- Trang Chủ
- Tài chính - Ngân hàng
- Tiểu luận môn Tài chính phát triển: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ nợ công và tăng trưởng kinh tế (Liên hệ ở Việt Nam)
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN
Nhóm …
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
(LIÊN HỆ Ở VIỆT NAM)
Cần Thơ, tháng 12/2019
- MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
..............................................................................................
1
MỤC LỤC
...................................................................................................................................
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
.............................................................................................................................
3
PHẦN NỘI DUNG
.....................................................................................................................
4
1.TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
...................
4
1.1.KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ CÔNG
.....................
4
1.2.KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 6
...
2.NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ
................................................................................................................................................
8
2.1.NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 8
..
2.2.NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH Tế 10
.....
Bảng 1: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam
.......................................
11
Bảng 2. Cac chi tiêu vê n
́ ̉ ̀ ợ công va n ̀ ợ nước ngoai cua quôc gia giai đo
̀ ̉ ́ ạn 2014 2018 12
.......
2.3.HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CÔNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
...................................................................................................................................
17
NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN CHUNG
....................................................................................
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.........................................................................................................
25
2
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đi vay nợ để thúc đẩy phát triển đối với một quốc gia cũng giống
như một doanh nghiệp, đó chính là cách để huy động vốn cho sự phát triển
quen thuộc trên thế giới. Trong kinh doanh, không ở đâu có thể phát triển mà
không đi vay mượn. Thực tế cho thấy những nền kinh tế lớn nhất trên thế
giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, cũng chính là những con nợ kếch xù.
Nợ công, dùng để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ
nhằm các mục đích khác nhau, chiếm một phần trong những khoản vay đó.
Tuy nhiên, thực tế các nước cho thấy, việc vay nợ và chi tiêu lãng phí, sử
dụng kém hiệu quả đồng nợ của Chính phủ đã khiến cho nhiều nước rơi vào
tình trạng khủng hoảng nợ công mà các nước Châu Âu, điển hình là Hy Lạp
là ví dụ. Đây cũng là vấn đề được các nước đặc biệt quan tâm, trong đó có
Việt Nam.
Nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu về ngưỡng nợ mà tại đó tăng trưởng
kinh tế đạt tốc độ tối đa và khi vượt qua ngưỡng này thì tăng trưởng kinh tế
giảm sút rồi từ đó đưa ra những kiến nghị cho quốc gia đó về vấn đề quản lý
nợ công. Tuy nhiên, mỗi nước khác nhau có ngưỡng nợ công khác nhau.
Từ những vấn đề nêu trên, nhóm chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa nợ
công và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của
nhóm.
3
- PHẦN NỘI DUNG
1. TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NỢ CÔNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA NỢ
CÔNG
1.1.1. Khái quát về nợ công
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ và có nhiều
chuyển biến khó lường, điển hình là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ
cuối năm 2008, đầu năm 2009, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp đang lan sang
một số nước châu Âu, nợ công và quản lý nợ công trở thành vấn đề nóng
được các nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Trong quá
khứ, khủng hoảng nợ công cũng đã được biết đến vào đầu thập niên 80 của
Thế kỷ XX. Năm 1982, Mêhicô là quốc gia đầu tiên tuyên bố không trả
được nợ vay Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Đến tháng 101983, 27 quốc gia với
tổng số nợ lên tới 240 tỉ USD đã tuyên bố hoặc chuẩn bị tuyên bố hoãn trả nợ
(1). Tuy nhiên, đến nay xung quanh khái niệm và nội hàm của nợ công vẫn
còn nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF, nợ công, theo nghĩa rộng, là
nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung
ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức
độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách nhà nước (NSNN) quyết định hay
trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước
phải trả nợ thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của
chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức
độc lập được chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao
gồm: nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa
phương. Theo đó, nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong
nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy
quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm
khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của
doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được
Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền
phát hành.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ; khi chi tiêu của
chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được, nhà nước phải đi vay (trong
4
- hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ
phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để
bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế:
hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách
đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho
các hoạt động chi ngân sách. Hay nói cách khác, việc nhà nước đi vay nợ
chẳng qua là một hình thức thu thuế trước. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển
giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế
hệ được giảm thuế).
