Xem mẫu

  1. Tiểu luận luật quốc tế K10504 Tiểu luận Quan điểm về chủ thể của luật quốc tế 1
  2. Tiểu luận luật quốc tế K10504 LỜI MỞ ĐẦU Từ khi bắt đầu hình thành nhà nước, pháp luật là một công cụ không thể thiếu của nhà nước, hỗ trợ nhà nước đó trong các quan hệ xã hội, đảm bảo cho nhà nước đó có một trật tự nhất định, phù hợp với lợi ích của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội đó. Pháp luật của một nhà nước chỉ điều chỉnh, cưỡng chế các quan hệ xã hội gói gọn trong phạm vi lãnh thổ một nhà nước. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội càng ngày càng phát triển, thương nghiệp phát triển dẫn đến các quan hệ trong xã hội mở rộng hơn, đi xa hơn phạm vi 1 nhà nước nhỏ bé. Lúc này bắt đầu hình thành các quan hệ xã hội giữa nhà nước này với nhà nước kia, người dân của nước này với nước kia, giữa nhiều nhà nước với nhau. Theo năm tháng các quan hệ xã hội đó bắt đầu phát triển và càng ngày càng phức tạp. Nếu các quan hệ xã hội trong một nước có pháp luật riêng của nước đó điều chỉnh, thì các quan hệ xã hội giữa các nước, người dân các nước với nhau lại không thể dùng luật một nước điều chỉnh. Điều này không phù hợp vì quan hệ xã hội quyết định nhà nước và pháp luật. Cho nên việc xây dựng những thỏa thuận quốc tế là cần thiết. Và ngày nay người ta gọi những thỏa thuận quốc tế là luật quốc tế. Trải qua nhiều thời kì phát triển (thời kì cổ đại, thời khì trung đại, thời kì cận đại và thời kì hiện đại), luật quốc tế dần dần được hoàn thiện. Tuy nhiên, từ sau thế kỉ XXI, với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, các nền văn minh trên thế giới tiến lại gần nhau hơn, các nước trên thế giới đang trong tiến trình toàn cầu hóa. Vấn đề toàn cầu hóa cũng sẽ không nằm ngoài quy luật “có ưu thì sẽ có khuyết”. Ưu điểm là nó kết nối các nước lại với nhau gần hơn, quan hệ hợp tác song phương, đa phương ngày càng mở rộng hơn. Nhưng khuyết điểm của nó chính là đời sống quốc tế đổi thay nhanh chóng, những quan hệ quốc tế mới hình thành không có một cơ chế nào điều chỉnh, hay các quy phạm luật quốc tế không còn phù hợp để giải quyết các vấn đề đó trong xu thế hiện tại. Một trong những vấn đề đó là chủ thể của luật quốc tế. Có quan điểm cho rằng chủ thể của luật quốc tế cố hữu chỉ có quốc gia, các tổ chức liên chính phủ và các dân tộc giành độc lập. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng cần mở rộng về chủ thể của luật quốc tế, cho phép cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ là chủ thể của luật quốc tế. Mỗi người đều có cho riêng mình những lý lẽ bảo vệ quan điểm của họ. Bản thân chúng tôi khi tìm hiểu vấn đề này cũng đúc kết được cho mình một số đánh giá chủ quan. Sau đây chúng tôi xin trình bày phần đánh giá của mình về quan điểm có nên công nhận cá nhân, công ty xuyên quốc gia và tổ chức phi chính phủ là chủ thể của luật quốc tế hay không? 2
  3. Tiểu luận luật quốc tế K10504 MỤC LỤC. LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1 MỤC LỤC. ................................................................................................................................ 3 PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT QUỐC TẾ. ................................................................ 4 1. ĐỊNH NGHĨA CỦA LUẬT QUỐC TẾ. ........................................................................ 4 1.1 Định nghĩa luật quốc tế. ............................................................................................. 4 1.2 Đặc điểm của luật quốc tế .......................................................................................... 4 1.3 Vai trò của luật quốc tế. ............................................................................................. 4 2. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ. ................................................ 4 2.1 Luật quốc tế không có cơ quan lập pháp chung .......................................................... 4 2.2 Chủ thể của luật quốc tế............................................................................................. 5 2.3 Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế ........................................................................ 5 2.4 Phương thức thực thi và tuân thủ luật quốc tế ............................................................ 5 3. NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ .................................................................................. 6 PHẦN 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ ................................. 7 1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ. ......................................................... 7 1.1 Khái niệm ..................................................................................................................... 7 1.2 Phân loại chủ thể ........................................................................................................... 7 1.3 Quyền năng chủ thể....................................................................................................... 7 2. CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG. ............. 8 2.1 Các quốc gia độc lập có chủ quyền ............................................................................ 8 2.2 Các tổ chức liên chính phủ ......................................................................................... 9 2.3 Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác ................................................................................................................. 10 PHẦN 3: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ THEO QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI VÀ ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM. .............................................................................................................................. 14 1. CÁ NHÂN .................................................................................................................. 