Xem mẫu

  1. Đăng ký thành viên • Help • • Ghi Nhớ? Chuyên mục • Blogs • Bài mới • Kiến thức tự nhiên • Kiến thức xã hội • o Kiến thức văn học  Văn học phổ thông  Nghiên cứu văn học  Văn học thiếu nhi  Hỏi đáp Văn học o Kiến thức lịch sử  Lịch sử Việt Nam  Lịch sử Thế Giới  Khảo cổ học  Lịch sử phổ thông  Bàn luận lịch sử
  2. Nhân vật lịch sử  o Kiến thức địa lý  Địa lý Việt Nam  Địa lý Thế Giới  Kiến thức du lịch  Địa lý phổ thông  Hỏi đáp Địa lý Kiến thức chuyên ngành • Kiếm Chi Tiết • • Chuyên mục • Kiến thức xã hội • Kiến thức lịch sử • Lịch sử Thế Giới • Lịch sử TG trung đại • Tiểu luận: Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại • 1. Nếu đây là lần đầu bạn ghé thăm chúng tôi, bạn hãy nhấn vào mục FAQ bằng cách click vào liên kết ở trên. Bạn cần ĐĂNG KÝ trước khi bạn có thể gửi bài: nhấp chuột vào đường liên kết đăng ký ở trên để tiến hành. Để bắt đầu xem bài viết, hãy chọn một mục mà bạn muốn xem ở dưới. Đăng kí nhanh Đăng  kí  Kí danh Mật mã nhanh Nhắc lại mật mã Địa chỉ Email Nhắc lại địa chỉ Email Viết chính xác chữ hanoi vào ô bên dưới Ngày Sinh: NgàyThángNăm Tùy chọn: Tôi đồng ý với những quy định của diễn đàn - Diễn Đàn Kiến Thức   + Trả Lời Ðề Tài + Gởi Ðề Tài Mới kết quả từ 1 tới 1 trên 1
  3. Ðề tài: Tiểu luận: Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại • Ðiều Chỉnh Tạo trang in o Email trang này… o Theo dõi đề tài này… o • Display Chế độ bình thường o Chuyển sang chế độ Pha trộn o Chuyển sang chế độ dạng cây o 1. 11-09-2010 02:09 PM #1 Vũ Thị Hòa Xem Hồ Sơ o View Forum Posts o Nhắn Tin Riêng o View Blog Entries o Thành viên Join Date Nov 2010 Bài gởi 9 Thanks 0 Thanked 9 Times in 7 Posts Tiểu luận: Thành tựu của Văn Hóa Trung Hoa thời kỳ Trung đại THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA TRUNG HOA THỜI KỲ TRUNG Đ ẠI MỞ ĐẦU
  4. Trong thế giới cổ đại phương Đông xuất hiện bốn nền văn hóa lớn gồm Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Hoa. Sự xuất hiện của bốn trung tâm văn hóa lớn và những thành tựu văn hóa và các quốc gia cổ đại này đạt được đã đánh dấu một bước tiến dài của xã hội loài người trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại. Một trong bốn trung tâm văn hóa lớn đó là Trung Hoa. Mặc dù văn minh Trung Hoa được xem là nền văn minh xuất hiện sớm trên thế giới nhưng so với các trung tâm văn minh khác ở phương Đông thì xuất hiện muộn hơn (khoảng cuối thiên niên kỉ thứ III TCN). Tuy vậy, không trầm mặc, cổ kính như Ấn Độ, huyền bí như Ai Cập mà văn hóa của Trung Hoa thời cổ - trung đại này mang những sắc thái riêng và đậm màu sắc Trung Hoa (cổ - trung đại). Một nền văn hóa phát triển rực rỡ và những thành tựu văn hóa mà Trung Hoa đem lại không những có giá trị to lớn ở thời kì cổ trung đại mà còn có giá trị ở cả thời kì sau này. Điều này được thể hiện rõ khi nghiên cứu và làm rõ những giá trị của những thành tựu văn hóa cũng như sức ảnh hưởng của nó đến văn hoá của các quốc gia khá NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa và những thành tựu văn hóa Trung Hoa thời cổ - trung đại 1.1. Khái quát về cơ sở hình thành nền văn minh Trung Hoa 1.1.1 Điều kiện tự nhiên Lãnh thổ Trung Hoa thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Hoa đa dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.Trung Hoa có rất nhiều sông trong đó có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và Trường Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây- đông. Những con sông này chảy qua đồng bằng làm cho đất đai phì nhiêu, tạo cơ sở cho kinh tế nông nghiệp sớm phát triển. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa. Lịch sử cổ đại Trung Hoa kéo dài gần 2000 năm (từ khoảng thế kỉ XXI TCN đến năm 221 TCN). Trong quá trình đó, địa bàn của Trung Hoa từ lưu vực Hoàng Hà đã dần dần được mở rộng. Tuy vậy, cho đến thế kỉ III TCN, phía bắc cả biên giới Trung Hoa chưa vượt qua dãy Vạn lí Trường Thành ngày nay, phía tây mới đến tỉnh đông nam của tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn Trường Giang.