1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ công
Việc vay nợ của chính phủ nếu xét từ góc độ vay để đầu tư phát triển
thì nếu đầu tư có hiệu quả thì sẽ tạo được khoản thu thuế trong tương lai,
tạo điều kiện cho việc trả hết nợ. Nhưng nếu việc tiếp cận với nguồn vốn
đầu tư nước ngoài quá dễ dãi mà việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu
quả sẽ dẫn đến chính phủ vay nợ để đầu tư quá nhiều lĩnh vực cùng một lúc
nhưng chậm và khó thu hồi vốn để trả nợ vay. Để giải quyết vấn đề này,
chính phủ lại phải tiếp tục vay nợ mới để trả nợ cũ. Tình trạng này dẫn đến
nợ công kéo dài. Và nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế tụt giảm, chính phủ
sẽ không thể tăng thu thuế để bù đắp. Đều này sẽ dẫn đến gia tăng nợ công.
Một ví dụ điển hình cho nguyên nhân gây ra nợ công từ việc đầu tư
công không hiệu quả nói trên là tình trạng ở Việt Nam trong thời gian qua. Ở
nước ta hiện có 194 khu công nghiệp với tổng diện tích gần 46.600 ha, cùng
với 1.643 cụm công nghiệp với gần 73.000 ha do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
phê duyệt quy hoạch đến năm 2020. Chính phủ cũng đã phê duyệt 15 dự án
khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 662 nghìn ha (2% diện tích tự nhiên
của Việt Nam), ước tính cần 2.000 tỷ đôla (bằng toàn bộ đầu tư cả nước
trong 50 năm nữa) để đầu tư. Năm 2011, cả nước thực hiện xiết chặt đầu tư
công theo tinh thần Nghị quyết 11/CP, nhưng vẫn có đến 333 dự án mới sai
đối tượng, không thuộc danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ mà vẫn
được khởi công ... Nhìn tổng quát, tốc độ tăng đầu tư công trong mười năm
qua cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực DNNN (doanh nghiệp nhà
nước) được hưởng nhiều nguồn lợi nhất và chiếm tỷ trọng đầu tư xã hội cao
nhất lại có hiệu quả đầu tư thấp nhất.
Đầu tư công cao và kém hiệu quả trong bối cảnh tiết kiệm của Việt
Nam giảm là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát tăng, lãi
suất thị trường tăng cao và nhất là làm nợ công tăng nhanh.
Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến là việc vay nợ để chi thường xuyên
dẫn đến thâm hụt ngân sách mà không được bù đắp. Nguyên nhân này xuất
phát từ nhiều vấn đề khác nhau như: tình trạng tham nhũng làm tăng chi tiêu
chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức, vấn đề trốn thuế
và hoạt động kinh tế ngầm làm giảm nguồn thu ngân sách, việc tiết kiệm
5
- trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công.
Đối với cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu trong thời gian qua, có
nhiều nguyên nhân được các chuyên gia chỉ rõ. Với từng quốc gia, đó là khả
năng quản trị công yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc mất kiểm soát các
hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng... Với cả khu vực, đó là thói quen
"chi nhiều hơn thu" kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to.
Để đối phó cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, châu Âu dễ dàng
vay mượn quá mức, không tương thích tốc độ tăng trưởng kinh tế và vì thế
đẩy tình trạng thâm hụt ngân sách và mức nợ công tăng chóng mặt, vượt khả
năng kiểm soát.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Có nhiều quan điểm về tăng trưởng kinh tế (TTKT), nhưng về cơ bản
đều thống nhất khi cho rằng, TTKT được hiểu là sự tăng lên về số lượng,
chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ
nhất định.
