Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai
  2. Lời mở đầu Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, xây dựng kinh tế hàng hoá niều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Bước vào cơ chế kinh tế mới là lực lượng rất đông đảo các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước. Bên cạnh đó là sự chi phối trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực của hàng loạt các quy luật kinh tế thị trường đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là quy luật cạnh tranh. Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải vươn lên đáp ứng trong cạnh tranh, thực hiện tốt các khâu của quá trình sản xuất và cuối cùng là phải làm ăn có lãi tức là có lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, lợi nhuận đã trở thành nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu, là cái đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều theo đuổi. Kể từ ngày thành lập đến nay, cùng với sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên và sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tổng công ty Xây dựng và Phát triển nông thôn- đơn vị chủ quản-Công ty may xuất khẩu Phương Mai đã từng bước khắc phục khó khăn, đạt được những bước tiến nhất định. Thành tích đó là những kết quả của những mục tiêu, chính sách đầu tư đúng đắn mà mục tiêu hàng đầu như mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lợi nhuận và lợi nhuận phải tăng theo các năm. Với mục tiêu nghiên cứu về vấn đề lợi nhuận và xuất phát từ tầm quan trọng của lợi nhuận tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai” làm luận văn tốt nghiệp.
  3. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I.Lợi nhuận của doanh nghiệp 1.Khái niệm, nguồn gốc lợi nhuận doanh nghiệp Tuỳ theo quan điểm và góc độ xem xét, đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về lợi nhuận: -Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng: “ Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận”. Theo Ađam Smith, lợi nhuận là “ khoản khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo David Ricardo, lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công. -K.Mark thì khẳng định: “ Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị của hàng hóa, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận”. -Các nhà kinh tế học tư sản hiện đại như P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus lại cho rằng: “ Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi”, hay nói cách khác: “ Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí”. Như vậy, xét về mặt lượng các định nghĩa đều thống nhất rằng: Lợi nhuận là số thu dôi ra so với chi phí đã bỏ ra. Từ góc độ doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu từ các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. Nguồn gốc của lợi nhuận cũng là một chủ đề được các nhà kinh tế học tranh cãi. -Chủ nghĩa trọng thương cho rằng: “ Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông. Lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt”.
  4. -Chủ nghĩa trọng nông lại khẳng định: “ Nguồn gốc sự giàu có của xã hội là thu nhập trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp”. -Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh mà đại diện là Adam Smith lại cho rằng: “ Lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản”. Ông đã không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư nên đã tuyên bố: “ Lợi nhuận chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư”. Còn D.Ricardo lại không biết đến giá trị thặng dư. -Kế thừa có chọn lọc các nhân tố khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển, kết hợp với phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật, K.Mark đã xây dựng thành công lý luận về hàng hoá sức lao động – cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết luận: “ Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, mang hình thái biến tướng là lợi nhuận”. -Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân tích thực tế thì kết luận rằng nguồn gốc của lợi nhuận doanh nghiệp gồm: thu nhập mặc nhiên từ các nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư cho kinh doanh; phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền. Như vậy từ trên ta có thể thấy rằng: lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại được hay không điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là đòn bẩy quan trọng, là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá thiết bị, sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm và hợp lý … nhằm tối thiểu hoá chi phí, không ngừng nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử dụng kĩ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Tóm lại, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. 2.Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất
  5. đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì: -Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng vì thế nó chịu ảnh h ưởng bởi nhiều yếu tố: có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố thuộc về khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. -Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được sẽ khác nhau. Những doanh nghiệp lớn dù công tác quản lý kém số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Cho nên để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận. Có nhiều cách xác định tỷ suất lợi nhuận, mỗi cách có nội dung kinh tế khác nhau. Sau đây là một số cách tính tỷ suất lợi nhuận thường gặp: 2.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn Tỷ suất lợi nhuận vốn là quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng nguồn vốn trong kỳ. P Công thức: TV  100% V Trong đó: TV :Tỷ suất lợi nhuận vốn. P : Lợi nhuận sau thuế.
