Xem mẫu

  1. KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ---    --- TIỂU LUẬN MÔN HỌC TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam trong năm 2008 GVHD : Đặng Công Triết Thực hiện: Nhóm 5 Lớp : 110810103 Thành phố Hồ Chí Minh, thứ 6 ngày 18 tháng 03 năm 2011
  2. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH   DANH SÁCH NHÓM 1. Nguyễn Minh Tiến MSSV: 10118521 2. Nguyễn Thị Tuyết Mai MSSV: 10081361 3. Trần Thanh Thảo MSSV: 10083551 4. Lê Thụy Thùy Trang MSSV: 10075001 5. Đặng Thị Mùi MSSV: 10080071 6. Phùng Thiên Vũ MSSV: 7. Nguyễn Thị Cẩm Yến MSSV: 10089191 8. Phan Ngọc Vân Lam MSSV: 10157451 9. Nguyễn Thị Thu Thúy MSSV: 10147311 10. Lê Đình Hùng MSSV: 10082791
  3. MỤC LỤC LỜI NHẬN XÉT 2 LỜI MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG 5 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5 1. Khái niệm và phân loại lạm phát 5 1.1 Khái niệm 5 1.2 Phân loại lạm phát 5 1.2.1 Lạm phát vừa phải 5 1.2.2 Lạm phát phi mã 6 1.2.3 Siêu lạm phát 6 2. Nguyên nhân lạm phát 9 2.1 Lạm phát theo thuyết tiền tệ 9 2.2 Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) 10 2.3 Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy 10 2.4 Lạm phát dự kiến 11 2.5 Các nguyên nhân khác 11 3. Những tác động của lạm phát 12 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ BIÊN PHÁP KHẮC PHỤC 14 1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 14 2. Đặc trưng lạm phát ở nước ta 16 3. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam 17 4. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010 18 4.1 Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hoá cơ bản khác 19 4.2 Ảnh hưởng của việc điều chỉnh giá 19 4.3 Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu 20 4.4 Lạm phát do yếu tố cầu kéo 20
  4. 4.5 Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ 20 5. Các giải pháp chống lạm pháp ở Việt Nam hiện nay 21 5.1 Các quan điểm và khắc phục lạm phát 21 5.2 Biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam 22 5.2.1 Các biện pháp tiền tệ tài chính 22 5.2.2 Các biện pháp về ngân sách nhà nước 23 5.2.3 Các biện pháp điều hành cung cầu thị trường 24 5.2.4 Về chỉ đạo điều hành 26 KẾT LUẬN 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
  5. TÓM TẮT Việt Nam sau 12 năm kiểm soát được lạm phát (1995-2007),từ tháng 12 năm 2007,lạm phát quay trở lại với chỉ số CPI 2 con số.Giá cả mặt hàng tiêu dùng thiết yếu tăng vọt các tháng đầu năm 2008,Chính phủ đã thực hiện chiến lược kiềm chế lạm phát “cả gói” với 8 giải pháp.Nhớ những biện pháp kịp thời và linh hoạt của Chính phủ,tình hình lạm phát cuối tháng năm 2008 đã được kiềm chế,tuy vậy giá cả vẫn ở mức cao và vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp.Lạm phát là một hiện tượng mà cả thế giới đều quan tâm,nghi ên cứu về lạm phát để từ đó rút ra những bài học vế lý lụân và thực tiễn là nhiệm vụ của các học giả,các nhà nghiên cứu,đặc biệt là các diễn đàn nghiên cứu khoa học của chuyên ngành kinh tế trong các trường đại học.Đề tài đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về lạm phát và phân tích các diễn biến thực tế của lạm phát ở Việt Nam qua chỉ số CPI và lãi suất ngân hàng, tỉ giá hối đoái,tốc độ giảm GDP… tr ong nước,chỉ số giá vàng,USD trên thế giới… trong giai đoạn tứ tháng 12/2007 đến 11/2008 và dự báo rủi ro,thach thức đế xuất hệ giải pháp trong thời gian tới với kì vọng tham gia hoạch định chính sach vĩ mô.bổ sung kiến thức về lý luận và thực tiễn,nâng cao chất lượng giảng dạy,nghiên cứu học tập cho sinh viên và các bạn đồng nghiệp.
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Không lúc nào như thời gian từ năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát và tăng trưởng thu hút sự quan tâm của nhiều giới khác nhau:từ n gười dân thường mỗi ngày khi ra chợ có cảm nhận như mình bị móc túi; các chủ doanh nghiệp phải vật lộn với những toan tính từ chi phí vật tư, hàng hoá, dịch vụ, lương công nhân đến giá thành, giá bán, thị trường cung cấp vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm; các chủ nhà băng tính toán lãi suất huy động và cho vay như thế nào vừa để thu hút tiền gửi của người gửi tiền và người vay vốn có thể chấp nhận với lãi suất cao hơn; các nhà lập pháp, hành pháp và hoạch định chính sách đau đầu về những đơn thuốc chữa trị cho nền kinh tế khi lâm vào bão bệnh “lạm phát cường độ cao”, hậu quả là tăng trưởng bị suy giảm, đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có thu nhập thấp gặp khó khăn; trong dài hạn, Chính phủ lại lo ngại khi tăng tr ưởng kinh tế bị suy giảm gây hậu quả giảm phát, làm cho đời sống của các tầng lớp dân cư càng gặp khó khăn hơn, sức mua giảm dẫn đến kinh tế bị suy thoái, những ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng tài chính từ nước Mỹ và toàn cầu đang tác động xấu đến nền kinh tế n ước ta, thị trường xuất khẩu hàng hoá bị giảm sút, vốn đầu tư gián tiếp có nguy cơ bị rút khỏi thị trường chứng khoán, vốn đầu tư trực tiếp không thực hiện được như cam kết. Để kích thích nền kinh tế, trong lúc tích luỹ của nền kinh tế, dự trữ ngân sách, dự trữ ngoại hối của nước ta còn rất hạn hẹp, Nhà nước ta không đủ nguồn lực để cung cấp các gói kích thích nền kinh tế nh ư các nước phát triển hoặc như Trung Quốc, Ấn Độ với hàng trăm tỷ đô la; Nhà nước chỉ có những khoản kích thích bằng tăng vốn đầu tư trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, trợ cấp bằng tăng các khoản cho vay, giảm thuế, giảm lãi suất cho vay, tăng lương hoặc giảm giờ làm việc, giảm giá hàng dịch vụ hoặc tăng trợ cấp cho các đối tượng chính sách. hoá, Để làm rõ mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, đã có nhiều công trình