Có thể khẳng định rằng: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về sản
lượng hàng hóa, sự mở rộng về quy mô sản xuất, sự tăng lên của thu nhập
quốc dân (GDP) và sự tăng lên của thu nhập quốc dân đầu người nhưng
không làm tổn hại đến tương lai.
Để phản ánh mức độ TTKT, các nhà kinh tế thường dùng nhóm chỉ số
dưới đây: Tổng giá trị sản xuất (GO); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP); Tổng
thu nhập quốc gia (GNI); Tổng sản phẩm quốc gia (GNP); Tổng sản ph ẩm
quốc dân ròng (NNP); Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI); Thu nhập quốc gia
trên đầu người.
GNP, GNI, GDP, NNP, NDI, GO và thu nhập quốc dân trên đầu người
là các thước đo trạng thái tăng trưởng kinh tế. Mỗi chỉ tiêu đều có ý nghĩa
nhất định và được sử dụng tùy theo mục đích nghiên cứu. Nó là những số đo
mang tính chất tương đối các trạng thái và tốc độ biến đổi của TTKT. Trong
các chỉ tiêu nói trên thì tổng sản phẩm quốc nội GDP là phương thức tốt nhất
để đo lường hoạt động kinh tế của một quốc gia.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Từ lý thuyết và thực nghiệm của các trường phái kinh tế khác nhau về
TTKT, có thể thấy ở các nền kinh tế khác nhau, các yếu tố chính quyết định
đến TTKT đều bao gồm: vốn, lao động, khoa học và công nghệ, tài nguyên,...
Dựa vào tính chất và nội dung, các nhân tố này có thể được phân chia thành
các nhóm khác nhau.
Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung: Những nhân tố tổng cung
6
- ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế gồm: Vốn (K); Lao động (L); Khoa học
và công nghệ (T); Tài nguyên thiên nhiên (R).
Các nhân tố tác động đến tổng cầu: Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4
nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu, bao gồm: Chi cho tiêu dùng cá nhân (C); Chi
tiêu của Chính phủ (G); Chi cho đầu tư (I); Chi qua hoạt động xuất nhập
khẩu (NX = X – M).
7
- 2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ NỢ CÔNG VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
2.1. NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Chúng ta có thể thấy mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng rõ nét
nhất khi nghiên cứu về cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước phát triển, đển
hình là Liên minh châu Âu và Mỹ.
Khủng hoảng nợ công gia tăng ở Liên minh châu Âu (EU) cùng sự sụt
giảm nhanh chóng của đồng USD kéo nền kinh tế thế giới đi xuống. Chính vì
lẽ đó, các Bộ trưởng Tài chính toàn cầu trong cuộc họp thuộc khuôn khổ Hội
nghị thường niên IMF và WB sáng 13/10/2012 tại thủ đô Tokyo (Nhật Bản)
đã hối thúc các quốc gia thành viên sớm hoàn tất chính sách quản lý tài chính
mới, giảm triệt để nợ công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước và thế
giới.
Trong một thông cáo được đưa ra ngày 13/10/2012, Ủy ban tài chính và
tiền tệ quốc tế (IMFC) thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã kêu gọi các nước
phải nhanh chóng hành động và hành động một cách có hiệu quả nhằm bảo
toàn sự phát triển của nền kinh tế hiện tại, xây dựng lại lòng tin và cuối cùng
là thúc đẩy kinh tế phát triển hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với tuyên bố
trước đó của Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde rằng, nợ công của các
nước phát triển đã lên đến mức 110% GDP năm 2012 và lên đến 113% GDP
trong năm 2013.
