- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- TIỂU LUẬN: Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam
Xem mẫu
- TIỂU LUẬN:
Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng
phân tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế
với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam
- Lời mở đầu
Tất cả mọi sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược
nhau mà phép Biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập hay mâu thuẫn. Quy luật mâu thuẫn
đã vạch ra nguồn gốc , động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật và hiện
tượng.
Khi cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội , Đảng ta đã xác định mâu thuẫn cơ bản
trong thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai con đường : con đường xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đó là cơ sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối chung và
đường lối kinh tế cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chính nhờ xác định được những
mâu thuẫn ấy , nền kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu mang tính
quyết định , quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên , bên
cạnh những ưu điểm , kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực kìm hãm sự
phát triển của công cuộc đổi mới.
Với mong muốn có thể có một cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới , tôi chọn đề tài: Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân
tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam.
Phạm vi của đề tài là rất rộng, tuy nhiên trong phạm vi của một bài tiểu luận này ,
tôi chỉ xem xét , đánh giá mâu thuẫn tiêu biểu:
- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái .
- Thực trạng trong phát triển kinh tế với môi trường ở nước ta trong thời gian qua.
- Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung
I. Quan điểm biện chứng về mâu thuẫn:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật
quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật. Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng
đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem sự tác động qua lại đó là
cơ sở vận động của thế giới.
Triết học phương Đông thời cổ đại đã xem sự vận động là do sự hình thành các
mặt
đối lập và các mặt đối lập ấy luôn luôn vận động.
Triết học cổ Tây Âu với đại diện tiêu biểu là Hêraclit đã thừa nhận sự tồn tại và
thống nhất của các mặt đôí lập nhưng ở trong các mối quan hệ khác nhau.
Trải qua quá trình vận động , kế thừa và phát triển lâu dài những thành tựu của
triết học thế giới thời cổ đại và thời kỳ trung đại , triết học thời cận đại , điển hình là triết
học cổ điển Đức thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX với hai đại diện tiêu biểu là I.Cantơ
(1724-1804) và G.V.Hêghen (1770-1831) , đã đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển
của phép biện chứng trước Mác-xít .
Nét nổi bật của Cantơ là đã trình bày những quan niệm biện chứng của mình về
giới tự nhiên. Một mặt , ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “vật tự do” ở bên ngoài
con người, nhưng mặt khác ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được
lại không liên quan gì đến cái gọi là “ thế giới vật tự nó”, chúng chỉ là “các hiện
tượng…” phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do lý tính của ta tạo ra.Tóm lại , trong
lĩnh vực nhận thức, khi xem các mặt đối lập là các mặt đối lập về chất, Cantơ cũng là
người theo thuyết “ không thể biết” và đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu thuẫn
khách quan, xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính bất lực của con
người trong việc nhận thức thế giới.
Hêghen- nhà biện chứng , đồng thời là nhà duy tâm khách quan.Khi nghiên cứu
phép biện chứng về sự vận động và phát triển của thế giới , ông cho rằng khởi nguyên của
thế giới không phải là vật chất mà là “ ý niệm tuyệt đối “ hay “tinh thần thế giới” .
- Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho
rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn) . Theo ông , đó là sự đồng
nhất trừu tượng, trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lí nào . Ông quan niệm: Bất
kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn . Ông là người sớm nhận ra
vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển: “ Mâu thuẫn là nguồn gốc
của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa
đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt
động. Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó “. Song do bị chi phối
bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp, Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn
không thể điều hoà được trong “ xã hội công dân “ vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý.
Kế thừa nhữn g thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, kế thừa một cách có
phê phán tất cả những thành tựu t ư tưởng về mâu thuẫn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của sự vật là ở trong chính sự vật đó, trong
những mâu thuẫn của bản thân sự vật . Quan điểm lí luận đó được thể hiện trong quy luật
thống nhất và đ ấu tranh giữa các mặt đối lập, hay còn gọi là Quy luật mâu thuẫn. Quy
luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng vì nó vạch ra nguồn gốc , động lực của
sự phát triển, nó là cơ sở để hiểu các quy luật khác , giúp ta đi sâu vào bản chất của sự
vật.