14 1.1 Cá nhân trong quan hệ pháp luật quốc tế.................................................................. 14 1.2 Vai trò ..................................................................................................................... 15 2. PHÁP NHÂN .............................................................................................................. 19 2.1 Khái niệm ................................................................................................................ 19 2.2 Đặc điểm ................................................................................................................. 19 2.3 Vai trò quốc tế của các công ty xuyên quốc gia ........................................................ 21 3. TỔ CHỨC QUỐC TẾ PHI CHÍNH PHỦ .................................................................... 24 3.1 Khái niệm và đặc điểm ............................................................................................ 24 3.2 Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của tổ chức phi chính phủ ....................................... 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 29 3
  4. Tiểu luận luật quốc tế K10504 PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT QUỐC TẾ. 1. ĐỊNH NGHĨA CỦA LUẬT QUỐC TẾ. 1.1 Định nghĩa luật quốc tế. Theo giáo trình luật quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2006 thì luật quốc tế lại được định nghĩa khác một chút: “luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế”1. 1.2 Đặc điểm của luật quốc tế – Luật quốc tế bao gồm những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. – Các nguyên tắc, quy phạm pháp luật này do các chủ thể của luật quốc tế xây dựng thông qua đấu tranh và thương lượng bằng việc kí kết, tham gia điều ước quốc tế hoặc thừa nhận những tập quán pháp luật quốc tế liên quan. – Luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau. 1.3 Vai trò của luật quốc tế. Luật quốc tế có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật quốc tế. Bởi lẽ, các quan hệ pháp luật quốc tế rất phức tạp, không một luật quốc gia nào có thể điều chỉnh được trọn vẹn các quan hệ pháp luật đó. Mỗi nước, mỗi quốc gia có hình thức nhà nước khác nhau, hệ thống pháp luật khác nhau. Vậy nên luật quốc tế đóng vai trò không thể thiếu trong việc điều chỉnh những quan hệ quốc tế phát sinh. Có thể kể đến một vài vai trò của luật quốc tế dễ xác định. – Là công cụ điều chỉnh các quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của mỗi chủ thể của luật quốc tế trong quan hệ quốc tế. – Là công cụ, là nhân tố quan trọng nhất để bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế. – Có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển văn minh của nhân loại, thúc đẩy cộng đồng quốc tế phát triển theo hướng ngày càng văn minh. – Thúc đẩy việc phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay. 2. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ. 2.1 Luật quốc tế không có cơ quan lập pháp chung Trong khi mỗi quốc gia đều có một cơ quan quyền lực của nhà nước, đại diện cho cộng đồng thiết lập các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, thì luật quốc tế là hệ thống các quy tắc xử sự do tất cả các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng hoặc thừa nhận trên cơ 1 Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật quốc tế 2006, tr.8. 4
  5. Tiểu luận luật quốc tế K10504 sở tự nguyện, bình đẳng. Điều đó có nghĩa là không hề tồn tại cơ quan nào có tên gọi cơ quan lập pháp trong hệ thống pháp luật quốc tế. Đây là điểm khác biệt đặc trưng của luật quốc tế so với luật quốc gia. Tất cả các quy phạm luật quốc tế được các chủ thể luật quốc tế tự nguyện, thiện chí chấp nhận và thực hiện thông qua kí kết các điều ước quốc tế song phương hay đa phương; thừa nhận các tập quán quốc tế để điều chỉnh các quan hệ quốc tế. 2.2 Chủ thể của luật quốc tế. Phù hợp với tính chất của hệ thống các nguyên tắc, quy phạm luật quốc tế, về lí luận cũng như về pháp lý, quốc gia và những thực thể quốc tế khác (các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập) là chủ thể của luật quốc tế. – Quốc gia được xem là chủ thể cơ bản, chủ yếu của luật quốc tế vì hầu hết các quan hệ pháp luật quốc tế thường do quốc gia tự xác lập hoặc thông qua khuôn khổ các tổ chức quốc tế do các quốc gia thành lập nên. – Các tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể hạn chế của luật quốc tế vì các tổ chức này chỉ tham gia quan hệ pháp luật quốc tế trên một vài lĩnh vực nhất định mà các quốc gia lập nên muốn thực hiện. – Các dân tộc giành độc lập và các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt như Vatican, Hồng Kông, Ma Cao… là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, các chủ thể luật quốc tế bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế tương ứng. Cho dù đó là chủ thể cơ bản, hạn chế hay đặc biệt thì vị thế của các chủ thể này trong quan hệ pháp luật quốc tế là ngang nhau. Trong thực tế thì cá nhân, pháp nhân kinh tế, xã hội cũng tham gia một số quan hệ quốc tế trong một số lĩnh vực. 2.3 Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế là những quan hệ phát sinh, tồn tại và phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Các quan hệ này được thiết lập và thực hiện bởi các chủ thể của luật quốc tế. Đó là các quan hệ chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường, nhân đạo… Trong đó, quan hệ chính trị là quan hệ cơ bản và quan trọng nhất chi phối các mối quan hệ khác. 2.4 Phương thức thực thi và tuân thủ luật quốc tế Hệ thống pháp luật quốc tế không có cơ quan hành pháp, tư pháp chung đứng trên các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế để tổ chức, thực hiện hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi luật quốc tế. Các chủ thể luật quốc tế sử dụng biện pháp “tự cưỡng chế phi vũ trang” hay sử dụng dư luận tiến bộ thế giới trong các quan hệ khác buộc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật quốc tế tuân thủ, thực thi pháp luật quốc tế một cách tự nguyện, chủ động hơn. 5