Hai năm qua, sự tiến triển chậm chạp trong việc giải quyết vấn đề nợ
công ở châu Âu đã gây tổn thất 2.800 tỷ euro tài sản. Và nếu các nhà hoạch
định chính sách châu Âu không thực hiện cam kết về thiết lập một cơ quan
giám sát ngân hàng và các nước ngoại vi không triển khai các chương trình
điều chỉnh, con số thậm chí có thể lớn hơn, với 4.500 tỷ euro tài sản bị mất
và kèm theo là những ảnh hưởng đối với thị trường việc làm và đầu tư. Ông
Lael Brainard – Thứ trưởng Bộ Tài chính Mỹ đã nói trong một bài trả lời
phỏng vấn hôm 12/10/2011 rằng cuộc khủng hoảng nợ của khu vực đồng
tiền chung châu Âu “là hiện thân cho những sự rủi ro nghiêm trọng đối với sự
phục hồi của toàn cầu hiện nay”.
Theo nhận định của các nhà phân tích cuộc khủng hoảng nợ công ở các
nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp
tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của eurozone. Việc
cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ.
Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha… sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro.
8
- Vì thế, Châu Âu đã rơi vào cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình
trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Do đó, tăng trưởng kinh tế của khu vực
này chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh
tế phát triển khác.
Điều đáng lo ngại, như Tổng Giám đốc IMF từng cảnh báo, là những
vấn đề của khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) có thể lan tới các thị
trường mới nổi, nơi tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Trong khi đó, các
nước ở Trung và Đông Âu trong tình trạng dễ bị tổn thương nhất trước các cú
sốc tài chính, do gắn nhiều với Eurozone và các món nợ nước ngoài.
Vào thời điểm đó, kinh tế Mỹ vẫn trầy trật trên con đường phục hồi,
với mức tăng trưởng chỉ đạt 1,3% trong quý 2/2012. Dù tại Hội nghị Bộ
trưởng Tài chính G7 ngày 11/10/2012, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy
Geithner đã cam kết rằng chính phủ nước này sẽ dốc sức giúp Quốc hội đạt
được một thỏa thuận nhằm tránh để khả năng xấu nhất xảy ra. Theo báo cáo
sơ bộ của Phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ (CBO) ngày 5/10/2012 cho biết,
thâm hụt ngân sách liên bang Mỹ trong tài khóa 2012 đã giảm trong năm thứ tư
liên tiếp, mặc dù vẫn ở cao hơn mức 1.000 tỷ USD.
Ngày 12/10/2012, Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde một lần nữa
nhắc lại lời kêu gọi Mỹ hợp tác để thực hiện ngay gói cải cách quản lý quỹ
này. Bà Christine Lagarde cho rằng kế hoạch cải cách 2010 cho thấy “sự thay
đổi quản lý lớn nhất” trong lịch sử IMF, với 6% quyền bỏ phiếu được
chuyển sang các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển. Đây là điều
hoàn toàn phù hợp bởi trong thời gian vừa qua, các nền kinh tế mới nổi và các
9
- nước đang phát triển đã thể hiện được sức mạnh và sự ưu việt của mình
trong cách đối phó với khủng hoảng nợ công và suy thoái kinh tế thế giới.
2.2. NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH Tế
Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và đạt được những
bước phát triển vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng
lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102 tỷ USD nam 2010. Trong giai
đoạn này, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền
kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền
kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công
nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ
công nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam cần sự hỗ trợ về mặt tài
chính (tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn
phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh tế.
2.2.1. Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm
2001 mới là 11,5 tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh
số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng
lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại, Việt Nam được xếp
vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm
từ 2001 đến năm 2010, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng
trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1).
10
- Theo số liệu chính thức của Bộ Tài chính Việt Nam, tỷ lệ nợ công ở
Việt Nam đã ở mức trên 50% GDP kể từ năm 2010 (bảng 1), mặc dù đã giảm
trong giai đoạn 20112012 ở mức 50,8%. Tuy nhiên, nó đã bắt đầu tăng từ
54,5% năm 2013 lên 58,0% năm 2014 và 62,2% năm 2015; hiện chiếm 65% và
có dấu hiệu tiếp tục vượt quá 65% ngưỡng GDP theo quy định của Quốc hội
Việt Nam.
