Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – MỘT ĐỘNG LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đó là đòi hỏi tất yếu, khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất, là lợi thế của cạnh tranh, là chất lượng của nguồn nhân lực, là sức mạnh của nội lực và là sức hút chủ yếu của ngoại lực. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo dục và đào tạo mới có được. Do vậy, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo dục và đào tạo là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn cầu hoá. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất yếu trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển kinh tế tri thức tạo nên bước đột phá trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đó cũng chính là cách thức để chúng ta “rút ngắn” quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức, chúng ta nhất thiết phải quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo. Sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đã đánh dấu bước phát triển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ; từ việc phát triển sản xuất chủ yếu dựa vào lao động và cơ bắp với nguồn tài nguyên thiên nhiên sang chủ yếu dựavào tri thức; từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Điều đó đòi hỏi sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là do con người quyết định. Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người là yếu tố năng động nhất. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách chủ thể sử dụng các yếu tố của lực luợng sản xuất và đóng vai trò là trung tâm của sự phát triển. Con người có được tư cách và vai trò đó là do tri thức quyết định. Tri thức luôn thúc đẩy
  3. sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất của con người. Cùng với sự phát triển của sản xuất, tri thức con người ngày càng chiếm vị trí quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại - kinh tế tri thức. Nền sản xuất càng phát triển thì yếu tố trí tuệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với các yếu tố khác trong cơ cấu giá trị của sản phẩm lao động. Ngày nay, hơn bao giờ hết, tri thức con người đã trở thành yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia; tri thức được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu chi phối các nguồn lực khác, là động lực làm tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế bền vững. Phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tri thức nói riêng phải dựa chủ yếu vào tri thức và nguồn nhân lực có trí tuệ chứ không thể khác được. Tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tri thức con người không phải tự nhiên mà có; trái lại, phải thông qua giáo dục và đào tạo mới có được. Chức năng của giáo dục và đào tạo là biến những giá trị văn hóa của xã hội thành tài sản của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Từ những tài sản riêng đó, mỗi người lại góp phần nhân lên những tài sản văn hóa của xã hội, nâng cao trình độ trí tuệ cho cả cộng đồng. Chính vì thế mà có thể nói rằng, giáo dục và đào tạo là khuôn đúc con người, là nguyên nhân trực tiếp quyết định chất lượng nguồn lực con người, là nguyên nhân sâu xa làm gia tăng hàm lượng chất xám trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao động. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực con người là yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá hoá, hiện đại hoá phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đó là đòi hỏi tất yếu để chúng ta đi tắt, đón đầu và phát triển theo phương thức “rút ngắn”. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi mà nhiều nước trên thế giới đã có nền kinh tế tri thức phát triển, vì thế không nhất thiết phải trải qua các bước tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên công nghiệp, rồi từ kinh tế công nghiệp mới phát triển kinh tế tri thức; mà trái lại, chúng ta có thể đi thẳng vào kinh tế tri thức. Trong điều kiện hiện nay, chỉ có thể đi thẳng vào kinh tế tri thức khi giáo dục và đào tạo được tiếp tục đổi mới, phát triển.
  4. Phát triển kinh tế tri thức được thúc đẩy bởi giáo dục và đào tạo. Sở dĩ như vậy là vì, giáo dục và đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động đến việc nâng cao trí tuệ, nâng cao sự hiểu biết và vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con người. Trong thời đại ngày nay, giáo dục và đào tạo là con đường tốt nhất để con người luôn luôn tiếp cận kịp thời những thông tin mới nhất, cập nhật, làm giàu thêm nguồn tri thức và năng lực sáng tạo của mình; chỉ có thông qua giáo dục và đào tạo mới tạo dựng, động viên và phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội, trước hết là nguồn lực con người cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, muốn tạo động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức phải chấn hưng giáo dục và đào tạo. Chấn hưng giáo dục và đào tạo là bí quyết để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động nâng cao trình độ học vấn, cách ứng dụng và sáng tạo công nghệ tốt hơn. Chính vì vậy, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững cũng chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức. Trong kinh tế tri thức, tri thức là yếu tố chủ yếu của sản xuất; sự tăng trưởng của kinh tế là do tích lũy tri thức đem lại. So với các yếu tố khác của sản xuất, tri thức khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó không những không bị hao mòn, cạn kiệt, mà còn luôn được nâng cao. Khi chia sẻ và chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức vẫn giữ nguyên tri thức của mình. Theo đó, nguồn vốn tri thức - yếu tố chủ yếu của sản xuất - được tăng gấp bội