Xem mẫu

  1. LỜI MỞ ĐẦU Trong cuộc tấn công, chống phá ta của các thế  lực phản động trong  và ngoài nước, chúng thường tập trung vào lĩnh vực tư  tưởng, lý luận, bởi   đây là lĩnh vực nhạy cảm, có tác động lâu dài và khó lường. Với âm mưu   xảo quyệt, các thế  lực phản động liên tục và ráo riết tiến hành các hoạt   động chống phá trên lĩnh vực tư  tưởng, lý luận, âm mưu thực hiện “diễn  biến hòa bình"; thúc đẩy quá trình “tự  diễn biến”, “tự  chuyển hóa” trong   nội bộ Đảng ta để  đi đến tan rã, như  sự  sụp đổ  của mô hình chủ  nghĩa xã  hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Trước tình  hình  đó, Đảng ta chủ  trương: “Đổi mới công tác tuyên  truyền, giáo dục chính trị, tư  tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng  viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về  tư  tưởng chính  trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự  diễn biến”,   “tự  chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt  động “diễn biến hòa bình” của các thế  lực thù địch; chủ  động ngăn chặn,  phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch” Trong  công  cuộc  xây  dựng  và  phát triển nền  kinh tế   nhiều  thành   phần, vận hành theo cơ  chế  thị trường, có sự  quản lý của Nhà nước, theo   định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề  cải tạo thực tiễn nền kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.   Ngày nay, triết học là một bộ  phận không thể  tách rời với sự  phát   triển của bất cứ  hình thái kinh tế  nào. Những vấn đề  triết học về  lý luận   nhận thức và thực tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương  hướng, là tôn chỉ  cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.  Nếu xuất phát từ  một lập trường triết học đúng đắn, con người có thể  có   được những cách giải quyết phù hợp với các vấn dề  do cuộc sống đặt ra.  Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết học nào đó sẽ  không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định, một cách  lý giải nhất định về  thế  giới, mà còn là sự  chấp nhận một cơ  sở  phương  pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. 1
  2. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của  chủ nghĩa Mác. Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính  là triết học của chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ  có triết học Mác là mang  tính  ưu việt hơn cả. Trên cơ  sở  nền tảng triết học Mác ­ Lênin, Đảng và  Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu,  phương  hướng chỉ  đạo chính xác, đúng đắn để  xây dựng và phát triển xã  hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những khiếm khuyết  không thể  tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực  tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ  các  nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây  dựng chủ  nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng  cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự  nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế   ở  nước ta là  một vấn  ềề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới  hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Nguyên tắc thống nhất giữa  lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận  ở  Việt Nam hiện   nay”. 2
  3. NỘI DUNG I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN 1. Phạm trù thực tiễn 1.1 Khái niệm về thực tiễn Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Thực tiễn là toàn bộ  những hoạt động vật chất – cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử  ­ xã  hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội  1.2 Đặc trưng của thực tiễn Thứ  nhất, theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, thực tiễn là  hoạt động gắn liền với con người, nhưng không phải là toàn bộ  hoạt động  của con người mà chỉ  là những hoạt động của vật chất – cảm tính, những  hoạt động vật chất cảm giác được. Đó là hoạt động của con người, sử  dụng những công cụ  vật chất, tác động vào những đối tượng vật chất làm  biến đổi chúng theo những mục đích nhất định. Thứ hai, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử­ xã hội của  con người. Hoạt động thực tiễn phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm   người, nhưng các cá nhân phải có quan hệ  với nhau và không thể  tách tời  các quan hệ xã hội. Nghĩa là, thực tiễn chỉ diễn ra trong xã hội với sự tham  gia của đông đảo những con người trong xã hội. Đồng thởi, thực tiễn cũng  trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể, chịu sự chi phối của ngững   điều kiện lịch sử, cả về đối tượng, phương tiện, cũng như  mục đích hoạt  động của con người. Thứ  ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích, tính hiện thực trực  tiếp. Thực tiễn phải hướng đến cải tạo thế giới, cải tạo tự nhiên và xã hội   nhằm phục vụ con người, chứ không chỉ là hoạt động bản năng, bằng lòng   với những cái có sẵn trong tự nhiên. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động  có tính tự giác cao của con người, khác với hoạt động bản năng, thích nghi  một cách thụ độngcủa con vật với thế giới xung quanh. 1.3 Các hình thức cơ bản của thực tiễn  3
  4. Thực tiễn có ba hình thức cơ  bản là: hoạt động sản xuất vật chất,   hoạt động chính trị ­ xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất  là hình thức hoạt động khởi nguyên,  đầu tiên, cơ  bản nhất của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động mà con  người trực tiếp tác động vào đối tượng vật chất, vào thế  giới khách quan,  nhằm tạo ra của cải vật chất. Không có sản xuất vật chất con người và xã   hội loài người không thể tồn tại, phát triển. Không những thế, sản xuất vật  chất còn là cơ  sở  cho sự  nảy sinh, tồn tại và phát triển của các hình thức   thực tiễn khác, cũng như  tất cả các hoạt động khác của con người. Có thể  nói, các hoạt động khác của con người, suy cho cùng đều xuất phát từ hoạt  động sản xuất vật chất. Hoạt động chính trị­ xã hội là hoạt động của các tổ  chúc, các cộng  đồng người khác nhau trong xã hội, thể hiện tính tự giác cao của con người  nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ  xã hội, v.v. tạo ra môi trường xã hội thuận lợi, phù hợp với nhu cầu, lợi ích  của chủ thể. Hoạt  động thực nghiệm khoa học  là hình thức đặc biệt của hoạt  động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện không có sẵn trong   tự  nhiên, mà do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái   trong tự  nhiên, nhằm tìm hiểu các quy luật biến đổi, phát triển của đối  tượng nghiên cứu theo mục đích dã đề  ra. Trong giai đoạn hiện nay, khoa   học đóng một vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát triển của xã hội  thì hình thức thực tiễn này ngày càng có vị ttri1 quan trọng trong hoạt động   của con người. Ba hình thức cơ bản của thực tiễn nêu trên, có quan hệ chặt chẽ, tác   động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản xuất vật chất  đóng vai trò quan trọng, quyết định hoạt động chính trị  ­ xã hội và thực  nghiệm khoa học. Ngược lại, hoạt động chính trị  ­ xã hội và thực nghiệm   khoa học tác động trở  lại hoạt động sản xuất vật chất. Chính trị  xã ho65u  ổn định tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, thực nghiệm khoa học phát  triển thì năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất sẽ được nâng cao. 4