  7. nghiên cứu của các nhà kinh tế trong nước và thế giới, về lý thuyết và thực nghiệm nhóm chúng tôi có một số ý kiến về tình hình lạm phát hiện nay, nếu có ý nào còn sai sót mời thầy bổ sung thêm, nhóm em xin chân thành cảm ơn. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa lý luận về lạm phát. - Phân tích và đánh giá thực trạng tình hình lạm phát trong năm 2008 - Dự báo mức lạm phát trong một vài tháng cuối năm 2008 - Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng kiềm chế và chống lạm phát trong năm 2008 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi nghiên cứu, chuyên đề đi sâu vào nhận định tình hình biến động nội tại chuỗi gia tăng lạm phát, nhìn nhận lý do khách quan của sự biến động, từ đó có cơ sở để đưa ra những kiến nghị và giải pháp trong công tác quản lý và kiềm chế lạm phát, từ đó có làm tốt lên công tác ổn định kinh tế vĩ mô. NỘI DUNG CHƯƠNG I:NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT I.TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.Nhìn nhận và đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.Mặc cho sự tồn tại của nhiều cách đo lường khác nhau nhưng các định nghĩa về lạm phát cơ bản không phải là tùy tiện. ở đâu cũng vậy, ý t ưởng chính đằng sau khái niệm lạm phát cơ bản là việc loại trừ những biến động nhất định về giá cả một số hàng hóa, làm méo mó việc đo lường xu hướng lạm phát của một nước. Đặc biệt đối với một số loại giá được coi là có biến động lớn, khá ngẫu nhiên, mang tính nhất thời và không theo bất cứ một xu hướng nào. Tất cả những loại giá đó chỉ gây ra sự thay đổi tạm thời mặt bằng giá nói chung và sẽ lại biến mất ngay sau đó. Những biến động bất thường này sẽ xảy ra, ví dụ trong trường hợp của các loại lương thực thực phẩm tươi sống theo thời vụ và chủ yếu phụ thuộc vào sự biến
  8. động của chất lượng mùa màng do tác động của thiên tai hay những sự cố bệnh dịch như bệnh dịch bò điên hay dịch cúm gà… gây ra. Sự biến động cho tới những cơn sốc của giá dầu thô trên thị trường thế giới từ trước đến nay cũng thường xuyên chịu tác động của các nhân tố t ạm thời như chiến tranh, bệnh dịch, thời tiết… Trên thực tế, vấn đề khó khăn trong việc xác định xu hướng giá cả với sự trợ giúp của phương pháp loại bỏ này là rất khó dự tính được liệu những biến động bất thường đó về giá cả chỉ là tạm thời trong ngắn hạn hay sẽ còn kéo dài một khoảng thời gian khá lâu nữa. Chẳng hạn như khi xác định giá cả dầu thô: sự tăng giá của dầu thô một mặt, phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu trung hạn về dầu thô trên thị trường quốc tế và do đó, lại phụ thuộc vào các nhân tố tăng trưởng kinh tế; mặt khác, còn phụ thuộc vào sản lượng khai thác và cung cấp dầu trên thị trường dưới tác động của một loạt các yếu tố như an ninh, chính trị, quân sự, thời tiết… Theo quan điểm của các nước nhập khẩu dầu, những thay đổi về các điều kiện thương mại cũng như tỷ giá của đồng bản tệ so với đồng USD cũng đóng một vai trò quan trọng đối với sự biến động giá dầu nhập khẩu về. Đối với các loại thực phẩm theo thời vụ lại còn có vấn đề là: trong khi có những biến động lớn, giá cả các mặt hàng này vẫn biến động theo xu hướng giá cả chung. Do lạm phát cơ bản được coi là phản ánh xu hướng của lạm phát nên khi tính toán tỷ lệ này phải chú ý cả những biến động giá cả có liên quan đến xu hướng chung. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp các loại giá cả thực phẩm thời vụ tách khỏi xu hướng chung và do đó, sẽ làm thay đổi phần nào xu hướng lạm phát. Bởi phải loại bỏ hoàn toàn và thường xuyên các cấu phần giá cả nhiên liệu và thực phẩm thời vụ nên xu hướng lạm phát nhìn chung sẽ không bao giờ được phản ánh đầy đủ một cách tuyệt đối cả. Để khắc phục được một phần nhược điểm này, nhiều NHTW các nước đang tăng cường sử dụng mô hình hóa lạm phát cơ bản ở nước mình theo hai cách với sự hỗ trợ của các phương pháp thống kê nhất định. Một là, xác định các thành phần giá cả dễ biến động và quy định một quyền số thấp trong tính toán giá của rổ hàng hóa; như vậy, những thông tin về các loại giá cả này sẽ không hoàn toàn bị mất đi. Hai là, chia tách sự biến động chỉ số giá tiêu dùng, hoặc các bộ phận cấu thành riêng lẻ của nó thành những phần mang tính tạm thời và phần mang tính thường xuyên và lâu dài; trong đó, phần có tính lâu dài sẽ biểu thị xu hướng lạm phát và lạm phát khi đó sẽ được xác định tương ứng cho kỳ hạn dài hơn một năm. Cách xác định lạm phát cơ bản cho thấy vào thời điểm hiện nay những thông tin về xu hướng giá rất quan trọng vẫn đang còn bị bỏ qua. Do vậy, chỉ số lạm phát cơ bản phải thường xuyên được xem xét và điều chỉnh lại cách tính toán cho phù hợp t ình hình thực tế ở từng nước, từng khu vực. Trong báo cáo tháng 1/2004, ECB đã rà soát lại tác động của thuế gián thu và chi phí hành chính lên lạm phát ở khu vực Euro: kết quả phân tích cho thấy phần chi phí thuốc lá chiếm tỷ trọng 2,3% trong cấu thành chỉ số giá tiêu dùng đã điều hòa (HICP), nên khi thuế thuốc lá bắt đầu gia tăng đáng kể từ quý IV/2003 ở cả Pháp và Đức, là 2 nền kinh tế hàng đầu khu vực, khiến cho giá thuốc lá ở Châu Âu dự tính sẽ gia tăng ít nhất 8% trong năm 2004 so với 2003, dẫn tới chỉ số lạm phát chung của cả khu vực sẽ gia tăng ít nhất 0,2% trong cùng kỳ. Tương tự như vậy đối với phần chi phí quản lý hành chính công cộng: cuộc cải cách y tế ở Đức cũng sẽ làm tăng thêm 0,2% lạm phát của toàn khu vực trong năm 2004. Tổng hợp lại, cả thuế thuốc lá và chi phí hành chính đang chiếm tỷ trọng khoảng 8% HICP sẽ làm gia tăng lạm phát ở khu vực Euro ít nhất thêm 0,5% trong năm 2004. Nếu loại bỏ tác động của các yếu tố thuế và chi phí hành chính nói chung thì lạm phát bình quân khu vực này sẽ chỉ còn ở mức thấp xấp xỉ 1% thay vì 2% trong cả 2 năm 2004 và 2005. Đây là điều cần cân nhắc kỹ trong phân
  9. tích, đánh giá chính sách tiền tệ của ECB để có thể kiềm chế hiệu quả lạm phát ở khu vực Euro ở mức xấp xỉ dưới 2% như mục tiêu đã đề ra trong trung hạn. Như vậy, để đánh giá đầy đủ về t ình hình lạm phát, các NHTW cần phải có một cách nhìn nhận sáng suốt về vấn đề này, nhất là ở những nền kinh tế còn yếu kém và bất ổn định của các nước đang phát triển. Ngay tại cuộc Hội thảo trong tháng 7/2000 về đề t ài “Lạm phát cơ bản và cách dự báo lạm phát” do Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu của các NHTW Đông Nam á (SEACEN) tổ chức cho các quan chức NHTW tại các nước Châu á (chủ yếu là các nước đang phát triển như Inđônêxia, Malaixia, Mông Cổ, Nê pan, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và Xrilanca), các thành viên tham dự Hội thảo đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng của chỉ số lạm phát cơ bản, cách xác định chỉ số này rất có ý nghĩa phục vụ cho các mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của các nước trên 3 phương diện: đề ra chính sách, trách nhiệm bảo đảm thực hiện chính sách đã đề ra và xúc tiến công tác dự báo và ước tính theo mô hình kinh tế lượng. Cơ sở quan trọng để tính toán lạm phát cơ bản chính là chất lượng chuẩn xác và tính kịp thời của các số liệu thống kê giá cả và tiền tệ được tập hợp và xử lý trong tính toán. Đây là vấn đề trọng tâm thu hút sự quan tâm chú ý của hầu hết NHTW các nước, các khu vực có sử dụng chỉ số lạm phát cơ bản trong điều hành chính sách. Từ tháng 8/2000, ECB cũng đã kêu gọi các nước thành viên trong khu vực Euro cần có sự cải cách về cách thức thu thập và tính toán các chỉ số kinh tế trong khu vực vì số liệu mà ECB nhận được từ các nước thành viên chưa đạt các chuẩn mực cần thiết. Trong đó, ECB nêu rõ số liệu về khu vực dịch vụ là đặc biệt cần thiết phải quan tâm để có được đầy đủ và chính xác hơn. ECB còn yêu cầu các thành viên phải cung cấp và công bố số liệu kịp thời hơn vì nếu so sánh thì các nhà quản lý và hoạch định chính sách của ECB thường có thông tin, số liệu quan trọng về GDP hay về thị trường lao động… chậm hơn nhiều so với các đồng nghiệp ở Mỹ. Lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố: Lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý.... Chúng ta đã bàn nhiều đến nguyên nhân trong nước và quốc tế nhưng nguyên nhân cơ bản là do đã mở rộng tín dụng và đầu tư một cách quá mức để hy vọng đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn. Chính vì vậy, bây giờ chúng ta phải trả giá bằng mất ổn định kinh tế vĩ mô, ít nhất là trong trung hạn Chuyên gia IMF cho rằng, với chính sách hiện nay, Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài. Việt Nam cần có một cách tiếp cận mới, linh hoạt hơn, thích ứng với biến động thị trường để cuối 2008 lạm phát có thể trở về một con số. Cách đây vài năm, năm 2004, Việt Nam cũng đặt trong chỉ số lạm phát của Việt Nam ở mức 9,4%. Tuy nhiên, so với thời điểm đó, tình hình lạm phát năm nay có nhiều điểmkhác. Một là, đồng USD bị mất giá trên toàn cầu, đòi hỏi có những tính toán, cân nhắc về việc có nên tiếp tục cố định tỷ giá tiền đồng so với tiền USD không. Mức tăng cung tiền của Việt Nam lớn hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Đối với một nước dân số đông và tăng nhanh như Việt Nam, số người nghèo có thể tăng lên cùng với lạm phát. Ứng phó trước tình trạng này, chỉ một bộ phận người Việt có thể đầu tư vào lĩnh vực tài chính, bảo vệ chính mình. Người nghèo không có được công cụ bảo vệ đó. Họ phụ thuộc vào thu nhập hằng ngày. Họ có thể bị đói trong "cuộc đua" mua hàng hóa trong cơn lạm phát.