và sử dụng một cách hiệu quả nhất, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tri thức được tăng gấp bội và sử dụng một cách có hiệu quả là nhờ giáo dục và đào tạo. Chính trên ý nghĩa đó mà giáo dục và đào tạo trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức. Nguồn lực để tăng truởng kinh tế của mỗi quốc gia bao gồm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học và công nghệ, nguồn lực tài nguyên, trong đó, nguồn lực con người đóng vai trò quyết định. Trong kinh tế tri thức, nguồn lực con người phải là nguồn lực có tri thức khoa học. Tri thức trở thành nguồn vốn quý nhất, trở thành lợi thế cạnh tranh to lớn nhất trong kinh tế tri thức. Đây chính là điểm khác biệt của nguồn lực con người trong kinh tế tri thức so với nguồn lực con người trong các nền kinh tế khác. Nếu trong các nền kinh tế trước đây, quá trình cải tạo công cụ lao động hiện có, sáng tạo ra những công cụ lao động mới nhằm đạt năng
  5. suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao trong sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thì giờ đây, quá trình đó chủ yếu dựa vào tri thức. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, của sự phát triển của mỗi quốc gia, thì giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định nguồn lực con người, là nền tảng của chiến lược con người. Suy đến cùng, chất lượng của nguồn lực con người được quyết định bởi chất lượng của giáo dục và đào tạo. Vì chất lượng của nguồn lực con người là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, nên việc chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo là chăm lo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục và đào tạo chuẩn bị con người phát triển cao về trí tuệ, về tay nghề, về kỹ năng và kỹ xảo.Hơn nữa, giáo dục và đào tạo còn giúp chúng ta phát huy nội lực - trình độ trí tuệ dân tộc. Hàm lượng trí tuệ trong lao động do giáo dục và đào tạo mang lại là cái làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận để phát triển kinh tế tri thức. Và, chính sự phát triển của kinh tế tri thức đã làm cho tri thức trở thành nguồn lực duy nhất tạo ra lợi thế so sánh dài hạn, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là xương cốt của nền kinh tế hiện đại - nền kinh tế tri thức. Song tri thức chỉ được thực hiện thông qua kỹ năng của cá nhân. Do vậy, giáo dục và đào tạo là yếu tố “đầu vào” của sản xuất, “tầm nhìn xa” cho đất nước, cho dân tộc là tầm nhìn ở giáo dục; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Chính trên những ý nghĩa đó mà giáo dục và đào tạo trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức Ngày nay, giáo dục và đào tạo đã trở thành bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hoá đến quốc phòng và an ninh. Do đó, để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức và tạo đà cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, giáo dục và đào tạo nước ta không có con đường nào khác là phải có chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu trong quá trình sản xuất của xã hội, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xứng tầm thời đại. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá trình tất yếu, khách quan đối với nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
  6. trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Quá trình đó đang đòi hỏi giáo dục và đào tạo không chỉ cung cấp đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu nguồn nhân lực, mà quan trọng hơn là chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Chất lượng nguồn nhân lực bao gồm thể lực, trí tuệ, nhân tố tinh thần, quan hệ xã hội, trong đó, trí lực là yếu tố quan trọng nhất. Chỉ có sự phát triển của nguồn nhân lực có chất lượng cao thì mới nâng cao được năng lực cạnh tranh, nâng cao được chất lượng và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh và đổi mới công nghệ… Từ đó, mới có thể rút ngắn được quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, giáo dục và đào tạo ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực và góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại, bất cập. Sau nhiều năm đổi mới, “chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục”(1). Tính độc lập, sáng tạo trong tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu; giáo dục chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế, chưa theo kịp xu thế toàn cầu hoá và xu thế cạnh tranh ngày càng quyết liệt, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống kinh tế hiện đại. Xuất phát từ thực trạng này, để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý và bền vững trong điều kiện hiện nay và cả trong những năm tới, tại Hội nghị Trung ương 9, khoá X, Đảng ta đã xác định: “Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(2). Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Khâu trung gian để thực hiện vấn đề này chính là sự phát triển của giáo dục và đào tạo. Phát triển giáo dục và đào tạo là tạo nền tảng vững chắc cho sự tăng trưởng kinh tế. Phát triển giáo dục và đào tạo là nhằm phát triển nguồn lực con người, giải phóng nguồn lực con người, là “quốc sách hàng đầu”, là chiến lược được ưu tiên phát triển. Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo ở nước ta phải trở thành nền tảng, thành động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá,