  5. Ngoài ba hình thức cơ  bản trên, hoạt động thực tiễn còn có những  hình thức không cơ  bản được thể  hiện  ở  một số  lĩnh vực khác nhau như  gia1so dục, y tế, nghệ thuật, thể thao,v.v.. 2. Phạm trù lý luận 2.1 Khái niệm lý luận Hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức là hai hoạt động đặc  trưng của con người, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại   lẫn nhau, không ta1hc rời nhau. Trong quá trình tác động vào thế  giới, cải   tạo thế giới, hoạt động nhận thức của con người cũng bắt đầu hình thành. Nhận thức, theo quan  điêm của triết học máccxit là quá trình con  người rìm hiểu, phản ánh thế  giới khách quan, nhưng đó không phải là sự  phản ánh giản đơn, thụ động mà là quá trình phản ánh biện chứng. tích cực  và sáng tạo trên cơ  sở  thực tiễn. Đó là sự  phản ánh có chọn lọc, chủ  động  có mục đích để nắm bắt bản chất của hiện thực chứ không phải là sự  sao   chép nguyên xi. Qua quá trình nhận thức biện chứng, còn hiểu biết riêng lẻ  từng mặt, bề ngoài của đối tượng những hiểu biết kinh nghiệm, thông qua  các thao tác của tư  duy như  phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng  hóa… lý luận được nảy sinh, hình thành và phát triển 2.2 Đặc trưng của lý luân Thứ nhất, lý luận là một hệ thống trí thức có tính logíc chặt chẽ, tính   khái quát cao và tính phổ biến; được thể  hiện thông qua những khái niệm,   phạm trù, nguyên lý, quy luật… phản ánh bản chất, tính tất yếu của sự vật,  hiện tượng trong thế giới khách quan. Thứ hai, bản chất của lý luận là khái quát những trí thức kinh nghiệm  thực tiễn, cho nên không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì lý luận không  thể nảy sinh, hình thành và phát triển. Thứ  ba, lý luận không dừng lại  ở  việc phản ánh hiện tượng, mà đi  sâu vào xem xét bản chất, mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng. Do   đó lý luận phản ánh được tính tất yếu, tính quy luật của sứ vật, hiện tượng,  đưa   ra   những  dự   báo   xu   hướng   vận   động,  phát   triển   của  sự   vật,  hiện   tượng. 5
  6. II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận Điều đó có nghĩa, thực tiễn là nền tảng, là điểm xuất phát của lý  luận. Chính trên nền tảng của hoạt động thực tiễn  con người mới có nhu   cầu tìm hiểu, khám phá thế  giới, hoạt động nhận thức, lý luận mới   nảy   sinh. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật làm cho   chúng bộc lộ  những thuộc tính, tính chất, quy luật…Trên cơ  sở  đó, con   người mới có hiểu biết về sự vật và khái quát những hiểu biết ấy dể hình  thành, phát triển lý luận. Như  vậy, chính nhở  có hoạt động thực tiễn, lý  luận mới ra đời, phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “…chính việc  người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với   tính cách tự  nhiên, là cơ  sở  chủ  yếu nhất và trực tiếp nhất của tư  duy con   người đã phát triển song song với việc người ta đã học cái biến tự nhiên” Có thể  nói, mọi hiểu biết của con người dù trực tiếp hay gián tiếp,  đối với người này hay người khác, thế  hệ  này hay thế  hệ  khác, ở  trình độ  kinh nghiệm hay lý luận,…suy cho cùng đều bắt nguồn từ  thực tiễn. Nếu   không có hoạt động thực tiễn, con người không thể  có được lý luận khoa  học, cách mạng. Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận Thực tiễn luôn vận động, biến đổi và luôn đặt ra những nhu cầu,   nhiệm vụ, phương hướng mới cho lý luận, đòi hỏi lý luận phải giải quyết.  Vì thế, nó luôn bắt con ngưởi phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng sự hiểu bết   hiện có, đánh giá kiểm tra lại kiến thức cũ, cách tiếp cận cũ, thậm chí phải  thay thế những tri thức cũ, lạc hậu bằng những tri thức mới. Trên cơ sở đó,  thực tiễn thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển. Đúng như  Ph.Ăngghen đã  nói, khi xã hội có nhu cầu về kỹ  thuật thì nó thúc đẩy khoa học phát triển   hơn mười trường Đại học. Thực tiễn còn là cơ  sở  góp phần rèn luyện các giác quan và tư  duy   của con người, làm cho chúng ta phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, năng  lực tư  duy loogic không ngừng được củng cố  và phát triển. trên cơ  sở  đó,   6
  7. giúp con người nhận thức đối tượng ngày cảng chính xác hơn, sâu sắc hơn,   khái quát lý luận đúng đắn hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người còn chế  tạo ra các công  cụ, phương tiện, máy móc hiện đại, như kính hiển vi, kính thiên văn, tàu vũ  trụ… góp phần hỗ  trợ  con người “nối dài” các giác quan trong quá trình   khám phá chinh phục thế giới. Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận Thực tiễn là đích cuối cùng lý luận phải hướng tới, phải giải quyết.  Chính nhu cầu sống, nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo tự  nhiên, xã hội  buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức thế  giới xung quanh.  Nghĩa là , nhận thức con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cẩu thực   tiễn; ngược lại kết quả  của nhận thức, của lý luận sẽ  phục vụ  cho chính   thực tiễn phát triễn. Lý luận không đáp ứng được mục đích thực tiễn đặt ra,   lý luận đó sẽ  không có giá trị. Những tri thức – kết quả  của nhận thức,   những lý luận – kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn chỉ có giá   trị, có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ  thực   tiển; cụ thể là vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính   trị ­ xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học phục vụ con người. Lý luận  có mục đích tự thân, nó chỉ có giá trị khi thâm nhập vào thực tiễn, được vật   chất hóa, biến tri thức khoa học thành phương tiện ttrong việc biến đổi  hiện thực. Thứ tứ, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra của lý luận Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm, con người sẽ  xác nhận được tri  thức là đúng hay sai, chân lý hay sai lầm. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn  khách quan duy nhất để  khẳng định chân lý,  bác bỏ  sai lầm. Mọi sự  biến  đổi của sự nhận thức hay lý luận suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự  kiểm tra của thực tiễn. Con người có được những hiểu biết về  thế  giới  thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, chính thực tiễn là tiêu chuẩn, là  thước đo giá trị  của những tri thức mà con người đã đạt được trong nhận  thức. Đồng thời, nó bổ sung, điều chỉnh, phát triển những tri thức lý luận đã   có, làm cbo lý luận ngày càng đầy đủ hơn và sau sâu sắc hơn. C. Mác, trong  luận cương về Phoiobac đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của   7
  8. con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là  một vấn đề lý luận mà là một vấn đề  thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà  con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và  sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh trãi về tính hiện thực   hay tính không hiện thực  của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh   viện thuần túy” Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể  hiện  ở  chỗ, nó là tiêu  chuẩn khách quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng  định chân lý, bác bỏ  sai lầm. Tất cả  những tri thức chứ  được thực tiễn  kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở khẳng định tính đúng đắn của nó. Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện  ở  chỗ, nó luôn vận động,  biến đổi, phát triển, do đó, với tư  cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho   phép người ta xem bất kỳ  một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay   đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi   theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất   dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để  kịp thời bổ  sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn  ở  mỗi lĩnh vực nhất định chỉ  đủ  sức   kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó. Như  vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố  đóng  vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là   nơi lý luận phải luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình. 2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “ thực tiễn không có lý luận  hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có  nghĩa rằng, lý luận  mặc dù do thực tiễn quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản  thân lý luận khi đã hình thành thì lại có một vai trò hết sức to lớn đối với  thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể hiện ở những điểm sau: Thứ  nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ  nam” cho hoạt động thực  tiễn. 8
  9. Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra  phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện  thực khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội.   Nếu thực tiễn không được chỉ  đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa  học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “ lúng túng như  nhắm mắt mà  đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở  lại xuất phát điểm ban  đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức. Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành   và phát triển Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý  luận khoa học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập  quần chúng để tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của  đông đảo quần chúng. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng của  quần chúng không còn mang tính tự phát, trở thành hoạt động , chủ động, tự  giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh:… “lý luận cũng se4tro73 thành lực lượng  vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai Bất cứ  sự  vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề,  mầm mống và khả  năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu   phản ánh đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự  vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương lai là kết quả  của thao tác tư  duy,  như  phân tích và tổng hợp, lo6gic và lịch sử…tức là quá trình nhận thức,  phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện   tượng. Dự  báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết  định đến hiệu quả  hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi  con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự  nhiên vô cùng vô tận bằng  những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính  vì vậy, chức năng dự báo là một chức năng rất quan trọng của lý luận. Như  vậy, thực tiễn và lý luận không tách rời nhau, giũa chúng có sự  liên hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong   hoạt   động   nhận   thức   và   hoạt   động   thực   tiễn,   chúng   ta   phải   quán   triệt  nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản   9
  10. của chủ  nghĩa Mác­le6nin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan  trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay. III. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN  VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN  Ở  VIỆT NAM  HIỆN NAY Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích,  là tiêu chuẩn của nhận thức. 1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế  giới khách  quan, bắt  các  sự  vật, hiện tượng của thế  giới khách quan phải bộc lộ  những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực   tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó  nhận thức  được hình thành. Như  vậy, qua hoạt  động thực tiễn mà con  người tự  hoàn thiện và phát triển thế  giới quan( tạo điều kiện cho nhận   thức cao hơn). Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển  hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn. Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận  thức.   Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo   ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên. Thư nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức Ngay từ  đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ  thực tiễn, do thực tiễn quy định.  Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề  mới   cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như  vậy thực tiễn  trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà  soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập  được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan  hệ  ngẫu nhiên bề  ngoài, đâu là mối liên hệ  bản chất, những quy luật vận  động và phát triển của sự vật. Thứ hai,Thực tiễn là mục đích của nhận thức 10