  10. Việt Nam đang nhập khẩu lạm phát Nhìn ra khu vực, cùng chịu tác động của cú sốc cung, của tăng giá hàng hóa nhưng t ình trạng lạm phát của các nước rất thấp, ngay cả Trung Quốc có tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn nhiều so với Việt Nam. Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là t ỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. 2.Chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam trong xu hướng giá cả trên thế giới gia tăng Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ tính toán và công bố chính thức chỉ số giá tiêu dùng CPI, chưa tính toán lạm phát cơ bản. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hiện nay của Việt Nam được tính trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ số giá của từng tỉnh, thành phố được tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền giữa chỉ số giá tiêu dùng nhóm cấp III, cấp II rồi cấp I với quyền số cố định t ương ứng trên cơ sở cơ cấu chi tiêu hộ gia đình tổng hợp từ kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2000. Danh mục thu thập giá gồm khoảng 396 mặt hàng, chia theo 10 nhóm tiêu dùng cấp I, lại được phân tiếp thành 34 nhóm cấp II, 86 nhóm cấp III và 75 nhóm cấp IV. Sự phân nhóm được tiến hành theo hình tháp, càng xuống thấp số lượng nhóm càng lớn (trong mỗi nhóm đều bao gồm hàng hóa và dịch vụ cho từng loại nhu cầu tiêu dùng). Ví dụ trong nhóm tiêu dùng cấp I, lương thực – thực phẩm lại được phân tiếp thành 3 nhóm cấp II và 20 nhóm cấp III… Phương pháp xác định chỉ số CPI của Việt Nam được diễn tả ở trên cho thấy: Nhìn chung, các mức quyền số cố định có tác động chi phối đáng kể đến xu hướng và mức độ biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam. Tổng cộng có 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ của rổ hàng hóa dịch vụ tham gia kết cấu quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng CPI; các mức quyền số này đã được Tổng cục Thống kê tính toán xác định trên cơ sở cơ cấu chi tiêu thực tế ở các hộ gia đình đã được điều tra khảo sát theo định kỳ khoảng 5 năm một lần (gần đây là các năm 1995, 2000 được lấy làm năm gốc điều tra). Trong đó, quyền số cố định của nhóm hàng cấp I lương thực – thực phẩm vẫn đứng ở vị trí cao nhất với mức 47,9% (đã giảm đáng kể so với mức 60,86% ở năm 1995); còn quyền số cố định của 9 nhóm cấp I còn lại thấp hơn rất nhiều. Như vậy, xu hướng biến động chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ trước đến nay, nhất là kể từ khi tính toán và công bố chính thức chỉ số CPI, chủ yếu chịu ảnh hưởng của sự biến động giá lương thực thực phẩm là mức giá hay thay đổi mạnh do phải chịu nhiều yếu tố tác động khác nhau ở trong và ngoài nước. Điều này đã được minh chứng qua số liệu thống kê thực tiễn về chỉ số giá tiêu dùng trong một số thời kỳ phát triển điển hình của nền kinh tế Việt Nam: ví dụ trong năm 1999, là năm chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đã liên tục giảm xuống mức âm trong 8 tháng liền với mức bình quân – 0,55%/tháng chủ yếu là do chỉ số giá lương thực – thực phẩm giảm mạnh lần lượt ở các mức bình quân – 1,85%/tháng và -0,58%/tháng trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng hóa dịch vụ còn lại trong thời kỳ này hầu như không đổi, thậm chí còn
  11. tăng nhẹ (1 hoặc 2 trường hợp cũng có giảm nhưng chỉ giảm ở mức bình quân trên dưới - 0,1%/tháng). Hay như trường hợp gần đây, nhất là giai đoạn 7 tháng đầu năm 2004: so với cuối năm năm 2003, chỉ số CPI của cả nước tăng 7,7%, trung bình mỗi tháng tăng 1,1%, chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng tới 13,7% (trong đó, giá lương thực tăng 11,2% và giá thực phẩm tăng 15,4%), trong khi chỉ số giá bình quân của 9 nhóm hàng tiêu dùng còn lại trong cùng kỳ hầu như chỉ tăng nhẹ ở mức 1 chữ số, không cao quá mức 5% (riêng giá hàng hóa dịch vụ nhóm dược phẩm y tế tăng 7,7% do phải nhập khẩu tới 60% nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh; trong khi chỉ số giá nhóm giáo dục lại giảm nhẹ 2,7%). Nếu so với cùng kỳ năm 2003 thì chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam trong tháng 7/2004 đã tăng 9,1%/năm – mức tăng cao nhất trong hơn 5 năm qua (lần cuối gần đây nhất CPI của Việt Nam cũng đã tăng 9,1%/năm là vào tháng 1/1999) chủ yếu do giá lương thực – thực phẩm tăng mạnh với mức 15,5% trong cùng kỳ. Theo dự báo của Bộ Tài chính Việt Nam, chỉ số lạm phát chung của Việt Nam trong cả năm 2004 sẽ là 9%. Giá tiêu dùng tăng cao có ảnh hưởng không tốt đến thu nhập và đời sống của đại bộ phận dân cư. Đó là chưa kể đến giá các loại nguyên vật liệu thiết yếu cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam đều đã tăng rất cao từ đầu năm 2004 đến nay do phải phụ thuộc nặng nề vào nguồn nhập khẩu như xăng và các sản phẩm dầu phải nhập khẩu 100%, phân đạm 90%, phôi thép 75% và thép thành phẩm 65%… Hệ quả là khi giá các mặt hàng nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng cao thì giá nhập khẩu chúng vào Việt Nam cũng phải tăng theo rất mạnh nếu ngân sách nhà nước không đủ khả năng bù lỗ. Tính ra trong 6 tháng đầu năm 2004, giá cả của hầu hết nguyên nhiên liệu thiết yếu cho sản xuất công – nông nghiệp như xăng dầu, sắt thép… đều tăng nhanh đột biến lần lượt với các mức 23,6% và 48% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ rất mạnh của 2 nền kinh tế khổng lồ trên thế giới là Mỹ và Trung Quốc, còn giá phân bón thì tăng 5,7% so với cuối năm 2003. Giá cả trên thị trường thế giới tăng cao đã gây tác động trở lại làm gia tăng đáng kể lạm phát ở ngày càng nhiều nước