  5. 1.1.2. Lịch sử Con người đã sinh sống ở đất Trung Hoa cách đây hàng triệu năm. Dấu tích người vượn ở hang Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh) có niên đại cách đây hơn 500.000 năm. Cách ngày nay khoảng hơn 5000 năm, xã hội nguyên thuỷ ở Trung Hoa bước vào giai đoạn tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời. Giai đoạn đầu, lịch sử Trung Hoa chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải bằng truyền thuyết. Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Hoa là ở thời kì Tam Hoàng ( Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông ) và Ngũ Đế ( Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế ). Theo các nhà nghiên cứu, thực ra đây là giai đoạn cuối cùng của thời kì công xã nguyên thuỷ. 1.1.3. Dân tộc Trung Hoa có nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gốc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.(Dân núi Hoa sông Hạ).có 100 dân tộc ở Trung Hoa ngày nay, có 5 dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Dưới thời quân chủ, ở Trung Hoa tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời người Trung Hoa cổ đại cho rằng nước họ là một quốc gia văn minh ở giữa xung quanh là các tộc người lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch. Vì vậy, đất nước của họ còn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Hoa. Điều đó chứng tỏ tinh thần tự hào dân tộc sớm hình thành từ thời cổ đại. 1.2. Những thành tựu chủ yếu của Trung Hoa thời cổ trung đại Trung Hoa là một trong những nơi xuất hiện nền văn minh sớm thời cổ - trung đại. Văn minh Trung Hoa thời cổ - trung đại có ảnh hưởng rất lớn tới các nước phương đông. 1.2.1. Về chữ viết: Chữ viết ở Trung Hoa cũng phát triển qua các thời kì : Theo truyền thuyết, từ thời hoàng đế, sử quan Thương Hiệt đã sang tạo ra chữ viết. Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Hoa mới ra đời. Loại chữ viết đầu tiên này khắc trên mai Rùa và xương thú, được phát hiện lần đầu tiên năm 1899 và được gọi là chữ giáp cốt.