  11. Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào  thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri  thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật  chất và tinh thần xã hội. Sự  hình thành và phát triển của nhận thức là bắt  nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.  Nhận thức chỉ  trở  về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ  đạo   hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có  thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể  hiện được  sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng  thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Thứ tư,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý a) Chân lý Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực  tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị  đối với đời sống  con người) Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ  thuộc vào số  đông (ví  dụ: chân lý tôn giáo). Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt  trong quá trình nhận thức của nhân loại. b) Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Theo quan điểm của chủ  nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để  kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi   vì chỉ  có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở  lại tác động vào  thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các  khách thể  cảm tính. Từ  đó mới có căn cứ  để  đánh giá nhận thức của con   người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không. Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người  cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. +Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển. 11
  12. +Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử  đều có giới hạn. Nó không  thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà   nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.  Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như  vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng  của nhận thức.  c) Ý nghĩa: Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh   tế  thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế  độ  xã   hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ. Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh  tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong  sản xuất, kinh doanh cũng như  quản lý các quá trình đó. Đường lối chính  sách cũng như  các giải pháp kinh tế chỉ  đúng khi chúng mang lại hiệu quả  kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho   dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.  Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những   thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ  đây lại đặt ra nhiều vấn đề  cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra   lời giải đáp cho những vấn đề  của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công   cuộc đổi mới  ở  nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ  thúc  đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định  sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn   về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước   ta.  2.  Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 2.1. Lý luận a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực  tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách  quan. 12
  13. b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ  thống, nó ra đời trên cơ  sở  đáp  ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ  một lý luận nào cũng mang tính mục   đích và ứng dụng. Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học. 2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa   lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt  nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích  cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người. a) Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của   thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ  bản nhất của con người, quyết định  sự  tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự  nó mà mục  đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn   gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.  b) Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn Ví dụ: lý luận Mác ­ Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai  cấp vô sản. Sự  thành  công  hay thất bại  của hoạt  động  thực  tiễn  là tuỳ  thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự  phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực  tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận. Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri   thức đúng đắn về  các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách   quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho   hoạt động thực tiễn. Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có  thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập. c) Lý luận và thực tiễn là thống nhất Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh  thần tiến bộ  và còn giữ  sứ  mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống  nhất thì chúng sẽ  tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự  13