trên thế giới từ các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ (chỉ số giá tiêu dùng đã tăng từ 1,7%/năm trong tháng 2/2004 lên t ới 5,1%/năm trong tháng 5/2004), các nước khu vực Euro (chỉ số CPI từ tháng 2-5/2004 đã tăng từ 1,6%/năm lên 2,5%/năm – cao vượt mức trần mục tiêu 2%/năm), rồi Nhật Bản (CPI đã tăng 1,1%/năm trong tháng 5/2004 – mức tăng CPI cao nhất kể từ năm 1997) cho đến các nước đang phát triển như Trung Quốc (trong tháng 6/2004 chỉ số giá sản xuất tăng 6,4%/năm còn CPI đã tăng lên gần 5%/năm – mức tăng cao nhất trong vòng 7 năm qua; CPI của cả năm 2003 chỉ vào khoảng 1%). Mức độ tăng giá nguyên vật liệu sản xuất và giá hàng tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm 2004 ở Việt Nam như vậy là khá cao và như Bộ Tài chính Việt Nam đã thừa nhận có gây tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xã hội: “tác động xấu đến sản xuất kinh doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, giá đầu ra, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ” (Báo cáo của Bộ Tài chính tại Hội nghị triển khai các giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tài chính – ngân sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 ngày 23/6/2004 tại Hà Nội). Cũng tại Hội nghị này, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã khẳng định mặt bằng giá cả ở Việt Nam cũng phải tăng lên theo xu hướng tăng giá trên thị trường thế giới trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa hiện nay: “Vấn đề giá cả theo tôi là vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay. Trong ho àn cảnh hiện tại, giá cả của nước ta phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào giá thế giới, nhất là một số mặt hàng thiết yếu như sắt thép, dầu xăng, xi măng… nên theo tôi, không thể điều khiển hoàn toàn được giá cả. Nếu không nhận thức phù hợp về vấn đề này sẽ không giải quyết được vấn đề giá cả chứ không phải cứ thắt
  12. chặt giá cả là đúng… Chúng ta nên hướng dẫn người dân quen dần với tình hình mới, đó cũng là đặc điểm của môi trường hội nhập”. Trong thực tế, chúng ta chưa tính toán lạm phát cơ bản nên chưa thể xác định được rõ ràng và đầy đủ xu hướng lạm phát ở Việt Nam. Hơn thế nữa, chỉ số giá tiêu dùng CPI hiện nay đang được tính trên cơ sở rổ hàng hóa dịch vụ cùng với các quyền số tương ứng cơ cấu chi tiêu tiêu dùng của các hộ gia đình Việt Nam đã được Tổng cục Thống kê khảo sát điều tra từ trước năm 2000. Đã hơn 3 năm trôi qua, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta đã có nhiều đổi thay đáng kể và một điều tương đối chắc chắn là các mức quyền số đó sẽ không thể còn duy trì được mãi ở mức đã cố định từ năm gốc 2000. Nếu theo đúng định kỳ 5 năm thì rổ hàng hóa dịch vụ cùng các mức quyền số kết cấu nên chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam sẽ phải được xác định lại trong năm 2005. Đồng thời, trong xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính – tiền tệ khu vực và quốc tế, cùng với Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ sớm xác định, tính toán lạm phát cơ bản bên cạnh lạm phát thông thường để đưa vào áp dụng trong công tác dự báo xu hướng lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Phương pháp xác định lạm phát cơ bản ban đầu có thể dựa vào nguyên lý tính xác suất thống kê theo mô hình kinh tế lượng trên cơ sở các dãy số lịch sử vì các nguyên nhân sau: - Cũng giống như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam chỉ có thể dùng một số lượng hạn chế các nguồn lực con người và vật chất vào việc điều tra, khảo sát để tạo dựng các chỉ số giá cả chính thức, cho nên các quyền số và các mức giá cả đã được tính toán, xác định kém chính xác hơn nhiều so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến. - Cùng với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, các mô hình chi tiêu tiêu dùng cũng sẽ nhanh chóng thay đổi theo nhu cầu vật chất tinh thần của người dân cho nên các quyền số dù có được xác định lại khá chính xác thì rồi cũng sẽ rất nhanh chóng bị lỗi thời theo thời gian. - Cũng như phần lớn các nước đang phát triển khác, chỉ số CPI của Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu phải chịu sự chi phối của mức giá lương thực – thực phẩm là mức giá hay biến đổi mạnh đột biến, mang tính nhất thời trong ngắn hạn. Khi tính toán lạm phát cơ bản ta có thể dùng phương pháp loại trừ có chọn lọc chỉ số một số loại giá lương thực thực phẩm nhất định ở các nhóm cấp thấp (nhóm cấp II hoặc / và cấp III) để không gây ảnh hưởng đáng kể tốc độ xác thực trong dự báo xu hướng lạm phát chung của nền kinh tế. - Cùng với sự gia tăng phí điều tiết giá cả cũng như tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân thì cả mặt bằng giá lẫn các hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực t ư nhân và trong cả nền kinh tế sẽ nhanh chóng thay đổi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng bình đẳng và lành mạnh hơn. III.LẠM PHÁT NĂM 2008 SẼ LÊN TỚI 22,3 . (Dân trí) - Theo dự báo của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, lạm phát năm nay, xét đến kịch bản xấu nhất có thể lên tới 22,3%, trong khi kinh tế Việt Nam khó tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao như năm 2007.Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt 8,5%, theo đánh giá của bản báo cáo, “cũng khó có thể nói đó là một con số thật ấn tượng”, dù đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1997.Bởi con số này không ghi nhận sự đột phá so với các năm liền kề 2005 - 2006 và tỷ lệ đầu tư so với GPD năm 2007 quá cao, chiếm tới 44%.