  7. hiện đại hoá đất nước và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực quyết định trong việc sử dụng các nguồn lực khác, như nguồn tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên và khoa học, kỹ thuật. Mục tiêu mà chúng ta đề ra là vào năm 2010, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp đạt trình độ trung bình trong khu vực và đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu này đang đòi hỏi chúng ta vừa phải khắc phục tình trạng lạc hậu về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vừa phải tranh thủ sự hợp tác và ủng hộ quốc tế, đặc biệt là của những nước có trình độ phát triển cao về lực lượng sản xuất và trình độ khoa học tiên tiến để đi thẳng vào công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức. Điều kiện để giải quyết đồng thời hai nhiện vụ này là phát triển giáo dục và đào tạo. Không có nguồn nhân lực chất lượng cao, chúng ta không thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thực tế hiện nay cho thấy rằng, đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất có nhiều yếu tố, nhưng trong đó, khoa học và công nghệ, trí tuệ và chất xám là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất. Vì thế, nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam vừa là một trong những động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế tri thức, vừa là mục đích của sự phát triển kinh tế tri thức. Phát triển nguồn nhân lực phải hướng đến phục vụ cho sự phát triển của sản xuất. Còn phát triển kinh tế tri thức nhằm tạo điều kiện, phương tiện cho giáo dục và đào tạo; nâng cao mức sống, mở rộng khả năng lựa chọn, làm tăng năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo và tạo cơ hội học tập cho con người, giúp cho con người biến ý tưởng của mình thành hiện thực. Như vậy, giáo dục - đào tạo và kinh tế luôn có quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chỉ có trên cơ sở gắn với nhu cầu phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tri thức nói riêng, giáo dục mới có nội dung và sinh khí để phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, phát triển giáo dục và đào tạo được coi là bí quyết của thành công, là con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề đặt ra là phát triển giáo dục và đào tạo như thế nào để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tri thức. Phải chăng, phát triển giáo dục và đào tạo phải vừa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, vừa phải chú trọng đến xu hướng hiện đại, cập nhật với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đáp ứng
  8. yêu cầu này, chúng ta cần phải “xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, dân tộc, độc lập và chủ nghĩa xã hội”(3). Bản chất của giáo dục là sáng tạo. Giáo dục phải vì cuộc sống và sáng tạo. Sáng tạo là thành tố cốt lõi của tri thức. Con người được giáo dục và biết tự giáo dục sẽ có khả năng giải quyết một cách sáng tạo và có hiệu quả những vấn đề do sự phát triển của kinh tế tri thức đặt ra. Năng lực sáng tạo của con người là vô tận, nhưng năng lực đó chỉ được khơi dậy và phát huy thông qua giáo dục và đào tạo. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, giáo dục và đào tạo được coi là lợi thế, là sự kiến lập nền tảng tốt nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của một đất nước được xác định trước hết và chủ yếu là chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng trở thành một lợi thế so sánh có giá trị ngày càng cao. Đó là một xu hướng tất yếu trong quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Do vậy, có thể nói, thực chất cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh trong giáo dục và đào tạo. Một dân tộc hiếu học và biết học hỏi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, là một dân tộc mạnh, dân tộc đó sẽ gặt hái thành công trên bước đường phát triển, sẽ bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu. Sáng tạo bao giờ cũng đi liền với cải cách, đổi mới, chủ động, tích cực và phù hợp với thực tế khách quan. Mọi sự trì trệ, bảo thủ, lạc hậu, ỷ lại, rập khuôn máy móc bao giờ cũng trái ngược với sáng tạo. Để bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, tất yếu phải đổi mới và cải cách giáo dục; phải xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, dân tộc, độc lập tự chủ. Đó chẳng những là yêu cầu để phát huy nguồn lực con người Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, mà còn là yêu cầu nội tại của giáo dục và đào tạo. Là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu đổi mới, sáng tạo và sự chuyển hoá linh hoạt của quá trình phát triển sản xuất. Muốn vậy, giáo dục và đào tạo phải hướng vào việc phát huy tính tích cực và năng lực sáng tạo của con người, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rập khuôn máy móc. Sáng tạo là cơ sở để phát triển kinh tế tri thức. Giáo dục và đào tạo phải hướng đến việc tạo lập cơ sở đó. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng nếu chưa được giáo dục và đào tạo là nguồn nhân lực chất luợng thấp. Chất lượng nguồn nhân lực thấp không chỉ dẫn đến năng suất lao
  9. động thấp, mà còn hạn chế khả năng tìm kiếm việc làm, khả năng chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm cho lợi thế về mặt số lượng trở thành bất lợi và thụ động trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ là nguy cơ nghiêm trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Hạn chế này chỉ có thể khắc phục được bằng cách dành ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Do vậy, có thể nói, nâng cao chất lượng dạy và học là một yếu tố quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện và động lực để phát triển kinh tế tri thức. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững trong những năm tới đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng toàn diện, tăng cường các nguồn lực cho giáo dục, khuyến khích mọi người học tập. Trong thời đại kinh tế tri thức, học tập được coi là sự chuẩn bị tốt nhất cho sự phát triển của tương lai, học chẳng những để biết, để làm, để thích nghi, để tự khẳng định mình, mà còn được coi là của cải nội sinh của mỗi người. Hiện nay, xã hội nào càng có nhiều người đi học thì xã hội đó phát triển càng nhanh. Vì thế, chúng ta cần phải chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ làm tăng sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Để có công nghệ mới và hiện đại thì con đường ngắn nhất là hợp tác, liên doanh với nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn có xu hướng áp dụng những công nghệ có hàm lượng chất xám cao để tăng năng suất lao động. Do vậy, một đất nước có nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có năng lực phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế trong điều kiện toàn cầu hoá sẽ nhanh chóng nắm bắt và triển khai ứng dụng những kỹ thuật mới nhất, tiên tiến nhất và hiện đại nhất. Nguồn nhân lực đó chẳng những tận dụng được tiềm năng của đất nước, tranh thủ được cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra, mà còn tạo ra lợi thế để đi thẳng vào kinh tế tri thức, thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng thêm nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trình độ của lực lượng sản xuất được đánh giá bởi trình độ nguồn nhân lực, trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất. So với nhiều nước trên thế giới, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp. Để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
  10. triển kinh tế tri thức, chúng ta phải thực hiện đồng thời phát triển giáo dục và đào tạo với phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, có thể nói, giáo dục và đào tạo không chỉ làm tăng hàm lượng chất xám và nguồn vốn tri thức trong quá trình sản xuất, làm tăng chất lượng nguồn nhân lực, mà còn tạo cơ sở để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh. Không chỉ thế, giáo dục và đào tạo còn làm tăng hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực trong xã hội; gia tăng tính bền vững trong quá trình phát triển kinh tế; nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo của con người, tạo cơ sở để giải quyết việc làm, chuyển đổi ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế; tăng tính thích nghi của nguồn lực con người và tính linh hoạt của nền kinh tế trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt; tăng sức hút đối với các nguồn lực bên ngoài; tăng sức mạnh nội lực và tính hiệu quả trong việc chủ động hội nhập quốc tế. Tất cả những điều này đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế tri thức. Do vậy, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, chúng ta phải phát triển giáo dục và đào tạo để giải phóng và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và lấy đó làm khâu đột phá cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không chỉ trong giai đoạn hiện nay, mà còn cho cả những năm tiếp theo./. (*) Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.170. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.180. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.181. VẤN ĐỀ DÂN SINH TRONG ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA NÓ
  11. TRẦN NGUYÊN VIỆT (*) Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử lớn của Việt Nam, ghi chép lại những sự kiện lịch sử của gần 3000 năm (từ thời Hồng Bàng đến năm 1675). Đây cũng chính là kho dẫn chứng dồi dào cho vấn đề dân sinh của bài viết này. Trong bài viết này, vấn đề dân sinh được tác giả xem xét trong ba lĩnh vực: đời sống sản xuất vật chất xã hội, chính trị - xã hội và đời sống tinh thần của xã hội. Theo tác giả, nhiều triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã ban hành và thực thi các chính sách dân sinh và an sinh xã hội, thậm chí khái niệm dân sinh cũng đã xuất hiện trong bộ sử ký này. Cuối cùng, tác giả chỉ ra bài học quý giá từ vấn đề dân sinh trong lịch sử đối với giai đoạn phát triển hiện nay ở Việt Nam. Vấn đề dân sinh trong lịch sử phát triển của nhân loại, về thực chất, là vấn đề chính trị được đại đa số các quốc gia trên thế giới quan tâm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trước hết là chủ trương và chính sách của giai cấp thống trị, sau đó đến các tổ chức xã hội khác hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau tạo thành chỉnh thể của một quốc gia. Xét về lôgíc hình thái, khái niệm “dân sinh” có nội hàm rộng hơn khái niệm “an sinh xã hội”; bởi khái niệm thứ hai mang tính cấp thiết nhất thời, nó được dùng để chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình bằng một loạt những biện pháp công cộng, nhằm chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, v.v.. Khái niệm dân sinh bao hàm không chỉ những vấn đề của an sinh xã hội, mà còn cả vấn đề bảo vệ sự ổn định đời sống lâu dài của nhân dân thông qua những chính sách, chủ trương được luật pháp hóa. Xuất phát từ tính cấp thiết mà Đảng và Chính phủ ta đặt ra hiện nay về vấn đề tam nông (nông dân, nông nghiệp và nông thôn), chúng tôi muốn truy xét vấn đề dân sinh theo dòng lịch sử, xem nó đã từng được các triều đại phong kiến Việt Nam nêu và giải quyết như thế nào qua bộ sử quan trọng của nước ta là Đại Việt sử ký toàn thư. Sở dĩ chúng tôi coi vấn đề dân sinh trong lịch sử luôn gắn liền với nông dân vì nước ta là một nước nông nghiệp. Ở đó, nông dân là lực lượng dân cư luôn chiếm gần 80% dân số cả nước, luôn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử xây dựng và bảo