1. Tính phổ biến của mâu thuẫn:
Đối lập với các quan điểm cũ , phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các
sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn.
Mỗi một sự vật, một hiện t ượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành
bởi các mặt, các khuynh hướng , các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập
nhau….
Khái niệm mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm,
những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau , tồn tại một cách khách quan trong tự
nhiên, xã hội, và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại
với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng không phải bất
kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật của thế giới
- khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập, mà trong cùng một thời điểm
ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống
nhất trong cùng một sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ,
phủ định và chuyển hóa lẫn nhau.
Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật , hiện tượng, và
tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t ư duy nên nó có tính phổ biến. Chính
vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp.Mâu thuẫn trong mỗi một sự vật , hiện tượng
và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng
cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn . Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc
điểm, vai trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần
phải có biện pháp giải quyết mâu thuẫn phù hợp.
2. .Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự phát triển:
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau
của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Vì vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự
“thống nhất “và “đấu tranh” giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động và phát triển của sự vật . Sự thống
nhất gắn liền với sự đứng im,với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với
tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là : sự thống nhất của các
mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với
nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời
nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền
đề.
Ví dụ: Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức
sản xuất: Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát
- triển, hai điều kiện này chính là tiền đề cho phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất
chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những
nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất “ của các mặt đối
lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến
một lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Ví dụ: Sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp
tư sản, nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của
chúng khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau. Sự
thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá của chúng. Bởi vì
các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật , thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn
nhưng không nằm yên bên nhau mà đấu tranh, chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực
phát triển của bản thân sự vật. Sự vật đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau
giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ:
Trong các phương thức sản xuất có giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn giữa lực l ượng
sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất gay gắt và quyết
liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội , bằng rất nhiều hình thức , kể cả bạo
lực mới có thể giải quyết đ ược mâu thuẫn một cách căn bản . Ngược lại , sự đấu tranh của
cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng trong nền kinh tế , đồng hoá và dị hoá trong sinh học ,
… thì diễn ra dưới dạng tác động lẫn nhau.
Thông thường , khi mới xuất hiện , hai mặt đ ối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc
gay gắt. Tất nhiên, không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ
có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau , phát
triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển , thì hai mặt đối
lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát
- triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các điều kiện cần
thiết, các mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới được hình
thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết , sự thống nhất của các mặt đối lập cũ được
thay thế bằng sự thống nhất của các mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập lại đấu tranh chuyển
hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như
thế , đấu tranh của các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao.
Chính vì vậy Lênin khẳng định: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối
lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin
chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó là nó . Nhờ có
sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật , hiện tượng tồn
tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tương đối , tạm thời.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên liên tục trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật, kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi
chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: “ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều
kiện , tạm thời, thoáng qua tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau
là tuyệt đối, cũng như sự phát triển , sự vận động là tuyệt đối”.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển
hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất
định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá , bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn
trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý
thức của con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải
quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật mới ra đời . Đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với
nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó , không nên hiểu chuyển hóa của các mặt
đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách giản đơn , máy móc. Thông thường thì mâu
thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
- Một là , mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao
hơn xét về phương diện vật chất của sự vật . Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản
xuất mới- quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao
hơn.
Hai là , cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới
hoàn toàn. Ví dụ : Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung , quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, từ lí luận về mâu thuẫn cho ta thấy: Trong thế giới hiện thực,
bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc
tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt
đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng
khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật
mới hình thành. Sự vật mới lại làm nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt
đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn.
Cứ như vậy mà các sự vật , hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển
và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát
triển.
II. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi tr ường sinh
thái ở Việt Nam:
1. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái:
Sự phát triển kinh tế , thực chất đó là một quá trình lớn lên (hay
tăng tiến ) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó , bao gồm
cả sự tăng thêm về quy mô , sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội. Phát triển
kinh tế là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển nói chung. Nhưng phát triển
kinh tế không phải là mục đích tự thân và cũng không thể là vô hạn. Nó phải phục vụ ,
thúc đẩy mục tiêu chung của sự phát triển . Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa “phát triển
kinh tế “và “tăng trưởng kinh tế”. Bởi vì , tăng trưởng kinh tế, theo cách hiểu hiện đại thì
- đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng của một nước, sự tăng lên không ngừng
GNP tiềm năng thực. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế , mặc dù rất quan trọng nh ưng đó mới chỉ là điều kiện cần của phát triển
kinh tế. Điều kiện đ ủ của phát triển kinh tế là trong quá trình tăng trưởng kinh tế phải bảo
đảm đ ược tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu, và tăng trưởng kinh tế tr ước mắt phải
bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người
sinh sống . Trong đó , môi trường tự nhiên là một yếu tố quan trọng , là điều kiện thường
xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm
môi trường sinh- địa- hoá học, môi trường sống, … và được gọi chung là môi trường
sinh thái
Vai trò của môi trường sinh thái ở những giai đoạn lịch sử khác
nhau được thể hiện một cách khác nhau.
ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu hái , lượm những sản phẩm
có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người bị giới tự nhiên hoàn toàn thống trị. Cuộc
sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên.
ở trình độ văn minh cao hơn, nhất là khi khoa học phát triển thì con
người đã từng bước chế ngự được tự nhiên, biết khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu
của mình. Nhiều ngành nghề được hình thành từ những điều kiện có sẵn của môi trường
tự nhiên như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, … Song nhìn chung , môi trường tự
nhiên vẫn giữ vai trò to lớn trong việc tổ chức , phân công lao động, phân bố lực lượng
sản xuất và vẫn tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho quá trình sản xuất , do đó
ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến tốc độ phát triển của xã hội, và do đó ảnh hưởng
đến quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Để có chủ trương , chính sách hợp lý cho sự
nghiệp phát triển kinh tế , Đảng và nhà nước ta phải xác định được một số mâu thuẫn tiêu
biểu:
- Sự tác động tích cực của xã hội vào tự nhiên thông qua quá trình lao động sản xuất:
Trong quá trình lao động , con người một mặt khai thác những cái đã có sẵn trong tự
nhiên , mặt khác tái tạo tự nhiên làm cho bộ mặt tự nhiên biến đổi:
- Nếu con người tác động vào tự nhiên theo quy luật của nó để tái tạo lại tự nhiên
thì bộ mặt tự nhiên ngày càng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất và đời
sống của con người , hay nói cách khác là tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế.
Nếu con người chỉ biết khai thác những cái đã có sẵn trong tự nhiên , không biết
tái tạo lại tự nhiên theo quy luật của nó sẽ làm cho tự nhiên ngày càng nghèo nàn đi , sự
cân bằng sinh thái bị phá vỡ . Khi đó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng
xấu đến đời sống xã hội , con người …và gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế .
- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến hoạt động kinh tế và sản xuất vật chất:
Một là: Từ những sản phẩm của bản thân tự nhiên con người chế tạo thành nguyên
liệu, nhiên liệu, năng lượng,… và cả những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản
xuất, lẫn tư liệu tiêu dùng .
Hai là: Điều kiện tự nhiên ảnh h ưởng đến quá trình phân công lao động xã hội ,
phân bố lực lượng sản xuất , ngành sản xuất. Ví dụ: Căn cứ vào sự phân bố tài nguyên mà
người ta chia sản xuất thành các khu vực như khu công nghiệp khai khoáng, công nghiệp
dầu khí, công nghiệp chế biến, nông nghiệp , ngư nghiệp, … Ngoài ra, điều kiện tự nhiên
cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất lao động , hiệu quả , quy mô, tốc độ của nền
sản xuất nói chung.