  6. V : Tổng nguồn vốn trong kỳ. Ta có thể thay mẫu số bằng vốn cố định, vốn lưu động, vốn tự có của doanh nghiệp để tính các tỷ suất lợi nhuận tương ứng. Chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn bỏ vào đầu tư sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó cho phép đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về quy mô sản xuất. 2.2.Tỷ suất lợi nhuận giá thành Tỷ suất lợi nhuận giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận thu được so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Công thức: Trong đó: Tg: T ỷ suất lợi nhuận giá thành. P: Lợi nhuận thu được (lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế). Zt: Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Tỷ suất lợi nhuận giá thành phản ánh hiệu quả kinh tế tính theo lợi nhuận của chi phí sản xuất. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.3.Tỷ suất lợi nhuận doanh thu Tỷ suất lợi nhuận doanh thu là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế so với doanh thu thuần của doanh nghiệp. P Công thức: T dt  * 100 % T Trong đó: Tdt: Tỷ suất lợi nhuận doanh thu. P: Lợi nhuận sau thuế.
  7. T: Doanh thu thuần. Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng doanh thu có bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ suất chung của toàn ngành chứng tỏ doanh nghiệp bán hàng với giá thấp hoặc giá thành sản phẩm của doanh nghiệp cao h ơn so với doanh nghiệp cùng ngành. Chỉ tiêu cao hay thấp phụ thuộc vào đặc thù của từng ngành sản xuất vào phương hướng sản xuất kinh doanh của từng ngành. Như vậy, nhiệm vụ đối với các doanh nghiệp không chỉ là phấn đấu tăng lợi nhuận mà hơn thế phải làm tăng tỷ suất lợi nhuận. 3.Vai trò của lợi nhuận Để thấy được vai trò của lợi nhuận, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu lợi nhuận được phân phối như thế nào. Phân phối lợi nhuận không phải là việc phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra đối với doanh nghiệp. Việc phân phối đúng đắn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp tục công việc kinh doanh của mình. Lợi nhuận thực hiện cả năm được phân phối theo thứ tự sau đây: 1. Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo luật định. 2. Nộp tiền thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước ( áp dụng đối với doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước). 3. Trả các khoản tiền bị phạt, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ chưa được trừ khi xây dựng thuế thu nhập phải nộp. 4. Trả các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế. 5. Trích lập các quỹ đặc biệt theo tỷ lệ do Nhà nước quy định (đối với doanh nghiệp kinh doanh trong một số ngành đặc thù mà pháp luật quy định).
  8. 6. Chia lãi cho các đối tác góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. 7. Trích lập các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp gồm: Quỹ đầu tư phát triển: dùng để đầu tư phát triển kinh doanh. Quỹ dự phòng tài chính: dùng để bù đắp những thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: dùng để chi cho việc đào tạo công nhân do thay đổi công nghệ, đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ, trợ cấp mất việc làm cho lao động thường xuyên trong doanh nghiệp nay bị mất việc làm. Quỹ phúc lợi: dùng để đầu tư cho các công trình phúc lợi cho doanh nghiệp, chi cho các hoạt động phúc lợi của doanh nghiệp, làm công tác từ thiện… Quỹ khen thưởng: dùng để thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp; thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến mang lại hệu quả trong kinh doanh… Từ việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp, ta thấy lợi nhuận không những duy trì sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Lợi nhuận đáp ứng và kết hợp hài hoà các lợi ích, lợi ích của người lao động và toàn xã hội. 3.1. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế quốc dân Thông qua việc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước của các doanh nghiệp, lợi nhuận đã góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Thực tế ở Việt Nam, thuế đã trở thành nguồn thu quan trọng chiếm khoảng 80% tổng thu ngân sách Nhà n ước mà trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy, lợi nhuận góp phần để ngân sách Nhà nước thực hiện các vai trò của mình về mặt kinh tế đó là để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường, là tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh tức là lợi nhuận đã trở thành nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân.