  12. vệ Tổ quốc. Thêm nữa, đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn coi nông nghiệp là chủ đạo và vì vậy, có thể nói, vấn đề dân sinh trong Đại Việt sử ký toàn thư, về thực chất, là vấn đề “tam nông” trong lịch sử đất nước cần được nghiên cứu. Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử lớn, ghi chép lại các sự kiện từ thời Hồng Bàng đến năm Ất Mão (năm 1675), tức là đến đời vua Gia Tông nhà Lê. Như vậy, xét về sử biên niên, bộ sử này đã ghi chép lại những sự kiện của gần 3000 năm; trong đó, đáng để chúng ta chú ý nhất là từ thời kỳ đất nước giành được độc lập năm 938 đến thời Lê Trung Hưng (năm 1675). Trong thời kỳ đó, việc xây dựng Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam (từ thời Lý, Trần đến thời Lê Trung Hưng) đã ít nhiều gắn liền với việc củng cố mối quan hệ quân - dân mà ở đó, vấn đề dân sinh luôn được các triều đại phong kiến chú ý. Mặc dù thước đo thịnh trị của bất kỳ triều đại phong kiến nào cũng lấy tiêu chuẩn lòng dân - ý trời làm cơ sở, song vấn đề dân sinh lại phụ thuộc vào khâu trung gian thực hiện các tiêu chuẩn đó là “thiên tử”, còn bộ máy thống trị quan liêu núp dưới chiêu bài “phụ mẫu của dân” có trách nhiệm thay trời “giáo hóa dân và trị vì thiên hạ”. Chính vì vậy, như chúng tôi đã đề cập ở trên, việc phân tích dựa trên các nguyên tắc của triết học xã hội để làm sáng tỏ vấn đề dân sinh qua từng giai đoạn lịch sử được nêu trong Đại Việt sử ký toàn thư là cần thiết, qua đó chỉ ra ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước “của dân, do dân và vì dân” ở Việt Nam hiện nay. Để làm rõ hơn khái niệm dân sinh từ góc độ triết học xã hội, chúng tôi cho rằng, không thể bỏ qua việc phân tích các lĩnh vực đời sống xã hội. Thứ nhất, đó là lĩnh vực đời sống sản xuất vật chất xã hội, mà mục đích cao nhất của nó là thỏa mãn các nhu cầu vật chất với tư cách cơ sở phổ biến về tính tất yếu trong hoạt động lao động của con người. Con người khác với động vật trong hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ở chỗ, nó không thể giản đơn sử dụng những cái có sẵn trong tự nhiên như động vật, mà phải cải tạo, chế biến các sự vật tự nhiên, như C.Mác viết: “việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự khẳng định của con người với tư cách là một sinh vật có tính loài có ý thức, nghĩa là một sinh vật đối xử với loài như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một sinh vật có tính loài”(1). Tính chất của việc chế tác sự vật từ giới tự nhiên để đảm bảo cuộc sống của con
  13. người cũng thay đổi theo quá trình lịch sử, tùy thuộc vào sự phát triển về nhiều mặt trong đời sống xã hội. Khả năng cải tạo tự nhiên theo chiều hướng tích cực dần dần làm cho con người ít bị lệ thuộc vào tự nhiên hơn, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp đã đáp ứng đáng kể nguồn lương thực cho con người hiện nay. Tuy nhiên, nếu xét lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất cách đây khoảng 2000 năm ở nước ta - một nước nông nghiệp lúa nước vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, vấn đề dân sinh lúc đó luôn là vấn đề phức tạp, đòi hỏi không chỉ sự cần cù, sáng tạo của người nông dân, mà cả chính sách cụ thể của Nhà nước về an sinh xã hội trong những trường hợp rủi ro do thiên tai gây ra, cũng như những biện pháp liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Các chính sách ấy đã được ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư. Trước hết, chúng tôi đề cập đến vấn đề an sinh xã hội. Đây là vấn đề quan trọng, bởi có thể xem nó là thước đo tính đúng đắn trong đường lối trị nước của mỗi triều đại phong kiến Việt Nam. Như ở trên chúng tôi đã nói, nền nông nghiệp lúa nước của Việt Nam trong lịch sử (thậm chí cả trong giai đoạn hiện nay) bị chi phối đáng kể bởi các yếu tố tự nhiên. Đặc biệt, những vấn đề tự phát, tự nhiên luôn là mối đe dọa đến sinh mệnh của người dân và điều đó hầu như xảy ra thường xuyên, buộc nhà nước phải có các biện pháp cứu trợ, từ việc giảm thuế đến trợ cấp lương thực, thuốc men. Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) đã thực hiện việc xá thuế cho nhân dân. Điều này ông làm không phải để cứu trợ cho dân trong hoàn cảnh khó khăn do thiên tai gây ra, mà thể hiện sự thông cảm với cuộc sống đang rất khó khăn của nhân dân. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa Đông, tháng 12… đại xá thuế cho thiên hạ 3 năm, những người mồ côi, góa chồng, già yếu, thiếu thốn đã lâu, đều tha cho cả”(2). Sang thời Trần, sử chép: “Canh Dần năm thứ 6 (1290), đói to, 3 thăng gạo trị giá 1 quan tiền, nhân dân nhiều người phải bán ruộng đất và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người khác, một người trị giá 1 quan tiền. Xuống chiếu phát thóc công để chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh”(3). Thậm chí, sự cứu trợ bằng thóc công cũng không đủ, triều đình phải kêu gọi những nhà giàu đem thóc ra cứu dân. Thời Trần Dụ Tông hoàng đế (Mậu Tuất), sử chép: “Đại Trị năm thứ 1 (1358). Từ tháng 3 cho đến mùa thu tháng 7, đại hạn và sâu ăn lúa; cá chết nhiều. Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu khuyên các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo, quan