2. Thực trạng trong việc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường ở nước ta
trong thời gian qua:
Mỗi một hoạt động của con người đều có tác động đến tài nguyên Môi
trường xung quanh theo chiều hướng thuận lợi hay không thuận lợi cho đời sống và phát
triển của con người. Ngay từ xa xưa, con người đã có những hình thức nhằm bảo vệ tài
nguyên như : hình thành các quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn, lập các miếu thờ để dựa vào
uy thế của thần linh nhằm ngăn cấm việc phá rừng…
Chỉ khi xã hội phát triển, nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà kinh tế
tăng trưởng nhanh, song tài nguyên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn, chất lượng
môi trường sống suy thoái thì quản lí môi trường đã trở thành một hoạt động cụ thể của
quản lí Nhà nước.
- Nhận thức rõ vai trò của điều kiện tự nhiên đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã
hội, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương , chính sách nhằm bảo vệ và khai
thác tài nguyên một cách hợp lí. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: “ Phát triển nhanh , bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi tr ường” và “ Phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt
với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với
môi trường tự nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác
động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả
chiến tranh còn lại đối v ới môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của
toàn xã hội, tăng cường quản lí Nhà nước đ i đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi
người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch , kế
hoạch , chương tr ình và dự án phát triển kinh tế- xã hội , coi yêu cầu về môi tr ường là
một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển”.
Việt Nam được thế giới xác định là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi . Từ cương
lĩnh đại hội Đảng lần thứ VI đến đại hội Đảng lần thứ IX, trải qua 15 năm đổi mới và
phát triển đã thể hiện tính đúng đắn của nó . Kinh tế liên tục tăng trưởng, xã hội ổn định .
Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường,
duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia nhiều công ước quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn thời gian qua, với cơ chế thị trường
có sự quản lí của Nhà nước cũng đã thể hiện những mặt trái của nó liên quan đến bảo vệ
môi trường và bảo tồn , duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như vấn đề
phá rừng, xâm phạm tài sản quốc gia, vấn đề khai thác và buôn bán động vật hoang dã, sự
hạn chế giảm thiểu ô nhiễm ở các doanh nghiệp nhà nước, … Những lí do này đòi hỏi
chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí đối với bảo vệ môi tr ường song song với
việc tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Trong quy hoạch và thực hiện chính sách kinh tế vùng , mặc dù còn rất nhiều điểm
cần phải hoàn chỉnh nhưng xu thế cách biệt giữa miền núi, hải đảo , trung du, đồng bằng,
… đang từng bước được thu hẹp. Đồng thời với việc hoạch định những chủ trương ,
- chính sách , biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ môi trường, xác lập các vùng kinh tế chuyên
ngành, chúng ta đã ban hành hàng loạt những văn bản pháp luật cần thiết có tính khả thi
để bảo vệ tài nguyên và môi trường. Đảng và nhà nước ta còn tham gia rất tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới nhằm bảo vệ sự trong sạch của môi trường;
khai thác hợp lý nguồn lợi của tự nhiên phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của con người.
3.Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái:
Môi trường sinh thái- môi trường tự nhiên là môi tr ường sống gắn liền với mọi
hoạt động của con người, đồng thời cũng là điều kiện khách quan tất yếu đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Điều kiện tự nhiên tuy không phải là nhân tố quyết định đối
với sự phát triển của xã hội nh ưng nó có vai trò rất quan trọng , là yếu tố cần thiết cho sản
xuất và sự sống. Vì vậy , muốn phát triển được kinh tế thì điều quan trọng trước tiên là
phải bảo vệ được những nguồn lực kinh tế, đó là môi trường tự nhiên. Một số giải pháp
kết hợp mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đó là:
3.1 Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường:
Khi con người bất chấp quy luật vi phạm những nguyên tắc đảm bảo cho sự phát
triển bền vững, biến “khai thác” thành “ chiếm đoạt” tự nhiên , thì môi trường tự nhiên
không phải chỉ gây khó khăn cho quá trình sản xuất nữa, mà còn đe doạ đến sự sống còn
của toàn xã hội . Đó là sự khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên
như rừng, đất , … , đó là các hiện tượng “ hiệu ứng nhà kính”, “ lỗ thủng tầng ôzôn” , sa
mạc hoá, … Vì vậy con người phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây
dựng ý thức sinh thái . Và vì vậy nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần
chúng. Các nhiệm vụ bảo vệ môi trường có được hoàn thành hay không phụ thuộc phần
lớn vào nhận thức và ý thức môi trường của toàn xã hội. Do đó , giáo dục, truyền thông
môi trường cũng là một công cụ quản lí môi tr ường gián tiếp và rất cần thiết , đặc biệt là
ở các nước phát triển.
Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường, đó là một quá trình thông qua các
hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu
- biết, kỹ năng và giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững
về sinh thái.
Mục đích của giáo dục môi trường là nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng
vào giữ gìn , bảo tồn và sử dụng môi trường theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và
tương lai. Giáo dục môi trường cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công
nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo
đói, tận dụng những cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong việc sử dụng tài
nguyên. Hơn nữa, giáo dục môi tr ường bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng , có
những động cơ và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết
những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp
cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động vào các vấn đề có liên quan một cách
thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường.
Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm :
- Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tình trạng của
họ, từ đó giúp họ quan tâm đến việc tìm kiếm các giải pháp khắc phục.
- Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết địa phương tham gia vào các
chương trình bảo vệ môi trường.
- Thương lượng, hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường giữa
các cơ quan và trong nhân dân.
- Tạo cơ hội cho mọi thành phần xã hội tham gia vào việc bảo vệ môi trường, xã
hội hoá công tác bảo vệ môi trường .
3.2. Kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu môi trường:
Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, đã có một thời , nhất là sau cuộc cách
mạng công nghiệp , phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu , lấn át tất cả những yếu tố
khác của sự phát triển như: xã hội , văn hoá, môi trường, quyền con người,…. Phát triển
tự phát đã trở nên thịnh hành , gây ra hậu quả hết sức tai hại cho cả môi trường lẫn xã hội
, văn hoá.
- Ngay cả trong thời điểm hiện nay, khi mà cuộc chạy đua phát triển giữa các quốc
gia, giữa các khu vực kinh tế của thế giới đang diễn ra gay gắt, trong bối cảnh đó người ta
dễ có khuynh hướng hi sinh môi trường và các yếu tố khác cho phát triển kinh tế. Kết quả
là môi trường bị suy thoái làm cho cơ sở phát triển bị thu hẹp; tài nguyên của môi trường
bị giảm sút về số lượng và chất lượng, trong điều kiện dân số ngày càng tăng hiện nay thì
đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghèo đói cùng cực của con người.
Do đó, phát triển kinh tế và môi trường không phải là hai vấn đề đối kháng và mâu
thuẫn nhau theo kiểu loại trừ mà nó phải bổ sung , tương hỗ với nhau, phát triển kinh tế
phải đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái để nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Một số giải pháp cho vấn đề này là:
-Thực thi chính sách môi trường khách quan, đúng đắn, phù hợp với điều kiện và
đặc điểm của từng thời kỳ. Chính sách môi tr ường đó phải phản ánh lợi ích lâu dài của
quốc gia, của toàn xã hội, cũng tức là lợi ích của mọi thành viên trong xã hội.
- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch về môi trường chuẩn xác, có
tầm nhìn xa, có tính khả thi cao và quy tụ lợi ích của cả hệ thống.
- Thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt chế độ kế toán và kiểm toán môi trường, sử
dụng đúng đắn và rộng rãi các khuyến khích, đòn bẩy kinh tế để quản lí môi trường một
cách có hiệu quả, nhất là trong thời kỳ quá độ của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu sang cơ chế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa quản lý tài nguyên và môi tr ường với quản lý kinh
tế, quản lý xã hội .
- Sản xuất sạch hơn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp:
Đây là việc áp dụng một cách có hệ thống các biện pháp phòng ngừa trong các quy
trình, sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục tiêu tăng hiệu quả tổng thể. Đồng thời giúp cải
thiện tình trạng môi trường , tiết kiệm chi phí , giảm rủi ro cho con người và cho môi
trường.