  6. Tiểu luận luật quốc tế K10504 3. NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ “Nguồn của luật quốc tế là hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp lý quốc tế, là kết quả của quá trình thỏa thuận ý chí của các chủ thể luật quốc tế”2. Nguồn của luật quốc tế bao gồm: – Điều ước quốc tế. – Tập quán quốc tế. – Các nguyên tắc pháp luật chung. – Phán quyết của tòa án công lý quốc tế Liên Hợp Quốc. – Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ. – Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia. – Các học thuyết về luật quốc tế. – Vấn đề pháp điển hóa luật quốc tế. 2 Luật quốc tế, lý luận và thực tiễn. NXBGD năm 2005 6
  7. Tiểu luận luật quốc tế K10504 PHẦN 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1. KHÁI NIỆM CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ. 1.1 Khái niệm Khác với các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật quốc gia, các chủ thể của luật quốc tế không xuất hiện tại cùng một thời điểm với nhau. Cùng với quá trình phát triển khách quan của xã hội thì sự tồn tại và phát triển của Luật Quốc tế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, do đó trong từng giai đoạn lịch sử mà phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế có sự thay đổi dẫn tới chủ thể của Luật Quốc tế cũng có sự khác nhau nhất định. – Giai đoạn chiếm hữu nô lệ, chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia chủ nô, các liên đoàn chính trị tôn giáo của các quốc gia thành thị. – Thời kỳ phong kiến, chủ thể Luật Quốc tế là các quốc gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. – Trong giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế… – Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế, do tính chất quyền năng chủ thể khác nhau nên vai trò của các chủ thể luật quốc tế cũng khác nhau. Về phương diện khoa học pháp lý, việc xác định một thực thể là chủ thể luật quốc tế thường dựa vào bốn dấu hiệu cơ bản: Có sự tham gia vào các quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh. Có ý chí độc lập (không phụ thuộc vào các chủ thể khác) trong sinh hoạt quốc tế; Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế; Độc lập chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra. Ta có thể định nghĩa tổng quát chủ thể của luật quốc tế: chủ thể của Luật Quốc tế là bộ phận cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế, là thực thể sẽ hoặc đang tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính nó thực hiện. 1.2 Phân loại chủ thể Căn cứ vào quyền năng của chủ thể, có thể phân chủ thể của luật quốc tế thành 3 loại. – Chủ thể cơ bản, chủ yếu của luật quốc tế: quốc gia – Chủ thể phái sinh của luật quốc tế: Các tổ chức quốc tế liên chính phủ – Chủ thể đặc biệt của luật quốc tế: các dân tộc giành độc lập và các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt như Vatican, Hồng Kông, Ma Cao… 1.3 Quyền năng chủ thể Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế là thuộc tính cơ bản, là khả năng pháp lý đặc biệt của những chủ thể được hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ 7
  8. Tiểu luận luật quốc tế K10504 pháp Luật Quốc tế. Quyền năng chủ thể bao gồm hai phương diện và chỉ khi có đầy đủ hai phương diện này thì mới được coi là chủ thể của Luật Quốc tế. Năng lực pháp luật quốc tế: là khả năng chủ thể của Luật Quốc tế được mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, khả năng này được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật Quốc tế. Năng lực hành vi quốc tế: là khả năng chủ thể được thừa nhận trong Luật Quốc tế bằng những hành vi pháp lý độc lập của mình tự tạo ra cho bản thân quyền năng chủ thể và có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do các hành vi của mình gây ra. 2. CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ THEO QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG. 2.1 Các quốc gia độc lập có chủ quyền 2.1.1 Khái niệm Quốc gia là chủ thể cơ bản và chủ yếu tham gia vào tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp quốc tế. Quốc gia là một thực thể được hình thành bởi các yếu tố tự nhiên và xã hội. Về phương diện pháp lý quốc tế, tại điều 1 Công ước Montevedeo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia do các quốc gia Trung và Nam Mỹ kí ngày 26-12-1933, đã xác định rõ các yếu tố cơ bản cấu thành quốc gia trong quan hệ quốc tế.Đó là : Thứ nhất là có lãnh lãnh thổ xác định. Đây là yếu tố cơ bản nhất để hình thành nên quốc gia. Lãnh thổ xác định được hiểu là quốc gia phải có đường biên giới để phân định lãnh thổ, biên giới với quốc gia khác. Nói cách khác, lãnh thổ là một phần bề mặt trái đất trong đó có một hệ thống các quy tắc pháp lý có thể áp dụng và thực hiện. Vì vậy, quốc gia không thể tồn tại nếu không có lãnh thổ và nếu mất hoàn toàn lãnh thổ quốc gia sẽ mất đi tư cách chủ thể của luật quốc tế Thứ hai là có dân cư ổn định. Dân cư quốc gia là một tập thể người sinh sống và tồn tại trên một khu vực lãnh thổ nhất định. Một quốc gia có dân cư ổn định có nghĩa là đại bộ phận dân cư sinh sống, cư trú ổn định lâu dài trên lãnh thổ quốc gia là công dân mang quốc tịch của quốc gia sở tại, đồng thời họ có đầy đủ các quyền va2 nghĩa vụ cơ bản của công dân quốc gia đó. Trong luật quốc tế, dân cư của một quốc giahie6u3 theo nghĩa rộng, bao gổm tất cả các cộng đồng dân cư cùng sinh sống, tồn tại và phát triển trên cùng một lãnh thổ quốc gia nhất định. Thứ ba là có chính phủ. Chính phủ là yếu tố không thể thiếu để một chủ thể có tư cách quốc gia. Chính phủ chính là “ người” đại diện hợp pháp cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là một chính phủ độc lập và có khả năng thực hiện quyền lực thật sự trên lãnh thổ quốc gia và dân cư cũng như quyển năng quyết định tất cả các công việc đối nội và đối ngoại của quốc gia. Cuối cùng là có chủ quyền. Có nghĩa là mọi hoạt động đối nội, đối ngoại của quốc gia đều do quốc gia toàn quyền quyết định m không phụ thuộc vào ý chí của quốc gia, các chủ thể khác của luật quốc tế. 8