  14. tư sở tại tính xem số thóc đã quyên ra bao nhiêu trả lại bằng tiền”(4). Nhà nước còn khuyến khích việc đó bằng cách ban tước phẩm cho những người dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo (năm 1361). Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép nhiều sự kiện tương tự ở thời nhà Lê (từ Lê Sơ đến Lê Trung Hưng), Nhà nước trợ cấp cho dân trong trường hợp thiên tai, mất mùa, dẫn đến đói kém trong thiên hạ. Tuy nhiên, đó chỉ là những giải pháp cần kíp trước mắt, còn về lâu dài, các triều đại phong kiến Việt Nam chú ý tới lĩnh vực tổ chức sản xuất vật chất của xã hội. Trước hết, chúng tôi muốn nói đến tinh thần làm gương của các quân vương qua việc cày ruộng tịch điền, tức là loại ruộng riêng của cung đình. Sử chép: “Đinh Hợi năm thứ 8 (987) (Tống, Ung Hy năm thứ 4). Mùa xuân, vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng Kim Ngân”(5). Nhâm Thân năm thứ 5 (1032), Vua Lý Thái Tông “đến Tín Hương ở Đỗ Động giang cày ruộng tịch điền; nông dân dâng một cây lúa chiêm có chín bông thóc. Xuống chiếu đổi ruộng ấy làm ruộng ứng Thiên”(6). Năm Bính Thìn (1316), vua Trần Minh Tông còn sai tể thần, tôn thất cùng các quan gặt ruộng tịch điền(7). Như vậy, các ông vua nói trên và những ông vua khác trong lịch sử Việt Nam đã nêu gương tốt qua việc cày ruộng tịch điền, một mặt, để khích lệ tinh thần lao động của nhân dân, mặt khác, thể hiện tinh thần trọng nông, trọng dân, phần nào đó muốn xóa đi sự cách biệt giữa quân và dân. Điều đó chứng tỏ rằng, nhiều quân vương trong lịch sử Việt Nam có quan niệm khác với mẫu người lý tưởng của Nho gia theo tinh thần Khổng Mạnh (ở đó, các nhà sáng lập Nho gia thể hiện tư tưởng về sự cách biệt giữa kẻ cầm quyền với người lao động, thậm chí còn cho rằng, người làm ruộng, làm vườn (lão nông) là kẻ tiểu nhân, là kẻ lao lực (kẻ bị trị) phải làm ra của cải để nuôi kẻ lao tâm (kẻ thống trị)). Ngoài việc nêu gương nói trên, các quân vương trong lịch sử còn chú trọng đến việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, quyết không để xảy ra tình trạng dân đói khổ. Chẳng hạn, vua Lê Thánh Tông năm Tân Tỵ, Quang Thuận năm thứ 2 (1461), tháng 3, đã chỉ huy cho các quan phủ, huyện, lộ, trấn, xã rằng: “Từ nay về sau, về việc làm ruộng thì nên khuyên bảo quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc, không nên bỏ nghề gốc theo nghề ngọn, cùng là giả thác buôn bán, kỹ thuật, chơi bời
  15. dông dài, người nào có ruộng đất mà không chăm cấy trồng thì quan tư cai quản bắt trình trị tội”(8). Cũng vào thời Lê Thánh Tông, sử chép rằng: “Mùa thu tháng 8, ngày mồng 4 (Giáp Thìn 1484), định lệnh đắp bờ ruộng để chứa nước. Có sắc chỉ cho hai ty Thừa Hiến các xứ và các quan phủ huyện châu rằng: Từ nay trở đi, trong hạt xứ nào có đê vỡ ngập mất lúa mùa, mà thế có thể chứa nước để cấy chiêm, thì hai ty Thừa Hiến truyền cho các quan phủ huyện châu hà đê và khuyến nông, nên vào lúc nước lụt hơi rút, dự làm kế cứu đói cho dân, xem ngắm địa thế, tùy theo tiện nghi, đốc thúc dân làng bồi đắp bờ ruộng, cần chứa lấy nước, làm mùa chiêm, không nên bỏ phứa chức trách của mình, coi thường đau khổ của dân, ngồi nhìn mà không có kế gì, để dân phải đói”(9). Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị - xã hội, các vương triều đều chú trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, lấy dân sinh làm mục tiêu, lấy hiệu quả thực hiện dân sinh no ấm là sự thể hiện lòng nhân của triều đình. Có thể nói, Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) của Lý Công Uẩn là thí dụ điển hình, bởi nó mở ra một triển vọng mới cho sự phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam thời Trung đại. Với mục đích chọn nơi định đô để làm kế lâu dài cho con cháu muôn đời, Lý Công Uẩn đã quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đó là nơi “ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam - Bắc - Đông - Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, cư dân không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”(10). Có thể nói, đây là vấn đề địa - chính trị đầu tiên được đặt ra trong lịch sử nước ta. Trên thực tế, địa - chính trị là bộ môn thuộc chính trị học ra đời vào nửa đầu thế kỷ XX, song những quan điểm về ổn định và phát triển đất nước của Lý Công Uẩn là hoàn toàn phù hợp với chức năng của bộ môn này, đó là nghiên cứu không gian địa lý và xã hội để đề ra chủ trương chính trị đúng đắn. Có thể nói, với năng lực tư duy chính trị siêu việt, Lý Công Uẩn đã thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng trong việc tìm kiếm địa thế cho sự định đô, mà tiêu chí quan trọng của nó là trung tâm của tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Chúng tôi cho rằng, vị vua anh minh này muốn thông qua những tiêu chí địa - chính trị đó để xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
  16. Các vị vua thời sau, trong sự nghiệp trị vì thiên hạ của mình, đã chú trọng đến những vấn đề dân sinh cụ thể hơn, đó là vấn đề an dân trên phương diện tình cảm và lý trí. Về phương diện tình cảm, họ đưa ra quan điểm “yêu nuôi nhân dân”, coi dân như những “thần dân”, “con dân”, v.v., từ đó họ đưa ra những điều chỉnh về mặt pháp lý để trị dân theo tinh thần “thuận ý trời, hợp lòng dân”. Sử chép: Tháng 10, năm 1042, vua Lý Thái Tông đã “Ban sách Hình thư. Trước kia, trong nước việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu nệ luật văn, cất làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư sửa định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời bấy giờ, chia ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách Hình luật của một triều đại để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử hình thản nhiên rõ ràng, cho nên có lệnh đổi niên hiệu làm Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo”(11). Mặc dù nhà Lý chưa đưa ra được bộ luật thành văn hoàn chỉnh, song Hình luậtcũng đã góp phần bảo vệ an ninh cho dân. Sử chép: “Quí Mùi, năm Minh Đạo thứ 3, tháng 12, vua đến hành dinh Cổ Lãm, xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài vật của nhân dân, nếu đã lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được mà làm cho người bị thương thì xử tội lưu”(12). Không những vậy, Lý Thái Tông còn xem sự an vui của dân cũng chính là của mình, cụ thể vào năm Giáp Thân (1044), “mùa đông, tháng 11, vua xuống chiếu rằng: “Đánh dẹp phương xa, tổn hại việc làm nông, ngờ đâu mùa đông năm nay