  13. Cuối năm 2007, thời điểm đánh dấu tròn một năm Việt Nam trở thành thành viên WTO. Thời gian một năm là quá ngắn để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia nhập WTO đối với tiến trình cải cách bên trong và nền kinh tế Việt Nam. Nhưng việc gia nhập WTO đã phần nào làm “lộ rõ những yếu kém, bất cấp cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, nhất là đối với việc đảm bảo sự phát triển nhanh, vững bền” - báo cáo nhấn mạnh.Theo TS.Võ Trí Thành, sự sôi động của thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng và thị trường bất động sản năm qua ít chuyển hóa sang nền kinh tế thực; khu vực t ài chính, ngân hàng và bảo hiểm vẫn chiếm chưa tới 2% GDP. Điều này đang là lời cảnh báo về chất lượng tăng trưởng, chất lượng đầu vào của nền kinh tế. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp lớn tăng 5,7% cũng là dấu hiệu bất thường, bởi một phần vốn rất lớn của các doanh nghiệp này đã không dẫn vào các kênh sản xuất kinh doanh tạo sản phẩm thật mà chủ yếu đổ vào các kênh đầu tư ảo: chứng khoán, bất động sản… Ngược lại, tốc độ tăng tiêu dùng của người dân Việt Nam đang cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng GDP. “Bình quân đầu người năm qua đạt khoảng 841 USD/người/năm, trong khi tốc độ tiêu dùng của người dân lại đang cao hơn rất nhiều. Điều này dẫn tới tiết kiệm nội địa năm 2007 bị chững lại. CHƯƠNG II.MỐI LO NGẠI ĐẾN NẾN KINH TẾ HIỆN NAY I.LẠM PHÁT – MỐI QUAN NGẠI CHỦ YẾU CỦAVIỆT NAM NĂM 2008 “Sức ép lạm phát sẽ là mối quan ngại chủ yếu của Việt Nam năm 2008”. Đây là thông điệp được đưa ra trong báo cáo khảo sát kinh tế xã hội năm 2008 do UB Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong phần khảo sát về Việt Nam, báo cáo của ESCAP bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Nam Á. Tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao, tỷ lệ đầu tư lớn, tỷ giá ổn định giữa tình hình chung bất ổn và dự trữ ngoại tệ ở mức cao là những tín hiệu phát triển tích cực chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên, ESCAP bày tỏ mối quan ngại khi tỷ lệ lạm phát ở mức cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn. Theo báo cáo, Việt Nam nằm trong số các nước châu Á – TBD đang phát triển chịu ảnh hưởng từ sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ cũng như các khu vực phát triển khác và t ỷ lệ tăng trưởng kinh tế được dự báo có thể sẽ giảm tốc xuống dưới 8% năm 2008. Cơ quan của LHQ cho rằng, Đông Nam Á vẫn phụ thuộc xuất khẩu vào Mỹ nên tỷ lệ tăng trưởng trung bình của khu vực sẽ giảm xuống 5,8% so với 6,2% của năm 2007. ESCAP khuyên các chính phủ châu Á, trong đó có Việt Nam, nên giữ sự ổn định và đầu tư vào nông nghiệp để vượt qua “cú sốc kinh tế” có nguồn gốc từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ. Shigeru Mochida, Phó Tổng thư ký ESCAP, cho rằng việc gia tăng sản xuất nông nghiệp sẽ giúp đưa 280 triệu người thoát khỏi đói nghèo khi giá cả lương thực đang tăng chóng mặt. Cuộc khảo sát năm nay của ESCAP tập trung vào thất bại của các nước trong cuộc chiến chống đói nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và cho rằng nguyên nhân chính là do sự “thờ ơ” của các chính phủ đối với nông nghiệp trong hai thập kỷ qua. Báo cáo cho biết, dù kinh tế tăng trưởng cao, nhưng tại khu vực châu Á – TBD vẫn còn 641 triệu người sống ở mức ít hơn 1 USD/ngày, chiếm 2/3 số người nghèo trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo ESCAP, Thái Lan và Việt Nam là những điểm sáng trong khu vực. Thái Lan thực hiện chính sách tăng cường đầu tư sản xuất nông nghiệp, nên sẽ là một
  14. trong số ít nền kinh tế có mức tăng trưởng kinh tế năm 2008 cao hơn năm 2007. Trong khi đó, ESCAP đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn để tăng tốc phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo báo cáo, nông nghiệp trở thành yếu tố quan trọng giúp giảm đói nghèo ở Việt Nam, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Cơ quan của LHQ dự báo việc gia tăng năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ giúp Việt Nam giảm nhanh hơn nữa tỷ lệ đói nghèo. Tuy nhiên, ESCAP cũng bày tỏ lo ngại rằng việc áp dụng công nghệ chậm, ngành công nghiệp chế biển sản phẩm nông nghiệp có ít tiến bộ, cùng với thiên tai dịch bệnh và những tác động không mong muốn từ giá cả to àn cầu sẽ là những thách thức lớn của Việt Nam trong năm 2008. II.VAI TRÒ TRONG KINH TẾ 1.Các hiệu ứng tích cực Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. T ỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. 2.Các hiệu ứng tiêu cực Đối với lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội: Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát. * Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm. * Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô. * Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế. * Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. Đối với lạm phát không dự kiến được
  15. Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. CHƯƠNG III:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC QUẢN LÝ,KIỂM SOÁT.KIỀM CHẾ LẠM PHÁT I..NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số này của năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải lên tiếng. Để giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có nhiều buổi tọa đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Qua đó đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát, nguyên nhân của lạm phát, cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm phát. Bài viết này đề cập về các nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc phục. Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành chính sách của mỗi một quốc gia. Đây cũng là một ttrong hai mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương các nước đều hướng tới. Khái niệm chung về lạm phát được khoa học kinh tế đưa ra là sự tăng giá chung theo thời gian, khi đó mặt bằng chung về giá cả hàng tiêu dùng trên thị trường tăng lên. Còn lạm phát tiền tệ hoặc lạm phát giá cả được gọi theo cách nhìn nhận ở góc độ nguyên nhân của lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết, biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ. Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy). Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ. A.Chống lạm phát ở Việt Nam: T ìm đúng nguyên nhân mới có giải pháp tích cực Kiềm chế lạm phát để ổn định kinh tế ở nước ta đang là vấn đề bức xúc. Lạm phát đang diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó, đặc biệt quan trọng là nguyên nhân t ỷ giá, là yếu tố phản ánh biến động kinh tế cả trong nước và quốc tế. Trên cơ sở nhấn mạnh định lượng về lạm phát, tác giả đã kiến nghị một số giải pháp để góp phần kiềm chế lạm phát ở nước ta. 1 - Chế độ tỷ giá hiện hành là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003 - 2007 (8%/năm), là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động
  16. của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Trong các báo cáo gần đây, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên nhân gây ra những yếu kém kinh tế trong thời kỳ này. Cụ thể là, "cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ. Công tác dự báo và dự kiến các biện pháp, kế hoạch ứng phó với những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan nghiên cứu, tham mưu của Đảng và Nhà nước phát hiện tình hình còn chậm; khi t ình huống xảy ra, do chưa có kinh nghiệm và chủ động trong việc ứng phó nên chỉ đạo, xử lý của một số ngành chức năng có lúc còn lúng túng, chưa kịp thời, thiếu phối hợp đồng bộ, thiếu linh hoạt. Có chính sách, giải pháp chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội."(1) Chỉ ra được nguyên nhân, nhưng chúng ta vẫn lúng túng trong điều hành ổn định kinh tế vĩ mô là do chưa có một đánh giá định lượng cụ thể để lượng hóa tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới các biến số kinh tế vĩ mô, từ đó sử dụng các công cụ chính sách phù hợp để điều hành nền kinh tế. Vậy vấn đề là lượng hóa các nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng tới tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất công cụ phù hợp để đối phó với lạm phát trong ho àn cảnh hiện tại. Các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng những nhược điểm của một chế độ tỷ giá neo với đồng USD và mất cân đối cơ cấu kinh tế gây ra tình trạng "thắt cổ chai" là nguyên nhân cơ bản của lạm phát. Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng giá chung. Lạm phát thường có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ. Nhóm nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn t ỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn t ỉ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn t ỉ đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006(2). Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tạo cơ hội nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề "thắt cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn.
