
Công thương) đưa ra hàng loạt con số, như thời gian
mặt trời chiếu sáng trung bình đạt 2.000-2.500 giờ,
tương đương gần 44 triệu tấn dầu quy đổi; năng lượng
gió lên tới 500-1.400 kWh một m2 mỗi năm; năng lượng
củi, phụ phẩm nông nghiệp khoảng 43-46 triệu tấn dầu
quy đổi.
- Những mặt hạn chế, khó khăn, rào cản ảnh
hưởng đến nguồn NLTT ở VN
Mặc dù nhiều tiềm năng, song VN hầu như vẫn chưa ứng dụng được bao nhiêu
NLTT vào phát triển sản xuất, đặc biệt là sản xuất điện và nhiệt năng. Do
phần lớn các công nghệ NLTT thường còn quá đắt, vận hành và bảo dưỡng
tương đối phức tạp trong khi đó chúng thường được ứng dụng cho các khu
vực nông thôn, miền núi xa mạng lưới NL quốc gia, bộ phận lớn cư dân nông
thôn có mức thu nhập thấp và trình độ dân trí chưa cao khiến các công trình
NLTT thường chỉ phát triển khi có nguồn tài trợ nước ngoài hoặc chính sách
hỗ trợ của Nhà nước. Một số trường hợp các dạng NL thương mại còn được
bao cấp, trợ giá của Nhà nước, nên các DN không mặn mà đầu tư do rủi do
cao.
Việc phát triển năng lượng tái tạo của chúng ta còn rất khiêm tốn, việc khai thác
vẫn mang nặng tính tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể và chưa tương xứng
với tiềm năng sẵn có. Một trong những nguyên nhân chính được chỉ ra là do
chúng ta chưa có được những công nghệ phù hợp, tiên tiến để sản xuất hiệu
quả năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để
hỗ trợ phát triển, các giải pháp thực hiện vừa yếu, vừa thiếu, lại chưa đồng
bộ nên chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư, kinh phí đầu tư để khai thác sử
dụng những nguyên liệu đó trong điều kiện hiện nay lại rất cao, cao hơn cả
là chi phí trả cho hoạt động sản xuất điện từ ánh sáng mặt trời, vì đây là một
hoạt động rất tốn kém, các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh vực
này vẫn chỉ dừng ở hình thức nhỏ lẻ, mang tính chất tự phát và cảm tính,
- Thuận lợi của nguồn NLTT đối với VN
Năng lượng tái tạo mang đến cơ hội kinh tế và việc làm, ngoài ý nghĩa
xã hội, còn đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn, góp phần xóa đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường ở địa phương và giảm phát thải khí nhà
kính, đồng thời cũng tạo ra một môi trường sạch. Từ đó, giúp Việt
Nam - một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến
đổi khí hậu (BĐKH) – phát triển bền vững.
Khi gia tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể đạt
được mục tiêu của Chương trình Năng lượng hiệu quả quốc gia
(năng lượng tái tạo chiếm 5% tổng sản lượng năng lượng vào năm
2020). Đồng thời, việc đó cũng góp phần giảm khí thải nhà kính đang
tăng nhanh tại VN.
Để phục vụ việc phát triển kinh tế, nhu cầu năng lượng của nước ta
tiếp tăng gấp đôi và lượng khí thải nhà kính từ năng lượng sẽ tăng
gấp ba trong vòng hai mươi năm tới (2010-2030). Tuy nhiên, khi ứng
dụng năng lượng tái tạo, chúng ta có khả năng giảm được 20% khí
thải nhà kính trong công nghiệp, 20% trong sản xuất và cung cấp
điện, 15% trong giao thông, 10% trong sinh hoạt và 10% trong khu vực
thương mại.
nguon tai.lieu . vn