lại được mùa lớn! Nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm còn thiếu với ai? Vậy xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay, để yên ủi sự khó nhọc lặn lội””(13). Điều này làm chúng ta liên tưởng tới chuyện vua nước Lỗ là Lỗ Ai Công đang lo không biết tăng thuế như thế nào để có đủ cho nhà nước chi dùng thì học trò của Khổng Tử là Hữu Nhược nhân đó đã phát biểu ý kiến của mình như sau: “Nếu trăm họ no đủ thì vua thiếu thốn với ai? Nếu trăm họ thiếu thốn thì vua no đủ với ai” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 9). Như vậy, cùng một ý, nhưng lại được phát biểu trong hai văn cảnh đối lập nhau. Vấn đề dân sinh từ thời Lý đã mang nội dung nhân văn rất cao, đó là quan tâm đến con người như một sinh thể cao quý nhất. Chẳng hạn, “Ất Mùi, Long Thụy Thái Bình năm thứ 2 (1055), mùa đông, tháng 10 rét lắm, vua bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến
  17. người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm””(14). Tư tưởng nhân văn này còn có thể tìm thấy trong các chiếu chỉ và lệnh dụ của các vua khác. Chẳng hạn, vua Thần Tông nhà Lý năm Kỷ Dậu (1129) đã “Xuống chiếu rằng, nô tỳ của vương hầu và các quan không được cậy thế đánh quan quân và nhân dân, kẻ nào phạm thì gia chủ phải tội đồ, kẻ nô sung làm quan nô”(15). Cũng như vậy, vào thời Trần, vua Trần Nhân Tông đã răn các vệ sĩ không được thét đuổi, ức hiếp nô tì, bởi ông nhận thức rất rõ vai trò của người dân và cho rằng: “ngày thường thì có thị vệ hai bên, đến khi nhà nước hoạn nạn thì chỉ có bọn ấy đi theo thôi”(16). Hay, nhà Lê Sơ đã nhiều lần ra lệnh cho các quan lại cùng người nhà của họ không được cậy quyền thế mà ức hiếp nhân dân, cấm chiếm đoạt của cải, ruộng đất hoặc mua rẻ hàng hóa của dân. Đến thời nhà Mạc, để bảo đảm an ninh cho dân khi đi lại và làm ăn sinh sống, triều đình đã cố gắng thiết lập trật tự xã hội như sau: “Nhâm Thìn (1532, Mạc Đại Chính thứ 3), Mạc có lệnh cấm các xứ trong ngoài người ta không được cầm giáo mác và binh khí hoành hành ở đường sá, ai trái thì cho pháp ty bắt. Từ đấy người buôn bán và người đi đường đều đi tay không, ban đêm không có trộm cướp, trâu bò thì thả chăn không phải đem về, chỉ mỗi tháng điểm soát một lần, hoặc có khi sinh đẻ cũng không thể biết là vật của nhà mình. Trong khoảng vài năm, đường sá không nhặt của rơi, cổng ngoài không đóng, thường được mùa to, trong cõi tạm yên”(17). Về phương diện chính trị - xã hội, vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, năm Quý Dậu (1573), đã ban chiếu mệnh gồm sáu việc, trong đó có hai việc liên quan đến dân sinh như sau: 1. Người dân nào bị nạn binh lửa mà không có hằng sản đều tha tạp dịch; 2. Dân nghèo xiêu giạt cho về bản quán, tha cho thuế dịch(18). Từ tình cảm mang nặng tính nhân văn của các quân vương qua một số dẫn chứng nêu trên, đường lối trị nước của các vương triều đã được phát triển lên một tầm mức mới, đó là sự thể chế hóa, luật pháp hóa vấn đề dân sinh. Nhờ đó, các lĩnh vực sản xuất vật chất, chính trị - xã hội, dù trong hoàn cảnh nào, Phật giáo là quốc giáo hay Nho giáo được độc tôn, cũng luôn được kết hợp với nhau để việc trị quốc và trì quốc có hiệu quả tốt nhất.
  18. Nhà nước phong kiến nào trong lịch sử cũng đều giương cao ngọn cờ nhân nghĩa an dân, lấy đó làm thước đo sự thịnh trị của đất nước và tính đúng đắn trong đường lối trị nước của triều đại mình. Cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của nhà Minh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã lấy mục đích an dân làm đầu. Để thực hiện được mục đích ấy, ngay từ đầu, Lê Lợi đã ra lệnh cho quân đội của mình không được xâm phạm bất kỳ thứ gì của dân, phải làm cho dân tin và theo về với đội quân chính nghĩa ấy. Đến khi giành được thắng lợi, Lê Lợi đã quyết định áp dụng luật pháp vào đường lối trị nước, nhưng đó không phải là đường lối pháp trị thuần túy như thời nhà Tần ở Trung Quốc, mà là sự kết hợp đức trị với pháp trị nhằm mục đích trị quốc, an dân theo tinh thần khuyến thiện, phòng ác. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Mậu Thân, Thuận Thiên năm thứ nhất (1428). Hạ lệnh cho các quan Tư không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy Hành khiển bàn định luật lệnh trị quân và dân, cho người làm tướng biết mà trị quân, người làm quan ở lộ biết mà trị dân, để răn dạy quân dân đều biết là có phép, phàm các công việc đều có phụ trách, dâng lên vua xem”… Hạ lệnh cho các tướng hiệu và các quan rằng: “Từ xưa đến nay, trị nước phải có pháp luật, người mà không có phép để trị thì loạn. Cho nên bắt chước đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các quan, dưới đến nhân dân, cho biết thế nào là thiện ác, điều thiện thì làm, điều ác thì lánh, chớ có phạm pháp”(19). Thời vua Lê Thánh Tông, năm Tân Mão, Hồng Đức năm thứ 2 (1471), tháng 11, có sắc dụ cho các quan Thừa tuyên phủ, huyện ở Sơn Nam rằng: “Bọn các ngươi là hạng phương diện chức to, thân dân trách trọng, không biết thể theo lòng nhân của triều đình yêu nuôi nhân dân, chỉ chăm làm những việc nhỏ mọn như roi vọt sổ sách. Nay sứ ty và các phủ huyện các người nên phải mau mau đi xét trong hạt, những nơi núi chằm bờ biển, chỗ nào có thể làm ruộng được, các đê đập ngòi cừ, chỗ nào có thể đắp đào được, cùng là chỗ nào có hổ lang làm hại, có kẻ cường hào xui giục kiện tụng, phong tục điêu bạc, nhân dân đau khổ, hết thảy các việc tiện lợi nên làm, những mối tệ hại nên bỏ, trong hạn trăm ngày phải tâu rõ ràng lên, nếu để chậm quá hạn, sai vệ sĩ Cấm y đi xét hỏi ra còn có việc tiện lợi nên làm và mối tệ hại nên bỏ mà các ngươi không tâu đến, thì phủ huyện phải bãi chức sung quân ở Quảng Nam, thừa ty phải giáng chức”(20).