  6. Sở dĩ chữ đời Thương được khắc trên mai Rùa và xương thú (chủ yếu là xương quạt của bò) vì đó là những quẻ bói. Người Trung Hoa lúc bấy giờ mỗi khi muốn bói việc gì thì khắc nhưng điều muốn bói lên vai giờ hoặc xương thú, đục lỗ lở giữa rồi nung, sau đó theo những đường rạn nứt để đoán ý của trời đất qủy thần. Phương pháp cấu tạo chữ giáp cốt chủ yếu là phương pháp tượng hình. Ví dụ: Chữ “nhật” (mặt trời) thì vẽ một vòng tròn nhỏ, ở giữa có một chấm. Chữ “ sơn” (núi) vẽ ba đỉnh núi. Chữ “ thủy” ( nước) thì vẽ ba lần sóng. Dần dần do yêu cầu ghi chép các động tác và các khái niệm trừu tượng trên cơ sở phương pháp tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và âm thanh. Cho đến nay đã phát hiện được hơn 100.000 mảnh mai Rùa Và xương thú có khắc chữ giáp cốt. Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện được có khoảng 4500 chữ, trong đó đã đọc được 1700 chữ. Chữ giáp cốt đã ghép được những đoạn văn tương đối dài, có đoạn dài trên 100 chữ. Đến thời Tây Chu số lượng chữ càng nhiều và cách viết càng đơn giản. Chữ viết tiêu biểu thời kì này là kim văn cũng gọi là chung đỉnh văn (chữ viết trên chuông đỉnh). Ngoài đồ đồng chữ viết thời Tây Chu còn được viết trên trống đá thẻ tre. Các loại chữ viết đầu tiên này được gọi chung là đại Triện cũng gọi là cổ văn thời Xuân thu - Chiên quốc do đất nước không thống nhất nên chữ viết cũng không thống nhất. Đến thời Tần, Lí Tư đã dựa vào chữ nước Tần kết hợp với chữ của nước khác, cải tiến cách viết tạo thành một loại chữ thống nhất gọi là chữ tiểu Triện. Cuối thời Tần Thủy Hoàng (221- 206 TCN) đến thời Hán Tuyên Đế (73- 49 TCN) xuất hiện một kiểu chữ mới gọi là chữ lệ. Chữ lệ khác với chữ triện (còn giữ lại nhiều yếu tố tượng hình, do đó có nhiều nét cong, nét tròn ) còn chữ lệ thì biến những nét đó thành : ngang, bằng, sổ, thẳng, vuông khúc ngay ngắn. Thời gian sử dụng chữ lệ không lâu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ Chân tức là chữ Hán ngày nay. 1.2.2. Về văn học Văn học Trung Hoa là một nền văn học rất phong phú và đa dạng, phát triển linh hoạt qua mỗi thời kì lịch sử mỗi vương triều.
  7. * Thời cổ đại Trước khi thống nhất các vương triều, văn học thời kì này quen gọi là TiềnTần, trong nền văn học Trung Hoa đã xuất hiện nhiều tác phẩm kiệt xuất, trong đó nổi tiếng nhất là bộ Kinh Thi và sở Từ - Kinh thi là bộ tổng tập thơ ca đầu tiên của Trung Hoa, tập thơ cổ nhất của văn học Trung Hoa được viết dưới thời Chu. Kinh thi gồm những bài thơ, ca dao, dân ca, của nhân dân lao động và tầng lớp quý tộc (305 bài) ngoài ra có 6 bài gọi là Sinh thi (bài hát co tiếng sinh đệm theo) có đề mục mà không có lời. - Sở Từ là tác phẩm của nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (340-278), người nước sở, vào thời Chiến quốc. Sở từ là một thể thơ mới sau Kinh thi. Thời bấy giờ, ở vùng Giang hán lưu hành một loại dân ca câu dài, câu ngắn với hình thức tương đối tự do, hay dùng chữ “Hề”. Khuất Nguyên đã dung hình tức ấy để sang tác Li Tao, đó là Sở từ hay cũng gọi là “Tao thể”. Sở từ gồm Li Tao, Cửu Chương, Cửu Ca, Thiên Vấn và Chiêu Hồn, trong đó giá trị nhất và hay được nhắc đến là Li Tao. Với di sản văn học để lại cho hậu thế Khuất Nguyên được khẳng định là nhà thơ vĩ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Những bài thơ tràn đầy tình cảm nồng nhiệt của ông Tao thể” mà ông sang tạo đã làm cho sức biểu hiện thơ ca cực kì phong phú. Thủ pháp lãng mạn mà ông vận dụng trong Li Tao đã ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển Trung Hoa. Li tao đã trở thành biểu tượng của thơ ca Trung Hoa. * Thời kì trung đại: Văn học Trung Hoa phát triển đến đỉnh cao là ở thời kì này, với các thể loại nổi bật: Phú (Hán), thơ (Đường), Từ (Tống), Kịch (Nguyên), Tiểu thuyết (Minh- Thanh). Thơ Đường: chiếm vị trí nổi bật trong các thành tựu văn hóa Đường, là đỉnh cao của văn hóa Trung Hoa và nhân loại thời bấy giờ (VII-IX),với 50000 bài thơ của 2300 thi sĩ thể hiện bằng những quy phạm chặt chẽ. Trong hằng hà sa số các nhà thơ đó, nổi tiếng nhất là 3 nhà thơ lớn: Lý Bạch, Đỗ Phủ, và Bạch Cư Dị + Những kiệt tác của thơ đường tiêu biểu: “Trường hận ca” và “Tỳ Bà Hành”. - Tiểu thuyết: đặc biệt phát triển vào thế kỉ XIV-XVIII. Thời kì này thuộc hai triều đại Minh (1368-1644) và Thanh (1644-1911) bởi vậy còn gọi là tiểu thuyết Minh Thanh, hay tiểu thuyết chương hồi, vì thể loại của nó là chương hồi, mỗi hồi ứng với một buổi kể, nhiều hồi thành một chương, ứng với một câu chuyện. Từ đời Tống (thế kỉ 12, 13) đã xuất hiện các chuyện kể. Thời này