Cần lưu ý rằng, vì cách tính nợ công của Việt Nam không được đồng
bộ hóa với các tiêu chuẩn thế giới, nên có sự khác biệt đáng kể giữa các số
liệu do Chính phủ công bố và cách tính của các tổ chức độc lập. Theo báo cáo
của Chính phủ, nguyên nhân của nợ công tăng trong những năm gần đây là do
thu ngân sách khó khăn trong khi nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng; để đảm bảo
cân đối ngân sách nhà nước, thì phải duy trì thâm hụt ngân sách ở mức cao, cụ
thể: 2011: 4,4% GDP; 2012: 5,4% GDP; 2013: 6,6% GDP; 2014: 5,3% GDP;
2015: 5% GDP. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến 2015 nợ công đã tăng khoảng 7%
GDP do yêu cầu tăng vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
Bảng 1: Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam
2010 2011 2012 2013 2014
Tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm 56,3 54,9 50,8 54,5 58,0
quốc nội (GDP) (%)
Tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP của 42,2 41,5 37,4 37,3 38,3
quốc gia (%)
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc
gia trong trung và dài hạn trên tổng
3,4 3,5 3,5 4,3 4,1
11
- kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ (%)
Số dư nợ của chính phủ so với 44,6 43,2 39,4 42,6 46,4
GDP (%)
Số dư của chính phủ đối với các 157,9 162,0 172,0 184,4 211,5
khoản thu của ngân sách nhà nước
(%)
Nghĩa vụ nợ của chính phủ đối 17,6 15,6 14,6 12,6 13,8
với các khoản thu của ngân sách
nhà nước (%)
Nợ dự phòng cho các khoản thu 5,5 6,7 9,8 9,7 8,5
(%)
Giới hạn cho vay ngoại thương và 2.000 3.500 3.500 1.800 2.800
bảo lãnh cho các khoản vay nước
ngoài của Chính phủ (triệu USD)
Nguồn: Bộ tài chính Việt Nam
Theo dự báo của IMF, Việt Nam là quốc gia duy nhất có nợ công/GDP
tiếp tục tăng gần 68% vào năm 2020 và cao hơn nhiều so với các quốc gia
khác trong khu vực ASEAN. Đáng chú ý, tỷ lệ này có xu hướng giảm hoặc
khá ổn định ở các nước khác từ năm 2006, trong khi ở Việt Nam nó đã tăng
mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay. Mặc dù tỷ lệ nợ công
của Việt Nam vẫn dưới ngưỡng 90% theo tính toán của Reinhart C.M. et al
(2012), ngưỡng này được tính cho các quốc gia có thị trường tài chính phát
triển cao; Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, tỷ lệ tối ưu có thể
ở mức thấp hơn nhiều.
Bảng 2. Cac chi tiêu vê n
́ ̉ ̀ ợ công va n
̀ ợ nước ngoai cua quôc gia giai đo
̀ ̉ ́ ạn
2014 2018
Chỉ tiêu 2014 2015 2016 2017 2018
Nợ công so vơi GDP (%)
́ 58 61 63,7 61,4 61,0*
Nợ nươć ngoaì cuả quôć gia so vơí 38,3 42 44,8 48,9 49,7*
GDP(%)
Nghiã vụ trả nợ nươć ngoaì trung, 4,1 4,0 3,9 6,1
daì haṇ cuả quôć gia so vơí tông̉ kim
ngacḥ xuât́ khâủ hang ̣ vụ
̀ hoá và dich
(%)
12
- Dư nợ Chinh phu so v
́ ̉ ơi GDP (%)
́ 46,4 49,2 52,7 51,7 52,1
Dư nợ Chinh phu
́ ̉ so vơi
́ thu ngân 211,5 206,8 215,0 201,0
sach
́ (%)
Nghiã vụ trả nợ cuả Chinh
́ phủ so vơí 13,8 14,9 20,5 18,3
thu NSNN(%)
Nghiã vụ nợ dự phòng so với thu ngân 8,5 11,8 8,1 7,5
sach
́ (%)