Đối với các quy trình sản xuất: Bảo quản nguyên liệu, năng lượng, loại bỏ
các nguyên liệu độc hại, giảm bớt số lượng và mức độ độc hại của các chất
thải gây ô nhiễm ngay từ giai đoạn trước khi chúng được thải ra môi trường.
- Đối với các sản phẩm: phải chú trọng đến việc giảm bớt các tác động có hại
trong suốt chu trình của sản phẩm, ngay từ khi khai thác các nguyên liệu
cho đến khi giao nộp sản phẩm.
Đối với các dịch vụ: Phương pháp phòng ngừa ô nhiễm môi trường bao
gồm từ khâu thiết kế, cải tiến việc quản lý nhà xưởng, đến khâu lựa chọn
các loại đầu vào(dưới dạng các sản phẩm).
Các biện pháp trên nhằm giúp :
Tránh hoặc giảm bớt lượng chất thải được sản sinh ra.
Sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng và nguyên vật liệu.
Sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ có lợi cho môi trường.
Giảm bớt lượng chất thải xả vào môi trường; giảm chi phí và tăng lợi ích.
3.3. Luật pháp và nghĩa vụ thực hiện luật bảo vệ môi trường:
Luật pháp về bảo vệ môi trường:
Tại điều 37 chương 4 Luật bảo vệ môi trường của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (12-1993 ) đã quy định nội dung quản lí của Nhà nước về môi trường bao gồm:
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về môi trường , ban
hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
2. Xây dựng , chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, sựcố
môi trường.
3. Xây dựng, quản lí các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan
đến bảo vệ môi trường.
4. Tổ chức xây dựng, quản lí hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi
trường, dự báo diễn biến môi trường.
5. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở
sản xuất, kinh doanh.
6. Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
- 7. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường;
giải quyết các tranh chấp , khiếu nại, tố cáo có liên quan đến bảo vệ môi
trường; xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
8. Đào tạo cán bộ về khoa học quản lí môi trường; giáo dục , tuyên truyền, phổ
biến kiến thức , pháp luật về bảo vệ môi trường.
9. Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học , công nghệ trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường.
10. Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nghĩa vụ thực hiện Luật bảo vệ môi trường:
Phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh tháim đặc
biệt là đạo đức sinh thái để kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái đảm bảo cho
hệ thống tự nhiên- xã hội phát triển bền vững.
- Kết luận
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, tồn tại trong tất cả các sự
vật, hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. ở các sự vật,
hiện tượng khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập sẽ dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới . Do đó trong thực tiễn,
phân tích từng mặt cụ thể, độc lập tạo thành mâu thuẫn để giải quyết mâu thuẫn nhằm
thúc đẩy sự vật phát triển.
Phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường không phải là hai vấn đề luôn luôn đối
kháng và mâu thuẫn nhau theo kiểu loại trừ, có cái này thì không có cái kia. Bởi vì, theo
lời chủ tịch uỷ ban Thế giới về môi trường và phát triển Gro Harlem Brudtland:” Môi
trường là nơi chúng ta đang sống, còn phát triển là những gì chúng ta làm để cố gắng cải
thiện tất cả mọi thứ bên trong nơi chúng ta sống, do vậy hai vế này không thể tách rời
nhau”. Những mâu thuẫn còn tồn tại, đó là thực tế khách quan. Chúng ta phải nhìn nhận
đúng bản chất của mâu thuẫn để từ đó tìm ra hướng giải quyết đúng đắn, đó chính là động
lực để chúng ta có thể phát huy được hết thế mạnh của mình nhằm mục tiêu chung là phát
triển kinh tế , mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vì một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
- Phụ lục
Trang
Lời mở đầu 2
Nội dung 3
I. Quan điểm biện chứng về mâu thuẫn 3
1. Tính phổ biến của mâu thuẫn 5
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự phát triển 6
II. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế 9
với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
1. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế 9
với bảo vệ môi trường sinh thái
2. Thực trạng trong phát triển kinh tế với 11
môi trường ở nước ta trong thời gian qua
3. Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu 14
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Kết luận 20
nguon tai.lieu . vn