  8. kinh tế thương nghiệp phát triển, nhiều đô thị lớn hình thành. Trong các hội hè thường xuất hiện các nghệ nhân kể chuyện. Họ kể đủ thứ chuyện nhưng nhiều hơn cả là chuyện lịch sử xa xưa, chuyện các hảo hán anh hùng đã đi vào truyền thuyết, chuyện các nhà sư đến Ân Độ Mang kinh Phật về dịch và truyền bá, chuyện tình duyên của các tài tử giai nhân…Các nhà văn thời Minh và Thanh đã sưu tầm các chuyện kể ấy gia công thêm bất trâu văn chương, hình thành hàng rong hơn loạt bộ tiểu thuyết có giá trị. Trong hơn 300 bộ tiểu thuyết thời bấy giờ, có các tác phẩm lớn và nổi tiếng: + Thủy Hử (Thi Nại Am): truyện kể về một số nhân vật anh hùng cuối thời Bắc Tống, vạch trần tội ác của xã hội phong kiến; Biểu hiện lòng bất mãn và ý chí phản kháng của quần chúng nhân dân lao động. + Tam quốc chí diễn nghĩa (La Quán Trung): Tác phẩm được sáng tác trên cơ sở tiếp thu thành quả kể chuyện dân gian và nghệ nhân kể chuyện, cùng những căn cứ sự thật lịch sử. Tất nhiên, tác phẩm cũng không thiếu chỗ hư cấu, song hư cấu nhưng về cơ bản là hợp tình, hợp lí, và đậm đà tính nghệ thuật chân thực. Cho nên, có ý kiến cho rằng, trong Tam quốc chí diễn nghĩa “bảy phần sự thực, ba phần hư cấu”. Tác phẩm kể lại lịch sử gần một thế kỷ- từ năm 184- 280 SCN, chủ yếu khắc họa cuộc đấu tranh giữa ba tập đoàn chính trị: Ngụy, Thục, Ngô. + Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân): tác phẩm được sáng tác trên cơ sở câu truyện dân gian, với trí tưởng tượng phong phú, lạ lùng. Nội dung Tây Du Ký kể chuyện về Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung và thầy trò Đường Tăng, trải qua nghìn vạn khó khăn , hiểm trở đến Tây Thiên lấy kinh. + Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần). 1.2.3. Sử học Đến thời Tây Hán sử học mới trở thành một lĩnh vực độc lập mà người đặt nền móng là Tư Mã Thiên. Với tác phẩm Sử kí, bộ thông sử đầu tiên của Trung Hoa, Tư Mã Thiên đã ghi chép lịch sử 3000 năm từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế, trong đó chia làm năm phần là bản kỉ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện. Tuy rằng quan điểm lịch sử của Tư Mã Thiên chủ yếu là quan điểm của giai cấp phong kiến, nhưng qua sử kí, Tư Mã Thiên đã bộc lộ nhiều tình cảm với nhân dân, ca ngợi sự tích anh hung và mỉa mai châm biếm những việc làm bạo ngược của bọn vua chúa. Sau sử kí, trong giai đoạn từ Hán đến Nam- Bắc triều có hán thư của Ban Cố,
  9. Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Việp … Bắt đầu từ thời đường trên lĩnh vực sử học có hai vấn đề mới, đó là việc thành lập cơ quan biên soạn lịch sử của nhà nước- gọi là “ sử quán” và việc ra đời những tác phẩm lớn với những thể tài mới. Chính Quốc sử quán thời Đường đã soạn được cấc bộ sử Tấn thư, Luơng thư, Trần thư, Bắc Tề thư, Chu thư,… Từ đó về sau, các bộ sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn. Tông sử, Nguyên sử, Minh sử… Bên cạnh những bộ sử, các triều đại còn có một số tác phẩm lớn viết theo các thể tài khác như Sử thông của Lưu Tri Cô, Thông điển của Đỗ Hữu thời Đuờng, Tư trị thông giám của Tư Mã Quang đời Tống. Thời Minh- Thanh, cơ quan chép sử của nhà nước cũng biên soạn được nhiều tác phẩm như: Minh thực lục, Minh sử, Đại Minh nhất thống chí, Thanh thực lục, Đại Thanh nhất thống chí,… Ngoài ra, những tác phẩm sử học do các sử gia khác viết theo các thể biên niên, kỉ sự bản mạt, tạp sự, bút kí…cũng rất nhiều. Những bộ sách trên là những di sản văn hoá vô cùng quý báu của Trung Hoa và có giá trị lịch sử rất lớn. 1.2.4. Về Tư tưởng - Triết học 1.2.4.1. Một số học thuyết tiêu biểu của Triết học Trung Hoa cổ- trung đại a. Thuyết Âm - Dương : Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài). Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra "thuyết âm dương".
  10. Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật. Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương. Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm. Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương. + Ví dụ : về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối. Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh. Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm. + Tư tưởng triết học về Âm - Dương : Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm và Dương. + Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi. + Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực. + Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý : Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”. Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu
  11. Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn -Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận). Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc. b. Thuyết Ngũ hành : Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn. Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên. Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên. Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng. Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay. Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được. Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật. - Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ. Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.
