- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- TIỂU LUẬN: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự cường đổi mới và sáng tạo
Xem mẫu
- TIỂU LUẬN:
Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc
lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực
của tinh thần độc lập tự chủ tự cường đổi mới
và sáng tạo
A-
- B- Đặt vấn đề.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) là người con ưu tú nhất của dân tộc và là
một vĩ nhân của thời đại. Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân
chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trái tim, khối óc của Người
luôn dành cho dân tộc Việt Nam cũng như giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới một tình yêu bao la. Là người học trò trung thành của Các Mác và
Lênin, Hồ Chủ tịch chẳng những là một nhà yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ
xuất sắc trong phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc của thế kỷ
XX…
Trong diễn văn kỉ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:”
:” Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập gắn liền với CNXH, là mẫu mực
của tinh thần độc lập tự chủ tự cường đổi mới và sáng tạo”.Chúng ta hãy cùng nhau
phân tích và chứng minh nhận định trên.
B- Giải quyết vấn đề.
*/- Là học trò trung thành cua Cac Mac va Lenin, lấy tư tưởng của 2 người làm
tư tưởng chủ đạo, kết hợp với một khối óc vận dụng linh hoạt, Người là hiện thân sáng
chói của tư tưởng độc lập đân tộc gắn liền với CNXH.Điều này được thể hiện đầu tiên
ở mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với CNXH :
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
- Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn ấy
không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống thực
dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên hết, trước hết, nhiệm
vụ dân chủ cần thực hiện từng bước. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí Minh thể hiện rõ
nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn mạnh tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân
chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó
là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả
về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của
những chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập
giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi
hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung
- Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê,
Bana… đều là con dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán,
- mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất
đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh
phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân không
được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân
tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được
mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển
được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở,
tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên
một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng
có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc trong nước
bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm lao động thì chủ
nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao động mà không
làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng
có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật,
- chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày
một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất
cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả
của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc
chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành độc
lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so
sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ
nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ
Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất
hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện rõ nét
từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 - 1945
- Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thời
kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị
hợp nhất thông qua. Chính cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ trương "làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí
Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con
đường cách mạng vô sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý
nghĩa là:
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống lại độc
lập dân tộc.
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả những
ai có lòng yêu nước, thương nòi.
Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết,
giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự
lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ 1945 - 1954
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể hiện ở
những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng "vừa kháng
- chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng chiến hóa văn hóa,
văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai của
thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những cơ sở đầu tiên của
chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong t ư tưởng Hồ
Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã
đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh,
mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975.
- Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ
vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là
- một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho "rừng
cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân,
và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và
tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947,
Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt
chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và
đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi".
Như vậy trên đây chúng ta đã là rõ được 1 khía cạnh của vấn đề, một lần nữa
chúng ta có thể khẳng định rằng chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện thân sáng chói của tư
tưởng độc lập gắn liền với CNXH.
- */ - Nghiên cứu quá trình hoạt động cả về lý luận lẫn thực tiễn của Người, ta
thấy rằng vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong t ư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ý chí "không có gì
quý hơn độc lập tự do", là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, thể
hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của
con đường cách mạng nước ta. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm
20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức
và dũng cảm, chí khí và tự tôn"; về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân
tộc đã tự cường, tự lập". Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo,
Người đã tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt
Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước
và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do
Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua, trở thành
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt Nam đã được khẳng định.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề
của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác - Lenin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Từ những năm
20 của thế kỷ trước, trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng
- ở phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác chưa có
điều kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng. Trong Điều
lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo, một tư
tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản thân
giai cấp công nhân tự giành lấy". Hơn sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội
Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi
xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nỗ lực của bản thân anh em”. Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa
đối với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát
và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Người đã
chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải
phóng mình, không nên chỉ trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân
dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành
công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh
cũng dễ". Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những
quyết định lịch sử. Tháng 8-1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của
tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần
- "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi
hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm kháng chiến chống xâm
lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh
thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao
tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà". Nhân dân Việt Nam và tất cả
những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại
của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một
người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do". Với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ không có nghĩa
là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương: "Làm bạn với tất
cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Người đề cao việc học tập,
tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao
chép, giáo điều. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi
mới và sáng tạo.