  9. Tiểu luận luật quốc tế K10504 2.1.2 Quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia Quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ này tồn tại trên cơ sở chủ quyền quốc gia, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và quá trình tồn tại của quốc gia dồng thời cũng chấm dứt cùng với việc chấm dứt tồn tại của quốc gia. Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: Quyền quốc tế cơ bản: – Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi. – Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể. – Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập. – Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ. – Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế. – Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến. Nghĩa vụ quốc tế cơ bản: – Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia. – Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác. – Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực. – Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. – Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. – Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế. – Tôn trọng những quy phạm Jus Cogens và những cam kết quốc tế. – Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình. Luật quốc tế dành cho các quốc gia các quyền cơ bản nhưng quốc gia có quyền tự hạn chế thận chí từ bỏ quyền của mình. Tuy nhiên, quốc gia không được cho phép từ chối thực hiện các nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mình với tư cách là chủ thể cơ bản của luật quốc tế. 2.2 Các tổ chức liên chính phủ 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm Các tổ chức quốc tế lien chính phủ là chủ thể hạn chế, không có chủ quyền, chủ thể thứ sinh, phái sinh của luật quốc tế. Bởi vì, tất cả các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế liên chính phủ do chính các quốc gia thành viên thỏa thuận xây dựng nên sự thảnh lập, tồn tại và hoạt động cũng như chấm dứt của tổ chức quốc tế liên chính phủ sẽ do chính các quốc gia thành viên của tổ chức đó quyết định. Trên thế giới có trên 300 tổ chức quốc tế lien chính phủ, được thành lập và hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như: Tổ chức thương mại thế giới WTO, Liên minh Châu Âu EU, Hiệp hội các nước Đông Nam Á… Các tổ chức quốc tế lien chính phủ có các đặc điểm cơ bản sau: 9
  10. Tiểu luận luật quốc tế K10504 Một là, thành viên chủ yếu của các tổ chức lien chính phủ là các quốc gia độc lập, có chủ quyền Hai là, tổ chức lien chính phủ phải được thành lập và hoạt động trên cơ sở điều ước quốc tế. Ba là, các tổ chức quốc tế lien chính phủ có quyền năng riêng biệt với các quốc gia thành viên và các chủ thể khác của luật quốc tế. Bốn là, các tổ chức quốc tế liên chính phủ phải có cơ cấu tổ chức thống nhất, có trụ sở để thực hiện tôn chỉ, mục đích của tổ chức đã đặt ra trong điều ước quốc tế thành lập nên chúng. 1.2.2 Quyền năng chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế liên chính phủ Quyền năng chủ thể của mỗi tổ chức quốc tế sẽ do chức năng, lĩnh vực hoạt động của chúng chi phối và quyết định. Phạm vi quyền năng của mỗi tổ chức do chính các quốc gia thành viên thỏa thuận và được quy định trong các điểu ước quốc tế thành lập nên chúng. Các tổ chức liên chính phủ có quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: Quyền cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ: – Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế; – Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử đến; – Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao; – Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau; – Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc; – Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và giữa thành viên với tổ chức quốc tế. – Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác. Nghĩa vụ cơ bản của các tổ chứ liên chính phủ: – Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế – Tôn trọng các quyền của các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác và các chủ thể khác của luật quốc tế. – Thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ này góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của tổ chức quốc tế liên chính phủ 2.3 Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết và các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác 2.3.1 Các dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết là dân tộc mới có chủ quyền dân tộc chứ chưa có chủ quyền quốc gia. Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành 10
  11. Tiểu luận luật quốc tế K10504 lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Để trở thành chủ thể của luật quốc tế, các dân tộc này phải đáp ứng được các điều kiện sau: – Một là, dân tộc đó phải đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Nghĩa là trên thực tế dân tộc đó đang bị một dân tộc hay quốc gia khác đô hộ, chi phối, áp đặt mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của dân tộc mình. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn bị lệ thuộc vào dân tộc, quốc gia đang nắm quyền cai trị, bóc lột họ. Dân tộc bị bóc lột không có quyền và không thể thực hiện được ý chí của mình một cách độc lập với các dân tộc hay quốc gia đô hộ mình. Trên thực tế đang tồn tại một – Hai là, trên thực tế đang tồn tại một cuộc đấu tranh với mục đích giải phóng dân tộc, giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập – Ba là, đã thành lập được cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó trên trường quốc tế. Nghĩa là cuộc đấu tranh của dân tộc phải có tổ chức chặt chẽ, thống nhất thể hiện thông qua một cơ quan đại diện cho quyền lợi, ý chí của dân tộc đó trong các quan hệ quốc tế, độc lập với quốc gia, dân tộc đang đô hộ họ. cơ quan lãnh đạo phong trào sẽ vạch ra đường lối, chủ trương kháng chiến giải phóng dân tộc, thành lập một quốc gia độc lập trong tương lai. Khi tham gia vào quan hệ quốc tế, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập có các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau đây: Quyền cơ bản của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập: – Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình; – Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định như việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như những quốc gia độc lập khác. Được các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các tổ chức quốc tế...giúp đỡ; – Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại; – Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính phủ; – Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập trong quá trình thực thi luật quốc tế. Nghĩa vụ cơ bản của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập : – Tôn trọng nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế – Tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế 2.3.2 Các thực thể khác Ngoài các chủ thể đã nêu trên thì còn có một số chủ thể đặc biệt như Hong Kong, Ma Cao, Monaco… Đây là các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt. Các vùng lãnh thổ này là một bộ phận cấu thành của một quốc gia khác, trong lịch sử là một một phận quốc gia, gắn liền với quá trình xâm lược của một quốc gia khác. Các vùng lãnh thổ này có chế 11
  12. Tiểu luận luật quốc tế K10504 độ pháp lý đặc biệt mà khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế thì có tư cách chủ thể luật quốc tế, bình đẳng với các chủ thể khác của luật quốc tế và tham gia chủ yếu vào các quan hệ kinh tế, văn hóa, tôn giáo… Để có thể có cái nhìn cụ thể hơn, xin lấy Vantican làm một ví dụ điển hình cho chủ thể đặc biệt này. Vantican là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế, có tư cách chủ thể và được xác định là "quốc gia về hình thức". Vantican chính thức được thành lập trên cơ sở 3 điều ước quốc tế ký kết giữa Thủ tướng Bonito Mussolini và Hồng y Pierre Gasparri ngày 11/2/1929: – Hiệp ước Lateran công nhận "chủ quyền" của "quốc gia thành phố Vatican"; – Hiệp định xác định quan hệ giữa Chính phủ Italia với Giáo hội Thiên chúa, quy chế của Giáo hội trên lãnh thổ Italia ( Hiệp định này sửa đổi ngày 18/2/1984) – Hiệp định liên quan đến vấn đề tài chính. Nội dung các điều ước quốc tế trên được ghi nhận và khẳng định trong Hiến pháp của Italia năm 1947. Vatican nằm lọt trong thành phố Rome của Italia, diện tích lãnh thổ nhỏ nhất trên thế giới, dân cư Vantican chỉ khoảng 800 người, trong đó trên 450 người có quốc tịch Vantican. Tuy nhiên, quốc tịch Vantican không thực sự là mối liên hệ pháp lý hai chiều , bền vững giữa công dân với nhà nước, mà được xác định mang tính tạm thời, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cá nhân đó tại Vantican. Một cá nhân có quy chế công dân Vantican trong thời gian làm việc cho Vantican và chấm dứt khi thực hiện xong nhiệm vụ được giao. Bộ máy chính quyền Vatican được tổ chức khá đặc biệt. Giáo hoàng là người đứng đầu Vatican, nắm quyền lực tuyệt đối, được bầu trọn đời bởi Mật nghị Hồng y gồm các Hồng y dưới 80 tuổi. Các thành viên quan trọng của chính phủ đều do Giáo hoàng bổ nhiệm, bao gồm Ngoại trưởng, Chủ tịch Hội đồng giáo phận và Thủ hiến Vatican. Hiện tại, Vatican có 2 lực lượng giữ gìn an ninh: lực lượng cảnh sát của vùng và lính Thụy Sĩ. Lính Thụy Sĩ là quân đội chính thức của Vatican, chịu trách nhiệm bảo vệ Giáo hoàng, canh gác các lối ra vào Vatican,... Vatican không có lực lượng hải quan và không quân, việc phòng thủ bên ngoài do Italia chịu trách nhiệm. Vatican có quyền lực hoàn toàn và riêng biệt trong phạm vi lãnh thổ của mình. Italia có nghĩa vụ tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của Vatican. Trong quan hệ đối ngoại, Vatican tham gia ký kết và gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa phương, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới, tham gia hoạt động của các tổ chức quốc tế với tư cách quan sát viên ( Liên hợp quốc, Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ) và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác Từ những phân tích trên cho thấy Vantican chỉ là một thiết chế mang tính tôn giáo. Sở dĩ nó được cho là chủ thể của luật quốc tế vì trong giai đoạn lịch sử phát triển của luật quốc tế, Vantican đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất 12
  13. Tiểu luận luật quốc tế K10504 hòa trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia một số điều ước quốc tế nhất định. 13
  14. Tiểu luận luật quốc tế K10504 PHẦN 3: CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ THEO QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI VÀ ĐÁNH GIÁ QUAN ĐIỂM. Song song với quan điểm truyền thống và đã được pháp luật quốc tế ghi nhận về chủ thể của Luật quốc tế. Hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm mới, cho rằng: “ Cá nhân, pháp nhân (các công ty đa quốc gia, các công ty xuyên quốc gia) và các tổ chức phi chính phủ cũng được xem là chủ thể của Luật quốc tế” Trong phần này, bỏ qua quan điểm truyền thống đã được Luật quốc tế công nhận, chúng tôi sẽ chú trọng làm rõ và giải thích theo quan điểm mới hiện nay. 1. CÁ NHÂN 1.1 Cá nhân trong quan hệ pháp luật quốc tế Có thể nói từ sau thế kỷ XX, đặc biệt là sau thế chiến thứ Hai, Luật về Nhân quyền đã được đặt ra, như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (Điều 6), Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966 (Điều 2), Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ 1990 (Điều 8)... đồng nghĩa với việc quyền con người không còn chỉ là đối tượng điều chỉnh của hệ thống Pháp luật quốc gia nữa mà nằm trong sự điều chỉnh của toàn thế giới. Chính điều này đã làm dấy lên một câu hỏi : Cá nhân con người có phải là chủ thể Luật quốc tế hay không? Và một số học giả, Luật gia đã đưa ra quan điểm của mình để bảo về cho ý kiến “ Cá nhân cũng là chủ thể Luật quốc tế” : Theo L.Oppenhame “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ sở hữu các quyền và nghĩa vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế ” và để khẳng định quan điểm trên, ông cũng đưa ra ví dụ “Những cá nhân làm nghề cướp biển trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không phải nội luật của nhiều quốc gia khác nhau.” 3 Giáo sư người Nhật Sh.Oda cho rằng “Sau Đại chiến thế giới thứ nhất hình thành một quan điểm mới theo đó cá nhân là chủ thể các trách nhiệm về những vi phạm chống trật tự pháp luật thế giới và cá nhân phải bị truy tố và trừng phạt theo luật quốc tế” 4 Hiện nay, cá nhân chưa được chính thức công nhận là chủ thể của Luật quốc tế nhưng trên thực tế một số Điều ước Quốc tế có quy định một số quyền và trách nhiệm pháp lý quốc tế trong một số trường hợp nhất định. Các quyền quốc tế của cá nhân xuất phát từ những nguyên tắc và điều luật chung của luật quốc tế được công nhận và khẳng định trong các Điều ước đa phương và trong một loạt các điều ước song phương khác. 3 Oppenhame L.Luật quốc tế T.I.M. 1893. tr 259 4 Oda Sh.The Individual in International Law. London. 1978. Tr. 471 14
  15. Tiểu luận luật quốc tế K10504 Ta có thể dễ dàng bắt gặp những quy định về quyền và trách nhiệm pháp lý quốc tế của cá nhân trong các điều ước quốc tế có liên quan đến con người, cụ thể như: – Theo Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người. – Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc kẻ đó là lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân – Theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án quốc tế về biển… Cá nhân không tham gia ký kết các Điều ước quốc tế, không tham gia vào quá trình lập pháp quốc tế nhưng không thể lấy lý do đó để phủ nhận việc công nhận tư cách chủ thể của cá nhân trong Luật quốc tế. Bởi vì, khi tham gia vào Luật quốc tế cá nhân không bắt buộc phải có và cũng không thể có đầy đủ các quyền năng như của một quốc gia được, cá nhân chỉ có thể thực hiện một phần quyền và nghĩa vụ nhất định phù hợp với khả năng của một con người. Nhưng việc trao cho cá nhân các quyền và trách nhiệm pháp lý phải đảm bảo duy trì được trật tự xã hội bởi cá nhân còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp của quốc gia. 1.2 Vai trò Cá nhân là một chủ thể đặc biệt đang là sự bàn cải của các nhà làm luật trên thế về vai trò và chủ thể của cá nhân có được xem là chủ thể của luật quốc tế không ta xét trên 4 tiêu chí sau: 1.2.1 Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc soạn thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người, tội phạm chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao cấp thậm chí là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách nhiệm pháp lý hay được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành động theo lệnh của cấp trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm pháp lý5. 1.2.2 Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích Cá nhân có những quyền và nghĩa vụ quốc tế nhất định, có khả năng bảo đảm sự chấp hành các điều luật quốc tế (ví dụ như qua các cơ quan toà án quốc tế). Điều đó đủ để chứng tỏ ở cá nhân những đặc thù của một chủ thể quốc tế. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn vấn đề này khi đi sâu xem xét mối quan hệ giữa quyền con người và luật quốc tế 5 Tạp chị nghiên cứu lập pháp số 9 năm 2000 15
  16. Tiểu luận luật quốc tế K10504 1.2.3 Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực Theo Điều 4 của Công ước bổ sung về chế độ nô lệ 1956, nô lệ được phát hiện có mặt trên tàu của nước tham gia Công ước thì iso facto được tự do. Hay Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966 công nhận quyền mỗi cá nhân được: a) Tham gia vào đời sống văn hoá b) Sử dụng các thành tựu của tiến bộ khoa học và ứng dụng thực tiễn c) Bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần liên quan đến các công trình khoa học, các tác phẩm văn học- nghệ thuật mà họ là tác giả. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khẳng định: “Mỗi cá nhân con người dù ở đâu đều có quyền yêu cầu công nhận tính chủ thể pháp lý của mình” (Điều 6). Điều 23 Công ước của các nước SNG cũng có tuyên bố tương tự 1.2.4 Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế Hiện nay quyền con người được khẳng định trong nhiều công ước quốc tế khác nhau. Đó là: – Công ước Geneva về cải thiện điều kiện của thương binh, bệnh binh trong quân đội 1949 – Công ước Geneva về việc đối xử với tù binh 1949 – Công ước Geneva về việc bảo vệ dân lành trong thời chiến 1949 – Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 – Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 – Công ước về việc ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948 – Công ước bổ sung về xoá bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ, những tập tục giống với chế độ nô lệ 1956 – Công ước về quyền chính trị của phụ nữ 1952 – Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá 1966 – Công ước quốc tế về quyền dân sự và quyền chính trị 1966 – Công ước chống tra tấn và những biện pháp mang tính dã man vô nhân đạo 1984… Hầu hết các công ước quy định cá nhân có quyền tham gia quan hệ pháp luật quốc tế đều liên quan đến quyền con người. Xin được phân tích kĩ khía cạnh này để làm rõ quan điểm . Quy định của các Điều ước quốc tế về quyền con người Không thể có xã hội tự do nếu mỗi con người – thành viên của xã hội đó không tự do. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế khẳng định: “Mỗi cá nhân con người dù ở đâu đều có quyền yêu cầu công nhận tính chủ thể pháp lý của mình”. Các quyền cơ bản của con người trong luật quốc tế bao gồm : – Quyền dân sự chính trị; – Các quyền về kinh tế – xã hội – văn hóa. Các quyền này trên thực tế đã được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế như: Công ước về các quyền dân sự và chính trị (1966 16