  12. - Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái. Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó. Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển. - Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau. Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau. Quy luật chế hoá ngũ hành là: Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc. Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả. Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc khắc thổ. Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim. Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ. Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc. Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng trong thiên nhiên. Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn hành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc
  13. mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị. c. Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau. Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời. Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả. Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần Dương. Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân Âm. Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm gọi là Dương Nghi và Âm Nghi. + Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm. Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong Âm có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh. Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước, Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau : Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy. Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
  14. Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy. Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn. Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn. Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy. 1.2.4.2. Một số trường phái tư tưởng tiêu biểu a. Nho gia Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận. Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau: Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia. Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên. Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân. Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
  15. Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn. Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia. Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống. Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay. Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng...cùng với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”...
  16. Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người. Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc. Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên ); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử, muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính thì lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công; sự việc không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu. Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị. Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác đều chầu đến. *Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp
  17. thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu hướng cơ bản: Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh. Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279). b. Đạo gia Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh. Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội. Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau: - "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội nguồn của Đạo. - "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại. "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo pháp tự
  18. nhiên". Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó. Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau: Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân bằng và quay trở lại cái ban đầu). - Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia. Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển. Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo". c. Mặc gia Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN) sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho - Đạo - Mặc). Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan niệm khác với quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo dòng Khổng - Mạnh. Học thuyết "Tam biểu" của Mặc gia mang tính cách là một học thuyết về nhận thức, có xu hướng duy vật và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là bằng chứng xác thực của nhận thức. Thuyết "Kiêm ái" là một chủ thuyết chính trị - xã hội mang đậm tư tưởng tiểu nông. Mặc Địch phản đối quan điểm của Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc, thân sơ...trong học thuyết "Nhân". Ông chủ trương mọi người yêu thương nhau, không phân biệt thân sơ, đẳng cấp... Phái Hậu Mặc đã phát triển tư tưởng của Mặc gia sơ kỳ chủ yếu trên phương diện nhận thức luận.