Một trong những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh là "lấy dân làm
gốc", xác định mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân; Đảng và Nhà nước cũng như
mọi cán bộ, công chức phải tôn trọng, lắng ghe ý kiến nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân, hết lòng chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, thật sự là người lãnh dạo và là
người đày tớ trung thành của nhân dân. Phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách l ược trong một
- thời kỳ, một giai đoạn cách mạng mà là chiến lược cơ bản lâu dài xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta". Người đòi hỏi mỗi người, trước hết là đảng viên, phải giữ gìn sự đoàn kết, thống
nhất như "giữ gìn con ngươi của mắt mình". Đoàn kết là sức mạnh. Với truyền thống
đoàn kết, sức mạnh sẽ được nhân lên, trở thành nhân tố hàng đầu để giành và giữ độc
lập dân tộc, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa, thể hiện trong câu nói nổi tiếng của
Người:
“Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết Thành công, Thành công, Đại thành công”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết là "điểm mẹ". "Điểm này mà thực
hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt". Người nhấn mạnh: "Công, nông, trí cần phải đoàn
kết chặt chẽ thành một khối". Người còn chủ trương đoàn kết với tất cả những ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong xây dựng và
phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, Người chăm chú tìm kiếm, nâng niu, trân trọng
những điểm tương đồng, hạn chế, giảm dần những điểm khác biệt. Nguyên tắc được
Người nêu lên từ năm 1946 là: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn
dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế
khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều
lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà
cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ
vẻ vang". Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối,
- chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội IX của Đảng, đại hội
đầu tiên trong thế kỷ XXI, đã nêu rõ: "Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng
ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn
đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, Lấy mục tiêu độc lập,
thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân
tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng".Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu
sắc tới công tác xây dựng Đảng. Trong Di chúc, Người viết: "trước hết nói về Đảng".
Người rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Người cho rằng muôn
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, "cán bộ là gốc của mọi công
việc". Người luôn đòi hỏi mỗi người, nhất là người cán bộ cách mạng, phải có đạo đức
cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài,
trong đó đức là gốc. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân
dân, quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, bất kỳ khó khăn nào cũng
kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng, hòa
mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý
kiến của quần chúng, thực hiện cần kiệm, liêm chính, chí công vô t ư. Từ quan niệm về
đạo đức cách mạng nêu trên, Người coi đạo đức là cội nguồn của người cách mạng:
- "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" . Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, từ bản chất của mình con người luôn hướng tới sự hoàn thiện, hướng tới chân,
thiện, mỹ. Đạo đức định hướng việc hình thành nhân cách, mục tiêu, động cơ, ý chí
phấn đấu của mỗi con người. Đạo đức là nhân tố quyết định giúp người cách mạng
hoàn thành nhiệm vụ được giao; đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức phải được
xem xét toàn diện trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ đời công đến đời tư như sinh hoạt,
học tập, lao động, chiến đấu, lãnh đạo, quản lý... Người chỉ rõ: "Làm cách mạng để cải
tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". Từ truyền thống coi
trọng đạo đức của dân tộc và đức là gốc của người cán bộ trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta chủ trương: "đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính
trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các chuyên
gia, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức và
tài, đức là gốc" . Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi "xây" phải đi đôi với "chống", nâng
cao đạo đức cách mạng đi đôi với quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Ngay sau khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, Người đã căn dặn cán bộ phải chống những biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân. Năm 1955, Người lại nói rằng trong đội ngũ cán bộ của Đảng
và Nhà nước có những người "đang mang một ba lô chủ nghĩa cá nhân". Người rất
- quan tâm tới ý chí, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của các cá nhân nhưng phê phán
những người mắc chủ nghĩa cá nhân. Đối với những người này, bất kỳ làm việc gì
cũng xuất phát từ lòng ham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, không nghĩ đến
lợi ích của Đảng, của dân; họ chỉ đòi hỏi mọi người vì mình mà không nghĩ mình vì
mọi người. Người cho rằng chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, "là
mẹ đẻ ra mọi tính hư tật xấu". Do đó "thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách
rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân". Với ý nghĩa đó, Hồ Chí
Minh gọi chủ nghĩa cá nhân là "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng" và chống chủ nghĩa
cá nhân "là một cuộc cách mạng nội bộ".
Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong những tác phẩm, bài nói, bài viết
và toàn bộ cuộc đời của Người. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng
và hoạt động thực tiễn, giữa lời nói và việc làm, đồng thời Người nghiêm khắc đòi hỏi
cán bộ, đảng viên phải thực hiện yêu cầu đó. Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX,
trên trang nhất cuốn Đường cách mệnh - tác phẩm nhập môn của người chiến sĩ cách
mạng, Hồ Chí Minh nêu 23 điều của tư cách một người cách mệnh.Hai mươi năm sau,
trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Người cho rằng bổn phận của đảng viên là "làm
kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc". Chỉ có nói được, làm được, mới đến được
với quần chúng. Việc làm gương mẫu của cán bộ, đảng viên là lực hút mạnh mẽ để
nhân dân tin và đi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước". Người thường xuyên đòi hỏi những người cộng sản
- phải là tấm gương sống động trong thực tiễn chứ không chỉ tiên phong trong hội
trường, trên lời nói. Từ năm 1947 đến năm 1969, Hồ Chí Minh hơn mười lần nhắc nhở
cán bộ, đảng viên phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Cũng từ năm 1947, Người
đã nhận thấy và nghiêm khắc phê phán một số cán bộ: "chỉ biết nói là nói, nói giờ này
qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm
được". Là những người tiên phong, những người giữ vai trò lãnh đạo cho nên lời nói,
đặc biệt là việc làm của cán bộ, đảng viên, công chức luôn được nhân dân theo dõi, coi
là khuôn mẫu. Mỗi cán bộ, đảng viên và gia đình phải thật sự là tấm gương mọi mặt
cho quần chúng noi theo. Nếu cán bộ, đảng viên, công chức kêu gọi nhân dân cần
kiệm mà mình lười biếng, sống xa xỉ, lãng phí thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô
ích. Người so sánh "một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền" . Đối với Hồ Chí Minh, tình cảm cách mạng cao đẹp, trong sáng phải
được soi sáng bằng nhận thức khoa học và được chứng minh bởi những hành động
kiên quyết, dũng cảm, khéo léo để biến tình cảm, lý tưởng thành hiện thực. Trung với
nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức, là tình cảm cao quý của mỗi người đối với
dân, với nước nhưng phẩm chất, tình cảm ấy phải được chứng minh bằng hành động:
"nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng". Người dạy chúng ta quyết tâm không phải ở lời nói mà phải trong công tác,
trong hành động. Để đạt được điều đó, đối với một đảng, không thể chỉ dừng lại ở chủ
trương, đường lối mà phải có các biện pháp thích hợp và đặc biệt phải có quyết tâm
thực hiện.
Liên hệ với Việt Nam
- Theo gương chủ tich Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đang ngày càng nỗ
lực xây dựng môt nhà nước XHCH vững mạnh lấy dân làm gốc, tất cả đêu hướng tới
lợi ích của nhan dân. Trung thành và vận dụng sáng tạo T ư tưởng Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc
biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng và
nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong
lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi trước, những kinh
nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập khuôn; đã xác định đường lối đổi
mới với các bước đi thích hợp.Luôn xác định rõ chủ trương đúng đắn trong việc xây
dựng đội ngũ can bộ Đảng viên trong sạch vững mạnh, xứng đáng là nơi nhân dân đặt
niềm tin.
Trung thành với Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta rất
chú trọng việc nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ,
đảng viên. Qua rèn luyện, số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ được đạo đức, phẩm chất
cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Tuy nhiên, tình trạng
tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Bác Hồ dạy: "Muốn được dân tin, dân phục, dân
yêu, cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm,
trong sạch, chính đáng. Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn được lòng dân,
thì cũng như bắc dây leo trời". Hiện nay trong hệ thống chính trị của ta có một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả một số cán bộ, đảng viên cấp cao
không làm được bốn điều dạy đó, mắc vào chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực
- dụng. Họ đã gây thiệt hại về kinh tế, chiếm đoạt tài sản của nhân dân, xa rời nhân dân,
gây phiền hà cho nhân dân, gây mất đoàn kết nội bộ, đặc biệt là làm giảm sút niềm tin
của nhân dân. Đây thật sự là một nguy cơ đối với Đảng và Nhà nước ta. Cả hệ thống
chính trị nói chung và mỗi cấp, mỗi ngành nói riêng cần có những giải pháp thiết thực,
mạnh mẽ hơn nữa để thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII
và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4, khóa IX; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với cải cách hành chính, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình và tạo điều
kiện để nhân dân góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng viên, công chức; biểu dương những
cán bộ, đảng viên, công chức tốt, gương mẫu, được nhân dân tín nhiệm; kiên quyết
đấu tranh, xử lý kỷ luật và xét xử theo Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước những
người mắc lỗi, phạm tội, bất kể họ là ai. Cán bộ, đảng viên, công chức phải tu dưỡng
đạo đức suốt đời, gương mẫu chấp hành kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, có trách
nhiệm với gia đình trong việc thi hành luật pháp, thực hiện bằng được điều Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân"
Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình
hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng, trên cơ sở những quan điểm có tính
nguyên tắc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết, càng phải phát huy cao
độ tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt
- Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang
tận dụng mọi khả năng để thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng
cần khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân
nhân dân ta, do trí tuệ và sức lực của dân ta. Văn kiện Đại hội IX viết: "Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước".
Học tập, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần vận dụng tinh
thần cách mạng và khoa học của Người để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn đổi mới hiện nay, luôn luôn gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn
mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận, trước hết về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta và công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
nguon tai.lieu . vn