  14. thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác­   Lênin. d) Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi  mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn   đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động. *Ý nghĩa: Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc  biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác ­ Lênin và các lý luận về  kinh tế. Trước chủ  nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn  hầu như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với   bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ­Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ  nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi   khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một   cái  gì  không đáng nghiên cứu về  mặt nhận thức luận,  đã ”đem cái tiêu  chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được  ảo tưởng với  hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để  dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.  V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là  quan điểm thứ  nhất và cơ  bản của lý luận về  nhận thức. (“V.I.Lênin toàn   tập” – 1980) Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên  đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự  thống nhất giữa lý   luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn  diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm.  Đổi mới từ  nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế  thị  trường có   sự  quản lý của Nhà nước là một vấn đề  hết sức mới mẻ  chưa có lời giải   đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó  mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế  14
  15. nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác  động qua lại lẫn nhau cùng phát triển. Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ  thực  tế khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của   mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để  hoạt động trở  nên khoa học, có cơ  sở  vững chắc. Tinh thần  ấy chính là vấn đề  cần nghiên cứu trong văn kiện   Đại hội Đảng lần thứ VI. e) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn   bản của chủ nghĩa Mác­ Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng.  Lý luận mà không liên hệ  với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên   trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi   nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang   cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc,  nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết  luận mới rút ra từ  trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các   nước phải cụ thể hoá chủ  nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện,   hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”­1996) *Con đường biện chứng của sự nhận thức: Nhận   thức   của   con   người   diễn   ra   trên   cơ   sở   thực   tiễn   và   không  ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn   ra một cách biện chứng: ­ “Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trìu tượng và từ  tư  duy trìu   tượng đến thực tiễn ­ đó là con đường biện chứng của sự  nhận thức chân   lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. +Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của  quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này  được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri   giác, biểu tượng... 15
  16. +Tư  duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá   trình nhận thức dựa trên cơ  sở  những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh  động mang lại. ­ Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng   chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở  về  với thực tiễn.   Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì: + Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó  phải trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.  +Đến giai đoạn tư  duy trìu tượng vẫn có khả  năng phản ánh sai lạc  hiện thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở  về  thực tiễn để  kiểm tra kết  quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm. +Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở  về  với thực tiễn để  trên cơ  sở  thực tiễn mới tiếp tục bổ  sung, phát triển   nhận thức. ­ Từ  trực quan sinh động dến tư  duy trìu tượng, và từ  tư  duy trìu  tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi   lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng  phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.  3. Thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay Từ  khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ  nghĩa   Mác­Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất   nước,Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa  xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những   thành tựu nhất định. Về  mô hình chủ  nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề  cập  sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ  nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do   nhân dân lao động làm chủ;  có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực   lượng sản xuất hiện đại và chế  độ  công hữu về  các tư  liệu sản xuất chủ  yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải  phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao  động, có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn  16
  17. diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ  lẫn  nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả  các  nước trên thế giới. Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ  nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ  sung, phát triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta   xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn  minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế  phát triển cao, dựa trên lực  lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát   triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân  tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no,  tự  do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt  Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ; có Nhà  nước phát quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân  dân, vì nhân dân   dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ  hữu nghị và hợp tác với  nhân dân các nước trên thế giới”. Trên cơ  sở  kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã  hội xã hội chủ  nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ  sung, phát triểm năm 2011)  thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân  giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có   nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  sản xuất tiến bộ  phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân   tộc; con người có cuộc sống  ấm no, tự  do, hạnh phúc, có điều kiện phát  triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,  tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;  có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Như  vậy, có thể  nói rằng trên cơ  sở  tổng kết thực tiễn đổi mới, lý  luận của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn,   cụ  thể  hơn. Cùng với sự  phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có  những nhận thức ngày càng sâu sắc về  chủ  nghĩa xã hội phù hợp hơn với  17