  17. Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài Tác động của lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam thường cao hơn gấp đôi các nước khác trong khu vực là do Việt Nam thực thi chính sách neo giá đồng nội tệ với USD(3). Các nước trong khu vực như Ma-lai-xi-a và Thái Lan theo đuổi chính sách thả nổi có điều tiết đồng nội tệ và đã điều chỉnh lên giá nội tệ theo giá trị danh nghĩa của đồng USD trong thời gian qua. Kể cả Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong việc thực thi chính sách tỷ giá cũng đã điều chỉnh lên giá danh nghĩa nội tệ trong thời gian qua. Kết quả là, trong khoảng thời gian từ tháng 1-2004 đến nay, đồng Việt Nam có xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi đồng tiền của các nước khác trong khu vực có xu hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD. Giá hàng hóa, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh trong thời gian gần đây là do tăng trưởng cầu thế giới tăng nhanh hơn tốc độ tăng cung với bằng chứng là lượng hàng tồn kho hàng hóa nguyên liệu giảm mạnh. Đồng USD mất giá danh nghĩa làm cho giá hàng hóa tính theo đồng tiền khác như EUR, GBP giảm tương đối và càng khuyến khích cầu. Bên cạnh đó, các quỹ đầu t ư trên thế giới gia tăng mua hàng hóa đề phòng vệ rủi ro mất giá USD. Kết quả là giá hàng hóa nguyên liệu tăng lên cao hơn mức bình thường, tăng do tăng cầu và tăng do USD mất giá. Các nước trong khu vực có điều chỉnh nâng giá nội tệ t ương ứng với mức mất giá danh nghĩa của Mỹ (đo bằng chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa NEER) sẽ điều chỉnh giảm được tác động tăng giá do mất giá đồng USD. Hình 3 minh họa mức biến động giá lương thực theo nội tệ của các nước so với giá danh nghĩa của đồng USD và tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER). Có thể nhận thấy, giá lương thực thế giới tính theo VNĐ cao hơn mức giá tính theo USD do đồng Việt Nam mất giá so với USD. Giá lương thực theo bạt (Thái Lan) và nhân dân tệ (Trung Quốc) còn có phần rẻ hơn mức tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER) của Mỹ. Chính nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt, Thái Lan và Trung Quốc giảm được tác động sốc giá lương thực từ nước ngoài. Việt Nam thi hành chính sách neo tỷ giá và vì vậy đã nhập khẩu lạm phát giá lương thực theo USD. Đây có thể là nguyên nhân chính làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Nhóm nguyên nhân tiếp theo gây ra lạm phát ở Việt Nam là yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba năm từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12- 2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006(4). Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 t ỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường(5). Mặc dù không thể phủ nhận yếu tố tiền tệ là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát hiện tại, nhưng cũng cần khẳng định rằng, nguyên nhân chủ yếu là do thiên tai, dịch bệnh lây lan và giá nguyên liệu đầu vào tăng đột biến dẫn đến giá lương thực tăng cao. Trong những năm 1999, 2000, mức cung ứng tiền tệ M2 đã có lúc lên tới 56,2% nhưng Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thiểu phát. Hơn nữa, độ trễ của chính sách tiền tệ là từ 6-36 tháng, nên không phải cung tiền tăng lập tức dẫn tới lạm phát. Trong tình hình hiện nay, tốc độ tăng trưởng cung ứng tiền tệ M2 chỉ đóng vai trò xúc tác cho quá trình nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài. Trên thực tế, ở bảng 1 chúng ta có thể
  18. thấy do lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng tới 42,7% trong chỉ số CPI, nên phần đóng góp của giá lương thực thường chiếm tới 70% động thái của chỉ số giá tiêu dùng CPI (được coi là tỷ lệ lạm phát). Trong quý III năm 2007, phần đóng góp của các yếu tố phi lương thực vào lạm phát chỉ là 3,5%. Con số này là 4% cho quí IV năm 2007, và ngay cả khi lạm phát lên tới 15,7% vào tháng 2-2008, thì lương thực thực phẩm góp tới 10,8%. Tháng 3 và tháng 4, t ỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ năm trước là 19,4% và 21,4%, phần đóng góp của lạm phát giá lương thực, thực phẩm là 13,1% và 14,6%. 2 - Thử bàn thêm về giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam Theo thông tin từ Hiệp hội Thủy sản các tỉnh phía Nam, việc không vay được vốn đã bắt đầu gây ra nhiều hậu quả mà cả doanh nghiệp và nông dân phải gánh chịu. Điều này khiến việc mua cá nguyên liệu của người dân chậm lại, nông dân đang bị thiệt hại rất lớn. Chỉ tính riêng từ tháng 3-2008 đến nay, người nuôi cá đã mất khoảng 300 tỉ đồng do việc không bán được cá và giá cá xuống thấp. Nông dân không còn mặn mà nuôi cá, nguồn cá nguyên liệu sụt giảm, công nghiệp chế biến lại gặp khó khăn. Vòng tròn luẩn quẩn là khi có thị trường thì không có cá để xuất khẩu và ngược lại, khi có cá thì không có thị trường. Lãnh đạo Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng cho rằng, khi doanh nghiệp đang căng sức để cạnh tranh và giữ lấy thị trường nước ngoài nhiều biến động thì câu chuyện vốn vay, lãi suất và giá cả trong nước gần như đi ngược lại tất cả(6). Lạm phát tiền tệ có thể được giải quyết thông qua thắt chặt tín dụng, nhưng lạm phát do cầu kéo hoặc chi phí đẩy chỉ có thể được giải quyết thông qua điều chỉnh cơ cấu và ổn định hóa. Việc thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ trong những tháng đầu năm 2008 thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và phát hành tín phiếu bắt buộc nhằm thu hút bớt tiền từ lưu thông về, giảm áp lực đối với lạm phát, kiểm soát quy mô tăng trưởng tín dụng bộc lộ nhiều vấn đề có tính hệ thống, cơ cấu, đe dọa sự ổn định của hệ thống t ài chính. Cần phải xác định xem lạm phát có nguyên nhân từ vấn đề tiền tệ hay không, nếu có thì ở mức độ như thế nào, và quá trình can thiệp của Chính phủ phải diễn ra bao lâu. Việc thắt chặt tín dụng đột ngột trong những tháng đầu năm đã gây sốc cho hệ thống tài chính, đặt hệ thống tài chính trước nguy cơ khủng hoảng, và nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng 2006 2007 2007 2007 02-2008 (Quý III) (Quý IV) Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng (headline inflation) 7,4 8,3 8,6 10,7 15,7 Việt Nam Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI 3,7 4,8 5,1 6,7 10,8 Trung Quốc 1,5 4,8 6,2 6,7 8,7 Thái Lan 4,6 2,2 1,6 2,9 5,4 Phi-lip-pin 6,2 2,8 2,5 3,3 5,4 Chỉ số lạm phát “cơ bản” (“core” inflation) Trung Quốc 0,8 0,9 0,8 1 1,1 Thái Lan 2,3 1 0,7 1,1 1,5 Phi-lip-pin 5,6 0 2,8 2,4 4