  19. Những trường hợp tương tự có thể tìm thấy khá nhiều trong Đại Việt sử ký toàn thư, tất cả đều phản ánh sự nỗ lực của các triều đại phong kiến Việt Nam trong việc thực hiện đường lối nhân nghĩa an dân, mà về thực chất là sự quan tâm lớn đến vấn đề dân sinh. Bên cạnh đó, còn một lĩnh vực khác nữa cần được đề cập tới, đó là lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội. Nói đến lĩnh vực này, trước hết, chúng ta cần đề cập đến một số phương diện cơ bản của nó trên cơ sở nhận thức luận và xã hội học. Lĩnh vực nhận thức luận có các yếu tố cơ bản như: phản ánh lý tưởng, thế giới khách quan và tồn tại xã hội. Cốt lõi của phương diện này là vấn đề chân lý. Do ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, thế giới khách quan và sự phản ánh đó có mức độ nông, sâu khác nhau, cho nên từ vấn đề chân lý, cần phải làm rõ hai đầu mối của ý thức xã hội là khoa học và tôn giáo. Còn lĩnh vực xã hội học không chỉ dựa vào các yếu tố nói trên, mà còn phải xuất phát từ quan điểm đánh giá vai trò và ý nghĩa của chúng đối với hoạt động của chủ thể xã hội. Như chúng ta đều biết, mối liên hệ giữa khoa học và triết học ở phương Đông thường không mạnh như ở phương Tây, đó là chưa nói đến truyền thống khoa học kém phát triển trong lịch sử của nước ta. Vì vậy, xét về lưỡng cực “khoa học - tôn giáo”, ý thức xã hội của nước ta trong lịch sử thường thiên về cực thứ hai hơn; ở đó, thế giới khách quan, tồn tại xã hội và lý tưởng xã hội được phản ánh chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của ý thức thường nhật và tôn giáo. Về phương diện xã hội, xét trong tiến trình lịch sử mà Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại, chủ thể xã hội, về cơ bản, được chia một cách ước lệ thành hai đẳng cấp: thống trị và bị trị. Chính vì vậy, theo văn cảnh của vấn đề dân sinh trong bộ sử ký này, chúng tôi chú ý đến lĩnh vực đời sống tâm linh có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của chủ thể xã hội, mà về cơ bản là thái độ của các vương triều đối với con dân của mình, tức là đẳng cấp bị trị. Điều dễ hiểu là, trong bối cảnh xã hội với nền kinh tế truyền thống chủ yếu là nông nghiệp, khi mọi sự may rủi đều phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên vốn không được giải thích một cách khoa học, mà phần lớn chỉ dựa vào thuyết mệnh trời, thuyết “thiên nhân tương dữ” của Hán Nho, vai trò trung gian của thiên tử trong mối liên hệ trời - người trở nên cực kỳ quan trọng. Nhận sứ mệnh nuôi dạy dân, thiên tử dường như gần gũi với dân hơn, tức là thể hiện tinh thần thế tục cao hơn. Có những ông vua (như Lý
  20. Thái Tông) biết chia sẻ niềm vui với dân, cho rằng, “nếu nhân dân đã no đủ thì trẫm còn thiếu với ai?”. Song, như chúng ta thấy, đa phần các sự kiện liên quan tới dân sinh được ghi trong bộ sử mà chúng tôi đang đề cập tới đều chú ý đến những vấn đề an sinh như mất mùa, thiên tai, sâu bệnh, v.v.. Khi đó, người đứng đầu một triều đại nào đó trong lịch sử luôn thể hiện tâm trạng lo âu, muốn đi tìm nguyên nhân của vấn đề ở chính bản thân mình và rồi chính họ hoặc những trung thần đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự trừng phạt của trời. Một số dẫn chứng dưới đây sẽ góp phần làm rõ điều đó. Thời Lê Sơ, Ất Sửu, Thái Hòa năm thứ 3 (1445), Mùa đông, tháng 10, vì có tai dị, Nhân Tông Tuyên hoàng đế đã xuống chiếu rằng: “Trẫm là người đứng đầu mà chưa biết việc đời, cho nên liền mấy năm nay tai dị luôn luôn, sấm sét thường phát, mưa dầm quá độ, nước to tràn ngập, đê phòng vỡ lở, nhà cửa của dân đổ nát, sâu bọ sinh nhiều, cắn hại lúa má chốn đồng ruộng, đầm và hồ sụt lấp, dâu và rau ngập khô. Hoặc là vì chính sự có thiếu sót mà hại đến hòa khí của trời đất, ngục tụng không công bằng mà khí vận âm dương biến đổi chăng? Muốn tiêu sự trách phạt của trời cao, phải ban rộng ơn huệ cho kẻ dưới. Các điều bớt thuế giảm tội đều có thứ bậc khác nhau”(21). Nguyên nhân dẫn đến tai họa nói trên được Lê Nhân Tông tìm thấy ở sự biến đổi theo chiều hướng bất lợi của khí âm dương, nhưng suy đến cùng, nguyên nhân ấy lại bắt nguồn từ “chính sự” của triều đình. Việc lý giải như vậy rõ ràng là theo quan điểm của Tống Nho. Còn đoạn trích dưới đây lại thiên về quan niệm tôn giáo thần bí của Hán Nho. Thời Lê Trung Hưng, “Đinh Tỵ năm thứ 18 (1617), mùa đông tháng 10 ngày mồng 4, Tả thị lang lại bộ là Phú Xuân Hầu Ngô Trí Hòa, Tả thị lang bộ Hộ là Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ cùng với bọn Phạm Trân dâng khải lên Bình An vương rằng: “Trộm thấy năm nay về hạ tuần tháng 9 có sao lạ, đến giờ dần mọc ra ở phương Đông dài hơn 1 trượng, lại có tiếng sấm trái thì; tháng trước lại mưa ra gạo đen, mưa ra cát vàng, các việc ấy đều là quái dị, chắc có quan hệ với chính sự hiện nay. Những việc trái lẽ hại đạo, khó mà kể hết, kính xin trình bày 6 việc: 1. Xin sửa đức để cầu mệnh trời. 2. Ngăn quyền hào để nuôi sức dân. 3. Cấm phiền hà để dân sống khá. 4. Cấm xa xỉ để của dân phong túc. 5. Dẹp trộm cướp để dân ở yên. 6. Sửa quân chính để bảo hộ dân sinh”. Hữu Thị Lang lại bộ là Nhân Lĩnh hầu Lưu Đình Chất dâng khải lên Bình An vương rằng: “Trộm nghĩ trời xuống tai dị hay điềm lành là do ở sự có đức hay không, làm
nguon tai.lieu . vn