  17. Tiểu luận luật quốc tế K10504 Danh mục 44 quyền con người cần được bảo vệ bằng luật quốc tế đã được ghi nhận cụ thể trong 3 văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người, cụ thể là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR), Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và công ước quốc tế về các quyền kinh tế – xã hội – văn hóa (ICẺC) do Liên hiệp quốc ban hành. Những văn bản này tạo nên Bộ luật tổng thể về nhân quyền mang lại giá trị CT-XH và lịch sử thời đại, đồng thời mở ra cho quá trình quốc tế hóa và nội luật hóa các quyền con người với những chuẩn mực mới trong Luật quốc tế và Luật quốc gia và ngược lại, các quốc gia cũng xem các quyền này là những quyền cơ bản của con người để trên cơ sở đó có các biện pháp pháp lý bảo vệ hữu hiệu. Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 của LHQ; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân việt đối với phụ nữ (1979); Công ước về quyền trẻ em (1989 Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã dành phần I với duy nhất 1 điều quy định về quyền dân tộc tự quyết với tư cách là quyền tập thể của con người. Có thể khẳng định đây là lần đầu tiên quyền quốc gia – dân tộc được ghi nhận với tư cách là quyền con người. Tiếp đó năm 1973, Đại hội đồng LHQ đã tiếp tục thông qua nghị quyết về cá nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống loài người. Như vậy, đây là nguyên tắc có tính đặc trưng thể hiện nghĩa vụ hợp tác quốc tế của các quốc gia thành viên của LHQ trong các lĩnh vực đã nêu, qua đó việc bảo vệ ANQG, AN toàn XH và bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời các cá nhân có hành vi vi phạm các tội ác xâm phạm đến quyền con người, đến giá trị văn minh của nhân loại. Quy chế Tòa hình sự quốc tế (ICC) có thẩm quyền xét xử các tội phạm diệt chủng, TP chống loài người, TP chiến tranh và TP xâm lược. ICC được thành lập ra với mục tiêu bắt cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các tội ác đã được liệt kê trong danh sách những tội phạm nghiêm trọng và mức độ lớn cho những giá trị chung của con người Các văn bản pháp lí quốc tế quan trọng luôn chú trọng vấn đề đảm bảo quyền con người trong quá trình hợp tác, đối thoại. Những điều luật này nói đến quyền của cá nhân, điều đó chứng tỏ chính cá nhân là chủ thể của những điều luật đó. Bên cạnh đó, các Công ước quốc tế về quyền con người đều đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo cho cá nhân những quyền hạn trên Vấn đề thực thi các Điều ước quốc tế về quyền con người Để đảm bảo tính thực thi cho các quyền con người thì luật quốc tế đã có những cơ chế bảo vệ và phát triển quyền con người bao gồm các thiết chế quốc tế và quốc gia cùng với hệ thống luật quốc tế (như các điều ước quốc tế về quyền con người) và luật quốc gia tương ứng. Nội dung cụ thể của công việc bảo vệ quyền thông qua các thiếu chế cơ bản của luật quốc tế đó là : Quy định các nguyên tắc, nhiệm vụ và các Điều ước quốc tế để các quốc gia tham gia kí kết và thực hiện nhằm bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người. 17
  18. Tiểu luận luật quốc tế K10504 Vị thế các điều ước quốc tế tại các quốc gia khác nhau chưa thực sự thống nhất. Nếu Hoa Kỳ xem Điều ước Quốc tế có vị thế bình đẳng với Hiến pháp thì Cộng Hòa Nam Phi lại tuyên bố rằng một đạo luật của Quốc hội có thể ghi đè lên bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào theo các thỏa thuận quốc tế được ký kết trước khi đạo luật đó có hiệu lực, và các quy tắc của luật pháp quốc tế ràng buộc nước Cộng hòa Nam Phi sẽ là một phần của pháp luật trong nước, trừ khi không phù hợp với Hiến pháp hay với một đạo luật của Quốc hội. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka chỉ quy định trong Hiến pháp rằng:”nhà nước sẽ nỗ lực để thúc đẩy sự tôn trọng luật pháp quốc tế và nghĩa vụ điều ước quốc tế trong các giao dịch giữa các quốc gia.” mà không hề có bất kì quy định nào nói lên mức độ và phạm vi áp dụng của Luật pháp quốc tế. Thậm chí, các tòa án Anh còn không xem các quy tắc của luật pháp quốc tế là một phần của luật pháp Anh. Ngay cả trong trường hợp có sự thay đổi rõ ràng trong các quy tắc luật pháp quốc tế trong một lĩnh vực cụ thể, tòa án cũng không được áp dụng những quy định mới, trừ khi những quy định này đã được chấp nhận trong một đạo luật của Quốc hội, quyết định của tòa án. Ngay cả trong trường hợp của một hiệp ước đã được thông qua vào Luật Anh bằng cách quy định rong một đạo luật, trong trường hợp có bất kỳ sự mơ hồ nào về ngôn ngữ, Hiệp ước đó không thể được sử dụng như là một trợ giúp để giải thích trừ khi hiệp ước đã được quy định rõ ràng. Phần lớn các quyền được nói đến trong các điều luật quốc tế về nhân quyền không được đảm bảo trực tiếp bởi Công pháp quốc tế mà thông qua các điều luật của nội luật. Phần lớn các điều luật quốc tế trong lĩnh vực quyền con người là những điều luật được tạm gọi là bất tự thi. Bản thân chúng không đảm bảo cho cá nhân các quyền, tự do (thậm chí nếu hiến pháp của nước đó công nhận chúng là một phần của nội luật) nếu như không có bộ máy thực thi thích hợp. Việc thi hành các quyền của cá nhân vẫn còn là một vấn đề rắc rối mà Tòa án ở nhiều quốc gia vẫn đang phải vật lộn. Nơi duy nhất mà một cá nhân có thể thực thi quyền của mình theo quy định của pháp luật Quốc tế là Tòa án trong nước. Do đó, một cách tiếp cận tích cực được thông qua bởi các Tòa án quốc gia đối với luật pháp quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các quyền cá nhân. Nếu không nó sẽ là một trở ngại nghiêm trọng đến việc thực thi có hiệu quả các quy tắc luật pháp quốc tế. Đặc biệt ở một số quốc gia thịnh vượng chung,các xu hướng xét xử của Tòa án đang báo hiệu một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của luật pháp quốc tế, nơi mà các tòa án quốc gia có thể phục vụ như là phương tiện để thực thi có hiệu quả quyền của pháp luật quốc tế Luật Quốc tế luôn gắn liền với tính chất chủ thể. Sự công nhận một cách chính thức cá nhân là chủ thể của Luật quốc tế có vai trò trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều luật quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các toà án quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó. Thiết nghĩ ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn. Và cũng cần nhấn mạnh rằng chủ yếu không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá nhân, về quyền con người mà tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được 18