  19. đình trệ, suy thoái. Nghiên cứu lạm phát ở Việt Nam cần chỉ ra khi nào có thể sử dụng công cụ tiền tệ, khi nào cần phải giải quyết vấn đề cơ cấu. `Bảng 1. Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng và chỉ số lạm phát "cơ bản" Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008) Bảng 1 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu là do tăng giá lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt Nam phải “nhập khẩu lạm phát” giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch đại mức tăng giá cả lương thực tương đối so với các nước khác. Trừng phạt hệ thống tài chính, ngân hàng bằng các công cụ hành chính sẽ không giải quyết được vấn đề lạm phát phi tiền tệ. Hiện nay, các nước trên thế giới thường sử dụng thêm chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation), là chỉ số lạm phát loại bỏ các nhân tố biến động lớn như giá lương thực và năng lượng, để giám sát các nhân tố lạm phát có nguồn gốc tiền tệ. Khi chỉ số lạm phát cơ bản nằm trong giới hạn kỳ vọng, mà chỉ số giá tiêu dùng vẫn tăng cao do các nhân tố phi tiền tệ thì cần phải có biện pháp điều chỉnh c ơ cấu. Việc chuyển dần từ điều hành chính sách tiền tệ theo lượng cung ứng tiền tệ sang khuôn khổ chính sách tiền tệ đạt mục tiêu lạm phát sẽ giúp minh bạch hóa chính sách tiền tệ. Chính sách tỷ giá cần phải linh hoạt có quản lý dựa trên một giỏ tiền tệ chứ không chỉ gắn với duy nhất USD, đồng thời đa dạng hóa dự trữ ngoại hối để tránh rủi ro mất giá đồng USD. Chính phủ cần nhanh chóng cải thiện hệ thống thông tin dự báo kinh tế vĩ mô và công bố công khai, minh bạch. Cần có sự phối hợp nghiên cứu với các nhà khoa học để tìm giải pháp và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong điều hành chính sách. Xác định mục tiêu cụ thể có thứ tự ưu tiên, tránh tham vọng đạt được tất cả các mục tiêu rồi cuối cùng không hoàn thành mục tiêu nào. Xây dựng cơ chế giám sát, điều hành chính sách tiền tệ và thị trường tài chính. Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô phải được xác định là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc kềm chế lạm phát cần được thực hiện có lộ trình, minh bạch, để ngân hàng và các tổ chức tín dụng có cơ hội chuẩn bị, tránh gây sốc cho hệ thống tài chính ngân hàng như trong thời gian vừa qua có thể đẩy nguy cơ khủng hoảng toàn hệ thống lên cao./. II. GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ Đất nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và rất khó lường. Kinh tế Mỹ suy giảm nghiêm trọng: GDP quý 4 năm 2007 chỉ tăng 0,6%, thấp hơn rất nhiều so với các quý trước đó. Theo nhiều dự báo, kinh tế Mỹ cả năm 2008 chỉ tăng 1,5%. Thậm chí, có những nhận định cho rằng, kinh tế Mỹ đã bước vào giai đoạn suy thoái. Đồng Đô la Mỹ (USD) giảm giá so với nhiều đồng tiền khác, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thị trường thế giới tăng cao (1), sự suy giảm của kinh tế Mỹ, nền kinh tế chiếm khoảng 25% tổng GDP toàn cầu và trên 15% tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá thế giới, đã tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Giá tăng cao ở hầu hết các nước, kể cả ở các nước có nền kinh tế mạnh và đã duy trì được mức giá thấp trong nhiều năm (2). Nhiều quốc gia đã phải điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng từ 1 đến 2% (3). Nếu kinh tế Mỹ rơi vào chu kỳ suy thoái, tình hình có thể còn phức tạp hơn. Ưu tiên kiềm chế lạm phát
  20. Đến nay, kinh tế nước ta đã hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền kinh tế là rất lớn với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tương đương khoảng 160% GDP, trong đó, nhập khẩu gần 90% GDP, thì những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như vừa qua của kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước với mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và so với nhiều nước khác. Trong nước, hai năm 2006 - 2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh tế khoảng 33.600 tỷ đồng) chưa được khắc phục thì đầu năm nay, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất cho nhân dân và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp (4). Bối cảnh quốc tế, trong nước nêu trên đã làm cho những yếu kém của nền kinh tế và trong cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra những thách thức gay gắt cho việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế. Trước tình hình này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp nước ta đã nỗ lực phấn đấu, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, đố i phó và vượt qua những khó khăn thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo ra những cơ sở để tăng trưởng cao trong trung và dài hạn, đã duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP trong quý I đạt 7,4%. Đây là những cố gắng lớn của cả nước. Tuy nhiên, do những tác động của kinh tế thế giới và những bất cập, yếu kém trong quản lý, điều hành kết hợp với các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh tế đã làm cho tình hình kinh tế quý I năm 2008 có những diễn biến bất lợi như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tháng 3 đã tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng mạnh, chênh lệch xuất - nhập khẩu lên tới hơn 7 tỷ USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là những người làm công ăn lương và người nghèo, đe doạ đến ổn định vĩ mô, tác động không thuận đến môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ trở nên xấu hơn. Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát cho phù họp với t ình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những năm tiếp theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này. Bảy giải pháp chủ yếu Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
nguon tai.lieu . vn