  19. d. Pháp gia Là một trường phái triết học lớn của Trung Hoa cổ đại, chủ trương dùng những luật lệ, hình pháp của nhà nước là tiêu chuẩn để điều chỉnh hành vi đạo đức của con người và củng cố chế độ chuyên chế thời Chiến quốc. Là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc mới, đấu tranh kiên quyết chống lại tàn dư của chế độ công xã gia trưởng truyền thống và tư tưởng bảo thủ, mê tín tôn giáo đương thời. Đại diện của phái Pháp gia là Hàn Phi Tử (280 - 233 tr. CN). Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau: + Về tự nhiên: Ông giải thích sự phát sinh, phát triển của vạn vật theo tính quy luật khách quan mà ông gọi là Đạo. Đạo là quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn tồn tại và không thay đổi. Còn mỗi sự vật đều có "Lý" của nó. "Lý" là sự biểu hiện khác nhau của Đạo trong mỗi sự vật cụ thể và là cái luôn luôn biến hóa và phát triển. Từ đó, ông yêu cầu mọi hành động của con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan, mà còn phải thay đổi theo sự biến hóa của "Lý", chống thái độ cố chấp và bảo thủ. + Về lịch sử: Ông thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Ông đã phân chia sự tiến triển của xã hội làm 3 giai đoạn chính, mỗi giai đoạn đó xã hội có những đặc điểm và tập quán riêng ứng với trình độ nhất định của sản xuất và văn minh. Đó là: - Thời Thượng cổ: Con người biết lấy cây làm nhà và phát minh ra lửa để nấu chín thức ăn. - Thời Trung cổ: Con người đã biết trị thủy, khắc phục thiên tai. - Thời Cận cổ: Bắt đầu xuất hiện giai cấp và xảy ra các cuộc chinh phạt lẫn nhau. Động lực căn bản của sự thay đổi xã hội được ông quy về sự thay đổi của dân số và của cải xã hội. + Về thuyết "Tính người": Ông theo quan niệm của Tuân Tử coi tính người là ác, đưa ra học thuyết luân lý cá nhân vị lợi, luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi...Kẻ thống trị phải nương theo tâm lý vị lợi của con người để đặt ra pháp luật, trọng thưởng, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội. + Tư tưởng về pháp trị.
  20. Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản ấy, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết Pháp trị, nhấn mạnh sự cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cũng phản đối thuyết nhân trị, đức trị của Nho giáo, phép "vô vi trị" của Đạo gia. Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố tổng hợp là pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. - "Pháp" là một phạm trù của triết học Trung Hoa cổ đại. Theo nghĩa hẹp, là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ; theo nghĩa rộng, pháp được coi là một thể chế, chế độ chính trị và xã hội. Vì vậy, pháp được coi là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan để định rõ danh phận, giúp cho mọi người thấy rõ được bổn phận, trách nhiệm của mình. - "Thế" là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. - "Thuật" cũng là chính danh, là phương sách trong thuật lãnh đạo của nhà vua nhằm lấy danh mà tránh thực 1.2.5. Về khoa học tự nhiên Cách ngày nay trên 4000 năm, khoa học tự nhiên của Trung Hoa đã có những thành tựu rực rỡ: * Thời cổ đại: Thiên văn học: Ra đời từ rất sớm và đạt được nhiều tiến bộ ở thời Xuân thu - Chiến quốc (770 – 221 TCN). Đó là sự ghi chép lại các lần nhật thực (37 lần trong vòng 242 năm ( nay đã chứng minh được 33 lần hoàn toàn chính xác)), các vì tinh tú ( 800 vì tinh tú, trong đó có 120 vì tinh tú được xác định). Bảng ghi chép các hành tinh của người Trung Hoa - “Cam Thạch Tinh” có từ thời Xuân Thu, được coi là bảng ghi chép các vì sao xưa nhất thế giới. Thế kỉ VII TCN, người Trung Hoa đã biết dung một cái “cọc” đứng để đo bóng mặt trời (gọi là Thổ khuê), qua đó đã xác định được ngày hạ chí và đông chí, làm cho cách tính lịch ngày càng chính xác. Lịch: Yêu cầu của hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm cho người Trung Hoa biết làm lịch từ rất sớm. Đến đời Thương, họ đã phát minh ra lịch- âm lịch( lịch kết hợp với vòng quay của mặt trăng xung quanh quả đất với vòng quay của quả đất xung quanh mặt trời. Để tính năm, tháng, tháng thiếu, tháng đủ, họ lấy tuần trăng tròn và trăng khuyết để tính. Theo đó một năm được chia làm 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có
nguon tai.lieu . vn