  9. 3.2. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp Nếu như cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã biến các doanh nghiệp trở thành những tổng kho thực hiện việc giao nộp, cung ứng một cách đơn thuần dẫn đến thủ tiêu tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi tách rời chức năng sản xuất và kinh doanh, doanh nghiệp sẽ hoàn toàn không quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận vì giá cả thì được định trước còn sản phẩm thì luôn luôn có người mua. Ngược lại trong cơ chế thị trường, lợi nhuận lại giữ một vị trí quan trọng trọng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạch toán kinh doanh theo c ơ chế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không, điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng, là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách để nâng cao năng suất lao động, hiện đại hoá trang thiết bị, sử dụng nguyên vật liệu tiết kiệm và hợp lý….nhằm tối thiểu hoá chi phí, không ngừng nâng cao lợi nhuận. Lợi nhuận đã trở thành động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ các khu vực có ít người tiêu dùng, lợi nhuận đưa các doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản xuất hiệu quả nhất. Tóm lại, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, là cái đích cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới.  Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy lợi nhuận chính là thước đo đo lường kết quả của sự nỗ lực của doanh nghiệp, của tất cả những cố gắng từ khâu tìm hiểu thị trường, tiến hành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đến phân phối sản phẩm. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả của việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất. Có thể nói, vai trò đầu tiên của lợi nhuận là thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình và sau đó nó lại đo lường, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
  10.  Lợi nhuận tác động đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Thật vậy, lợi nhuận sau khi nộp thuế cho Nhà nước và chi trả các khoản phạt, các chi phí khác sẽ được dùng để hình thành và phát triển các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp. Các quỹ này thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp để mà tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng. Có tự chủ về tài chính, doanh nghiệp mới có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất. Rõ ràng lợi nhuận là yếu tố quết định cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay. 3.3. Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động Lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống người lao động thông qua các hình thức khen thưởng, trợ cấp … mà các hình thức này chỉ có khi doanh nghiệp thu được lãi. Lãi càng lớn, người lao động càng được hưởng nhiều. Bởi vậy lợi nhuận cũng là một nhân tố khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu….nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận. Từ vai trò của lợi nhuận đối với toàn xã hội cũng như với doanh nghiệp ta thấy sự cần thiết tất yếu của việc doanh nghiệp phải phấn đấu kinh doanh thu được lợi nhuận và hơn thế, lợi nhuận ngày càng phải tăng. II. Phương pháp xác định và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp 1.Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp 1.1.Các bộ phận cấu thành lợi nhuận doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường gồm: Hoạt động sản xuất kinh doanh: là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các ngành kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ.
  11. Hoạt động tài chính: là hoạt động đầu tư về vốn và đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn với mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ… Hoạt động bất thường: là hoạt động diễn ra không thường xuyên, không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện như giải quyết các vấn đề tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa, thiếu chưa rõ nguyên nhân… Trên cơ sở ba hoạt động chính, lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành từ ba bộ phận sau: -Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh ( LNKD). -Lợi nhuận từ hoạt động tài chính ( LNTC ). -Lợi nhuận từ hoạt động bất thường ( LNBT ). Thực tế tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp do các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng nh ư môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau: Thứ nhất: Cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường khác với các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. Vì thế cơ cấu lợi nhuận trong doanh nghiệp thường có ba bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Trong ba bộ phận kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó, khác với nhóm doanh nghiệp thông thường cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng chỉ gồm 2 bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động trên lĩnh vực tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng lợi nhuận đó là do họ thực hiện