  18. thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường  lối về chủ nghĩa xã hội. ­ Về  phương hướng xây dựng chủ  nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991)  đề ra bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội: + Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì  nhân dân, lấy liên minh công nhân­ nông dân­ trí thức làm nền tảng, do  Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ  quyền dân chủ  của nhân dân,  giữ  nghiêm kỷ  cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm  lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. +   Phát   triển   lực   lượng   sản   xuất,   công   nghiệp   hóa   đất   nước   theo   hướng hiện đại gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng   tâm. + Phù hợp với sự  phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng   bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về  hình thức sở  hữu. phát triển nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần định  hướng xã hội chủ nghĩa. + Tiến hành cách mạng xã hội chủ  nghĩa trên lĩnh vực tư  tưởng và  văn hóa làm cho thế giới quan Mác­Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách  Hồ  Chí Minh giữ  được vị  trí chủ  đạo trong đờ  sống tinh thần xã hội; kế  thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt d0e5p của tất cả các dân  tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, xây dựng một xã hội dân  chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. + Thực hiện  chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố  và mở  rộng   Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp  dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và  hữu nghị  tất cả  các nước trung thành với chủ  nghĩa quốc tế  của giai cấp   công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ  nghĩa, với tất cả  các lực   lượng đấu tranh vì hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên   thế giới. + Xây dựng chủ  nghĩa xã hội và bảo vệ  tổ  quốc là hai nhiệm vụ  chiến lược của cách mạng Việt Nam. 18
  19. + Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ  chức ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa   ở nước ta. Trên cơ  sở  tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế  thừa Cương lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ  sung phát triển năm  2011), Đảng ta đưa ra tám phương hướng lớn: + Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước  gắn với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường. + Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. + Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng  con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã   hội. + Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn  xã hội. + Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự  chủ, hòa bình, hữu   nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. + Xây dựng nền dân chủ  xã hội chủ  nghĩa, thực hiện đại đoàn kết   toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. + Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do  nhân dân, vì nhân dân. + Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh! Như  vậy Đảng ta không chỉ  xác định được xã hội mà chúng ta đang   xây dựng là một xã hội như  thế  nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo   những phương hướng cơ bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của   con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.  ­ Về  con đường đi lên chủ   nghĩa xã hội bỏ  qua chế  độ  tư  bản chủ   nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã   xác định quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta là sự  “ quá độ  gián tiếp”   trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác  định: “ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ  qua chế độ  tư  bản, từ một   xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất rất thấp” 19
  20. Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận   điểm trên cụ  thể  hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự  phát triển quá   độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc   xác lập vị  trí thống trị  của quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư  bản chủ  nghĩa, nhưng tiếp thu, kế  thừa những thành tựu mà nhân loại đã  đạt được dưới chế  độ  tư  bản chủ  n ghĩa, đặc biệt về  khoa học và công  nghệ  để  phát triển nhanh  lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế  hiện   đại. Tiếp theo Cương lĩnh ( bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ  nghĩa xã hội   ở  nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu  tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên  tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời   kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát  triển, nhiều hình thức tổ  chức kinh   tế xã hội đan xen. Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một  nước  thuộc địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa thì không thể quá độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp  theo phương  thức “phát triển rút ngắn”  lên chủ  nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất  yếu khách quan, hợp qui luật theo tiến trình phát triển lịch sử ­ tự nhiên, là  con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng  nhân dân lao động việt nam. Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa. Ngay từ đại  hội VI Đảng ta đã xác định mô hình quản lý kinh tế  tập trung, bao cấp   không còn phù hợp và nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng   của thời kỳ  quá độ. Vì vậy Đại hội VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo  cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước” Đồng thời, cụ thể hóa một   bước về  chế  độ  công hữu, đó là chế  độ  công hữu về  các tư  liệu sản xuất   chủ yếu”. Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị  trường định hướng xã hội   chủ  nghĩa được xác định rõ hơn nữa: “ nền kinh tế  hàng hóa nhiều thành   phần vận động theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước theo   20
nguon tai.lieu . vn