Haṇ mức vay thương maị nươć ngoaì 2.800 2.500 1.500 700
và baỏ lãnh vay nươć ngoaì cuả Chinh
́
phủ (triệu USD)
̀ ản tin Nợ công Bộ Tài chính
Nguôn: B
Trong thời gian qua, Việt Nam tiếp tục tái cơ cấu nợ công theo hướng
bền vững, hiệu quả theo hướng tích cực về cơ cấu, kỳ hạn, lãi suất, đảm
bảo khả năng trả nợ. Tốc độ tăng trưởng nợ công so với GDP là 12,2%/năm
cho giai đoạn từ 2014 2015. Đây là một vấn đề đáng lo ngại vì Việt Nam
nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng trên
10%/năm) cho dù có thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Đến cuối năm
2015, tổng nợ công của Việt Nam là 125 tỷ USD, tương đương 61% GDP,
bình quân mỗi người dân gánh số nợ công là 1.384 USD, tương đương 30
triệu, ngang với Trung Quốc, Philippines và Malaysia. Tuy nhiên, trong giai
đoạn 2016 2018, tốc độ tăng của nợ công của Việt Nam đã giảm xuống bình
quân còn 8,6%/năm, riêng năm 2018 chỉ còn ở mức 6%.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nếu như trong giai đoạn 2014 2015,
tốc độ tăng của nợ công của Việt Nam ở mức bình quân là 18,1%/năm thì giai
đoạn 2016 2018 đã kéo xuống bình quân còn 8,6%/năm, riêng năm 2018 chỉ
còn ở mức 6%. Trong khi đó, về trần nợ công, tỷ lệ nợ công giảm từ mức
cuối năm 2016 là 63,7% GDP xuống còn 61,4% GDP cuối năm 2017. Đến
cuối 2018, dư nợ công của năm 2018 ở mức dưới 61% GDP.
2.2.2. Cơ cấu nợ công
Theo Luật quản lý nợ công thì nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong cơ
cấu nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được
Chính phủ bảo lãnh (Hình 3). Quy mô nợ của chính quyền địa phương nhìn
chung chiếm tỷ trọng còn khá thấp (1% GDP).
13
- Hình 3. Cơ cấu dư nợ công năm 2017 (%) (Nguồn: Bộ Tài chính)
Như vậy, so với nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ nợ công
và nợ Chính phủ của Việt Nam cũng thuộc nhóm tương đối cao (Hình 4). Các
hệ số an toàn về nợ công của Việt Nam tuy vẫn còn trong giới hạn nhưng đã
tiệm cận ở mức cao, đó còn chưa tính đến yếu tố hiệu quả của việc sử dụng
nguồn vốn vay cũng đang là một vấn đề đặt ra hiện nay. Ngoài ra, khi Việt
Nam không còn là nước thu nhập thấp thì điều kiện vay nợ nước ngoài sẽ
khó khăn hơn với chi phí cao hơn. Quy mô của các khoản vay ưu đãi giảm
dần.
14
- Hình 4. Mức nợ công/GDP của Việt Nam so với một số nước trong khu
vực (% GDP danh nghĩa)
Dư nợ công thời gian qua tăng lên chủ yếu là do tăng các khoản vay
trực tiếp trong nước và ngoài nước của Chính phủ để bù đắp cho bội
chi NSNN và gia tăng nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh cho một số tập
đoàn, tổng công ty nhà nước.
Nợ Chính phủ
Về nợ Chính phủ, trong cơ cấu nợ công, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng
lớn và có xu hướng mở rộng đáng kể trong thời gian qua. Năm 2018, dự nợ
Chính phủ bằng khoảng 52,1% GDP, tăng so với con số 46,4% của năm 2010.
Các khoản nợ Chính phủ chủ yếu là vay ODA và vay ưu đãi, các
khoản phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước (theo Bảng 1 và 2).