  12. kinh doanh hàng hoá đặc biệt- kinh doanh tiền tệ nên hoạt động tài chính cũng chính là hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai: Trong các môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có sự khác về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của mình. Lấy ví dụ là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường cơ cấu tổng lợi nhuận gồm 3 phần. Khi nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ cao hoạt động thị trường tài chính, thị trường chứng khoán diễn ra sôi nổi, hiệu quả thì tất yếu hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng được phát triển. Lúc này, lợi nhuận từ hoạt động tài chính sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể, không kém gì lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại khi nền kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động thị trường tài chính và hoạt động thị trường chứng khoán chưa phát triển, hoạt động tài chính sẽ rất hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ sở đầu tư tài chính thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện hoạt động đầu tư đó. Vì vậy, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp, đóng vai trò quyết định đến mọi hoạt động doanh nghiệp. Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường gồm 3 bộ phận: lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Nhìn chung, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn chiếm tỷ trọng lớn và quyết định trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này cho ta một định hướng rõ nét khi phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp. Về nguyên tắc khi phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp, cần phải phân tích các bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận. Nhưng trong thực tế đôi khi nguyên tắc đó có thể thay đổi đó là khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp còn rất hạn chế còn lợi nhuận từ hoạt động bất thường chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận cơ bản trong tổng lợi nhuận. Trong điều kiện đó sẽ thiết thực khi ta tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận
  13. lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là lý do lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh được quan tâm hơn trong đề tài này. 1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp Lợi nhuận của doanh nghiệp thu được từ ba hoạt động bao gồm: Hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Vì vậy lợi nhuận doanh nghiệp đựoc tính như sau: Lợi nhuận doanh nghiệp = LNKD + LNTC + LNBT Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ của các ngành sản xuất kinh doanh chính và sản xuất kinh doanh phụ trong doanh nghiệp. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (LNHĐSXKD) được xác định bằng công thức sau: n LNKD=  QiPi  (Qi Z i  Qi * CPi  Qi Ti ) i 1 Trong đó: LNKD: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Q i: Khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ thứ của sản phẩm thứ i. Pi: Giá bán đơn vị của sản phẩm thứ i. Zi: Giá thành hay giá vốn hàng bán thứ của sản phẩm thứ i. CPi: Chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng của sản phẩm thứ i. Ti: Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT của sản phẩm thứ i.
  14. Như vậy, bộ phận lợi nhuận này được xác định là chênh lệch giữa doanh thu thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ. LNKD = DTT – Chi phí SXKD. - Xác định doanh thu thuần. Doanh thu thuần = Tổng doanh thu –Các khoản giảm trừ chi phí = Tổng doanh thu – Chiết khấu giảm giá bán hàng – Hàng bán bị trả lại – Thuế phải nộp. Trong đó : + Doanh thu thuần : là chênh lệch giữa tổng doanh thu và các khoản trừ doanh thu. + Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng): là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm, hàng hoá, cung cấp, lao vụ, dịch vụ cho khách hàng. Thời điểm để xác định doanh thu là từ khi người mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã thanh toán hay chưa. + Các khoản giảm trừ doanh thu gồm: Chiết khấu bán hàng là số tiền thưởng tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn quy định. Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách …. Ngoài ra còn bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng hàng lớn hoặc giảm trừ cho khách hàng mua khối lượng hàng hoá trong một đợt. Hàng bán bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận thanh toán) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
  15. Các khoản thuế phải nộp như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu…. - Xác định chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho khách hàng trong một thời kỳ ( tương ứng với kỳ tính doanh thu) được xác định bằng công thức: Chi phí SXKD = Giá vốn hàng bán + Chi phí QLDN + Chi phí bán hàng. Trong đó: + Giá vốn hàng bán được xác định như sau: Đối với doanh nghiệp sản xuất: Giá vốn hàng bán = Giá vốn hàng mua +Chênh lệch hàng hoá tồn kho. Chênh lệch hàng tồn kho = Hàng hoá tồn kho đầu kỳ – Hàng hoá tồn kho cuối kỳ. Giá thành sản xuất bao gồm 3 yếu tố chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. + Chi phí bán hàng là những khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, lao vụ, dịch vụ trong kỳ như chi phí nhân viên bán hàng, chi phí dịch vụ bán hàng, chi phí quảng cáo… + Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ một hoạt động nào như chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và chi phí chung khác. Tóm lại: LNKD = Tổng DT - Chiết khấu bán hàng - Giảm giá hàng bán - Hàng bán bị trả lại - Thuế gián thu - Giá vốn hàng bán - Chi phí QLDN - Chi phí bán hàng.