  19. Tiểu luận luật quốc tế K10504 đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội luật và công pháp quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế giữa các tổ chức, quốc gia với nhau. 2. PHÁP NHÂN 2.1 Khái niệm Pháp nhân chúng tôi đề cập đến với tư cách là chủ thể của luật quốc tế là hai thực thể công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia. Công ty đa quốc gia thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng một dạng mới của Công ty đa quốc gia đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu. Công ty xuyên quốc gia ( là một doanh nghiệp được cấu thành bởi các thực thể ở ít nhất 2 nước, các thực thể này hoạt động dưới một hệ thống ra quyết định chung và định hướng chiến lược phát triển chung, chủ đầu tư thường thuộc một quốc tịch. Công ty xuyên quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước và đầu tư ra nước ngoài để thành lập công ty con Công ty xuyên quốc gia là một chủ thể có tác động đáng kể trong các quan hệ pháp luật quốc tế. Quan điểm công nhận công ty xuyên quốc gia thiết nghĩ là một quan điểm đúng đắn. Điều này sẽ được làm rõ qua việc phân tích những đặc điểm và vai trò của công ty xuyên quốc gia trong các quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, trong vấn đề này, xuất phát từ góc độ ảnh hưởng xuyên quốc gia của 2 loại hình trên và về mặt Luật Quốc tế, vị trí pháp lý của 2 loại hình trên cũng không khác nhau nên sau đây, chúng tôi gọi chung là công ty xuyên quốc gia, để từ đó đánh giá vai trò chủ thể trong pháp luật quốc tế của chúng. 2.2 Đặc điểm Công ty xuyên quốc gia (TNC) được nhiều người coi là một loại hình tổ chức quốc tế phi chính phủ (INGOs) trong kinh tế. Giữa INGOs và TNC có những đặc điểm giống nhau. Nhưng cũng có nhiều người tách TNC như một chủ thể phi quốc gia riêng. Dưới đây là một số đặc điểm chủ yếu của TCN trong QHQT: 1.2.1 Tính cá nhân trong tổ chức và hoạt động: Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động , thành phần tham gia, nguồn tài chính đóng góp… của các TNC xuát phát chủ yếu từ nguồn cá nhân hơn là nhà nước. Điều này khiến cho tổ chức và hoạt động của các TNC dựa trên ý chí cá nhân của những người góp vốn hơn là ý chí quốc gia. Các TNC theo đuổi lợi ích của chính mình hơn là lợi ích của quốc gia. Trên thực tế, có những TNC thuộc sở hữu của nhà nước hoặc do nhà nước nắm cổ phần quyết định nhưng số lượng tương đối ít. Vì thế, tính cá nhân vẫn là đặc điểm phổ biến của TNC. 19
  20. Tiểu luận luật quốc tế K10504 1.2.2 Tính quốc tế trong thành phần và mục đích hoạt động: Chủ sở hữu và thành viên góp vốn của TNC thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Mục đích của các TNC là lợi nhuận trên thị trường quốc tế chứ không bó hẹp trong thị trường nội địa. hoạt động của nó là xuyên quốc gia với việc khai thác thị trường quốc tế, thiềt lập chi nhánh nước ngoài và sử dụng nguồn nhân lực đa quốc gia. Hiện nay, tỷ trọng tài sản nước ngoài của TNC đều tăng lên. Đây là điểm giúp phân biệt TNC với các công ty quốc gia. 1.2.3 Tính tự nguyện trong thành lập và hoạt động: Điều đó tức là mục đích, sự thành lập và nhiệm vụ đề ra, đóng góp và hoạt động chủ yếu của các TNC chủ yếu được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận kinh tế hay dân sự một cách tự nguyện chứ không hoàn toàn chịu chi phối, cưỡng ép của quốc gia. Tất nhiên, tính chất này không bao gồm các TNC thuộc sở hữu nhà nước nhưng trong thực tế, các TNC đó cũng được trao quyền tự chủ kinh doanh khá lớn. 1.2.4 Khác với các INGO có mục tiêu và chương trình nghị sự rất đa dạng, các TNC thường chỉ có mục đích lợi nhuận: Hoạt động của chúng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Chúng có thể hoạt động trong một hay nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh, ngày càng có nhiều TNC hoạt động đồng thời trong nhiểu ngành kinh tế khác nhau. So với INGO thường ít thay đổi về mục tiêu và chương trình nghị sự, TNC linh hoạt và dễ thay đổi hơn nhiều trong mục tiêu và ngành nghề kinh doanh. 1.2.5 Khác với INGO ít gắn trực tiếp với chính trị, TNC có sự gắn bó đáng kể với chính trị. Sự chi phối lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế, mục đích lợi nhuận quá lớn của các TNC đã quy định điều này. Không kể quá khứ gắn với chủ nghĩa đế quốc, sự can thiệp của TNC vào công việc nội bộ nước khác là hiện tượng không hề hiếm trong thời hiện đại. Hiện nay, các phương pháp hoạt động chính trị của các TNC thường là gây sức ép đối với nước sở tại và vận động hành lang ở chính quốc để thay đổi chính sách và luật pháp. Ngược lại, hoạt động của TNC cũng chịu ảnh hưởng khá lớn của môi trường chính trị chính quốc và nước sở tại cũng như mối quan hệ chính trị giữa chúng. 1.2.6 Tính thể chế của TNC chặt chẽ hơn nhiều so với các INGO. TNC là loại hình tổ chức kinh doanh quốc tế với tổ chức, nguyên tắc hoạt động và sự quản lý khác hẳn với INGO. Cơ cấu tồ chức của TNC thường theo mô hình kim tự tháp với mức độ ràng buộc cao và sự phân nhiệm rõ ràng. Chúng có hệ thống các quy định chặt chẽ cho mọi công đoạn hoạt động từ tổ chức xuống từng cá nhân. Các nguyên tắc hoạt động được quy định rõ ràng và có tình bắt buộc. Tính chất quan hệ trong TNC thường được thể hiện trong điều lệ công ty, quy chế hoạt động, nội quy và các phương án kinh doanh cụ thể. 1.2.7 Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia: Các TNC hoạt động tương đối độc lập với quốc gia do chúng có sự chủ động về tổ chức, tài lực và nhân lực. Chúng hoạt động vì lợi ích của bản thân nhiều hơn là vì lợi ích quốc gia. Nhìn chung các TNC được tự do định đoạt quy mô, đối tượng và phương pháp thực hiện hoạt động kinh doanh mà ít có sự cam thiệp của nhà nước. Sự độc lập của TNC còn được 20
nguon tai.lieu . vn