Hiện nay, khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vượt
ngưỡng nước có thu nhập thấp thì các điều kiện vay ODA sẽ ngày càng kém
ưu đãi hơn. Theo đó, chi phí trả lãi vay hàng năm dự báo sẽ tăng lên. Đây là
một thách thức, đòi hỏi việc quản lý sử dụng vốn vay phải hiệu quả hơn.
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm
2010) nhưng cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành,
lĩnh vực. Cân đối NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới
hạn cho phép; nhu cầu chi đầu tư phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
Chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Cơ cấu chi
thay đổi theo hướng chi thường xuyên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Tổng chi
NSNN bao gồm cả chi từ nguồn trái phiếu bình quân chiếm 29,2% GDP
trong giai đoạn 20112015, so với 28,9% trong giai đoạn trước và ở mức cao
so với khu vực và các quốc gia có mức phát triển tương đương. Tỷ lệ so sánh
giữa chi thường xuyên và đầu tư là khoảng 70:30 trong thời kỳ 20112015 so
với 63:37 của thời kỳ 20062010. Chi thường xuyên tăng lên và cao hơn mức
tăng thu chủ yếu là do tăng chi để thực hiện các chính sách mới về an sinh xã
hội, chi lương và phụ cấp và chi trả lãi các khoản vay. Chi đầu tư từ NSNN,
mặc dù giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu của Chính phủ, nhưng vẫn duy trì ở
mức cao so với khu vực và thế giới. Nếu so với tổng đầu tư toàn xã hội, chi
đầu tư từ NSNN chiếm 29,1% trong giai đoạn 20112015, tăng nhẹ so với
mức 28,4% của thời kỳ 20062010, cho thấy đầu tư của Nhà nước vào hạ
tầng công cộng vẫn tiếp tục được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ
sở hạ tầng của Việt Nam hiện đang còn ở mức thấp, chưa phát triển.
Cân đối cán cân thương mại luôn trong tình trạng nhập siêu và ít có dấu
hiệu cải thiện. Trong mười năm 20012010, tổng giá trị hàng hóa nhập siêu
gần 81,7 tỷ USD, bằng 20,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Trị giá
nhập siêu hàng hóa năm 2010 ước tính gần 12,4 tỷ USD, gấp trên 10,7 lần
15
- mức nhập siêu hàng hóa năm 2000. Tính ra, trong những năm 20012010, tốc
độ tăng nhập siêu bình quân mỗi năm gần 26,8%. Do bội chi ngân sách kéo
dài, nợ công tiếp tục tăng lên trong năm 2016, tiến sát đến hạn mức quy định
là 65% GDP. Bội chi NSNN thực hiện năm 2017 ước khoảng 174,3 nghìn tỷ
đồng, bằng 3,48% GDP, thấp hơn dự toán là 3,5% GDP. Bội chi ngân sách
bình quân trong giai đoạn 2011 2016 là 5,8% so với 2,2% GDP giai đoạn
2006 2010. Dữ liệu cho thấy ngân sách vẫn gặp áp lực năm 2016 với mức
bội chi ước bằng khoảng 6,5% GDP.
Bất cân đối ngân sách tăng lên chủ yếu do suy giảm cơ cấu về tỷ lệ thu
ngân sách trên GDP, giảm từ 27% GDP năm 2011 xuống khoảng 23% GDP
năm 2016. Trong khi đó, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP được duy trì tương đối
ổn định, bình quân bằng khoảng 29% GDP trong 05 năm qua. Theo các báo
cáo của Chính phủ, tổng nợ công của Việt Nam (gồm nợ Chính phủ, nợ được
khu vực công bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã lên đến 63,7%
GDP trong năm 2016 cao hơn khoảng 15 điểm phần trăm so với 2010. Cụ
thể, thu chi ngân sách được thể hiện trong hình 5.