  16. = DT bán hàng - Giá vốn hàng bán- Chi phí QLDN - Chi phí bán hàng. = Lãi gộp – Chi phí QLDN – Chi phí bán hàng. Như vậy, để xác định lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải căn cứ vào toàn bộ số liệu kế toán của kỳ sản xuất. Mặc dù những khái niệm và công thức trên rất đơn giản nhưng trong thực tiễn để đảm bảo cho việc tính toán được chính xác thì lại rất phức tạp. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính là lợi nhuận thu được từ các hoạt động tài chính như lợi nhuận do tham gia góp vốn liên doanh, do hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, cho thuê tài sản, cho vay vốn, bán ngoại tệ… Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định là chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. LNTC = Thu nhập HĐTC – Chi phí HĐTC. Trong đó: + Thu nhập hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại. + Chi phí hoạt động tài chính: là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn như lỗ liên doanh, lỗ do kinh doanh chứng khoán. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường là những khoản thu được từ các hoạt động xảy ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp như lợi nhuận thu được từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, từ các khoản nợ khó đòi đã xoá sổ nay thu lại được…
  17. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường được xác định là chênh lệch giữa thu nhập hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường LNBT = Thu nhập HĐBT– Chi phí HĐBT. Trong đó: + Thu nhập hoạt động bất thường là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu không xảy ra một cách th ường xyuên như thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu được từ các khoản nợ khó đòi, thu về do thanh lý, nhượng bán tài sản cố định… + Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp đem lại như chi phạt thuế, truy nộp thuế, bị phạt tiền do vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định… Tóm lại, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp phải xuất phát từ việc xác định các bộ phận cấu thành lợi nhuận. Cách xác định lợi nhuận như trên là đơn giản, dễ tính vì thế nó được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Tuy vậy đối với những doanh nghiệp sản xuất nhiều mặt hàng thì khối lượng công việc sẽ rất lớn. Tập hợp chi phí chung và phân bổ chúng cho các đối tượng thích hợp là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Nó đòi hỏi sự phản ánh chính xác, trung thực mới không bị sai lệch. 2.Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp + Quan hệ cung - cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. + Doanh thu. +Chi phí.
  18. Lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của tất cả các khâu trong quá trình này. Vì thế, để có thể “ tối đa hoá lợi nhuận”, điều tất yếu là doanh nghiệp phải xem xét, đánh giá các yếu tố tác động tới nó, nhằm khuyến khích, phát triển các yếu tố tích cực và hạn chế các yếu tố tiêu cực. 2.1. Quan hệ cung- cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường Doanh nghiệp nào cũng phải hoạt động trong một môi trường nhất định nên yếu tố đầu tiên tác động tới doanh nghiệp nói chung cũng như hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nói riêng chính là thị trường với các mối quan hệ của nó. Thị trường trả lời cho doanh nghiệp ba câu hỏi lớn: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Trên cơ sở đó, doanh nghiệp lựa chọn sản phẩm mà thị trường cần, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mới bỏ ra chi phí và thu về doanh thu. Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và người bán hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Như vậy, nói đến thị trường và cơ chế thị trường trước hết phải nói đến hàng hoá, người mua và người bán. Cung cầu hàng hóa là khái quát của hai lực lượng người mua và người bán trên thị trường. Khi nói đến cung, cầu hàng hóa, dịch vụ ở đây là chúng ta nói đến cung có khả năng đáp ứng và cầu có khả năng thanh toán. Chính nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường sẽ quyết định lượng cung ứng của doanh nghiệp. Khi cầu có khả năng thanh toán của xã hội đối với sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp sẽ bán được nhiều sản phẩm với mức giá có xu hướng tăng, nên thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại, khi nhu cầu này giảm xuống lượng sản phẩm tiêu thụ giảm đi, mức lợi nhuận của doanh nghiệp cũng sẽ giảm xuống. Như vậy, quan hệ cung cầu có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.2. Doanh thu Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
  19. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, doanh thu có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận: Doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và ngược lại. Đồng thời, lợi nhuận cũng chịu sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu như sau: + Khối lượng sản phẩm tiêu thụ Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khối lượng sản phẩm tiêu thụ có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận doanh nghiệp. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng, lợi nhuận tăng và khi khối lượng sản phẩm tiêu thụ giảm, lợi nhuận giảm. Đây được coi là yếu tố chủ quan tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký kết hợp đồng tiêu thụ, việc vận chuyển giao hàng, thu tiền hàng… Khối lượng tiêu thụ tăng phản ánh những nỗ lực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. + Kết cấu sản phẩm tiêu thụ Mỗi loại mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất có mức lỗ lãi khác nhau bởi chúng có doanh thu và chi phí khác nhau. Vì thế khi các yếu tố không thay đổi thì sự biến đổi của kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ có ảnh hưởng đến doanh thu và sự tăng giảm lợi nhuận. Trong thực tế, nếu tăng tỷ trọng bán ra của những mặt hàng có lợi nhuận cao, đồng thời giảm tỷ trọng những mặt hàng có lợi nhuận thấp thì tổng lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng lên. Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ trước hết là do tác động của thị trường. Do vậy nhà quản lý cần đi sâu tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường để có những biện pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng thêm lợi nhuận doanh nghiệp. + Giá bán sản phẩm Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, đây là yếu tố có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận: giá bán tăng thì lợi nhuận tăng và ngược lại. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là khi nhu cầu tăng lên hay giảm xuống doanh nghiệp nên đưa ra mức giá nào cho phù hợp? Giá cao, thu lợi nhuận nhiều thì sau một thời gian khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ giảm bớt. Giá thấp thì lợi nhuận thu được ít. Vì vậy, doanh nghiệp cần xây dựng một
  20. chính sách giá cả hợp lý nhằm đáp ứng được các mục tiêu trong từng giai đoạn nhất định. + Hàng bán bị trả lại Hàng bán bị trả lại làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp, phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý chất lượng và tổ chức công tác tiêu thụ. Bởi vậy, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao, đầu tư sản xuất nhằm tránh trường hợp này. + Chiết khấu bán hàng Chiết khấu bán hàng là một biện pháp kích thích người mua thanh toán nhanh tiền hàng. Tuy nhiên nếu chiết khấu nhiều sẽ làm giảm lợi nhuận. Bởi vậy người quản lý phải biết sử dụng công cụ này sao cho vừa đảm bảo thu hồi nhanh tiền hàng, vừa đảm bảo có lãi. Thông thường mức chiết khấu tối đa chỉ bằng chi phí thu tiền hàng, chi phí cơ hội do bị chiếm dụng vốn. + Giảm giá hàng bán Giảm giá hàng bán có thể là biện pháp kích thích người mua ( bớt giá, hồi giá) cũng có thể là do yếu kém của doanh nghiệp. Tuy nhiên do giảm giá hàng bán làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp nên ngay cả khi bớt giá, hồi khấu giá cũng phải liên hệ với lợi nhuận sao cho lợi nhuận tăng về tổng số. Còn trường hợp giảm giá thực sự do yếu kém của doanh nghiệp thì cần tìm mọi biện pháp khắc phục. 2.3.Chi phí Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, chi phí và lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau: chi phí tăng, lợi nhuận giảm và ngược lại. + Giá vốn hàng bán Giá vốn hàng bán là một trong những yếu tố quan trọng, chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất, thu mua liên quan đến hàng tiêu thụ sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên và ngược lại. Yếu tố này chịu ảnh hưởng của nhiều tác động khác như công tác quản
nguon tai.lieu . vn