Hình 5. Thu chi ngân sách Việt Nam giai đoạn 2000 2018
Nợ Chính phủ bảo lãnh
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là các khoản vay được Chính phủ bảo
lãnh cho một số tập đoàn, tổng công ty Nhà nước trong việc thực hiện một số
dự án đầu tư (đầu tư công), trong các lĩnh vực như dầu khí, điện, xi măng,
hàng không, viễn thông.... Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng khá lớn trong
tổng vốn đầu tư của các DNNN thời gian qua. Trong cơ cấu nợ được Chính
phủ bảo lãnh có xu hướng tăng lên và hiện chiếm khoảng 5% tổng dư nợ
công năm 2017 (theo hình 3).
Nợ Chính quyền địa phương
Đối với nợ của Chính quyền địa phương: nợ của chính quyền
16
- địa phương chủ yếu là vay nợ cho đầu tư xây dựng cơ bản. Mức dư nợ của
chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật NSNN
không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của các địa
phương. Nhìn chung, so với nhiều nước thì việc vay nợ của chính quyền địa
phương ở Việt Nam là khá thấp và hiện chiếm khoảng 1% tổng dư nợ công
năm 2017 (theo hình 3).
2.3. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG NỢ CÔNG ẢNH HƯỞNG
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.3.1. Về tính trung lập của nợ chính phủ
Có hai quan điểm chính về việc nợ chính phủ có tác động đến nền kinh
tế hay không.
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù
đắp bằng nợ chính phủ kích thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân.
Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu nhập quốc dân trong ngắn hạn
nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu nhập quốc
dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm BarroRicardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được
bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì
không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch
chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính rằng, hiện giờ
chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt, thì đến một
thời điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in
tiền để trả nợ (mà hậu quả là lạm phát tăng tốc); do đó, người ta tiết kiệm
hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai hoặc mua hàng hóa và dịch vụ
sẽ lên giá.
Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi
của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người
tiêu dùng.
2.3.2. Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng
kinh tế
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong
dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho
sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng
cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân:
thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ
(trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm
của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh
17
- nghiệp hạn chế đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế
là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy
nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay.
Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng
công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện
tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới
huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền
kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu
vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ
tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi
suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền
từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm
xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song
mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài
sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất,
người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn.
Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ
phát hành công trái) và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn
tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu
cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ
lạm phát).
Như đã trình bày, nợ công ở Việt Nam đang tăng nhanh trong khi thâm
hụt ngân sách đã trở thành căn bệnh kinh niên, đầu tư không ngừng mở rộng
kéo theo lạm phát và lãi suất tăng cao khiến cho việc tài trợ nợ công ngày
càng trở nên đắt đỏ.
Hiệu quả sử dụng các khoản vay là một vấn đề rất quan trọng vì từ đó
mới bảo đảm được dòng tiền trả nợ trong tương lai. Hiện nay, Việt Nam mới
chú trọng đến khía cạnh giải ngân cho các khoản vay, bán cho được trái
phiếu, thu tiền về đã được xem là thành công. Còn theo nhiều đánh giá, các
khoản đầu tư của Nhà nước vẫn bị coi là dàn trải, chậm tiến độ, thất thoát,
lãng phí lớn vốn nhà nước nhưng hiệu quả đầu tư thu được thấp và những
“căn bệnh” kinh niên của các dự án đầu tư công không hề giảm mà vẫn có
chiều hướng tăng nhanh. Một trong những lý do trên là do công tác buông lỏng
quản lý và giám sát đầu tư. Việc chấp hành chế độ báo cáo của các bộ,
18
- ngành, địa phương và các chủ đầu tư chưa thực sự nghiêm túc, có hiện tượng
buông lỏng trong thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Số tiền thất
thoát từ nợ công sẽ lan tỏa vào xã hội dưới dạng đầu tư chứng khoán, bất
động sản, mua sắm, du lịch… Sự “năng động” của thị trường do những đồng
vốn vay chưa trả thất thoát này tạo ra đang làm mờ đi sự phát triển thực sự từ
vốn tự có, từ nội lực kinh tế. Mức tiêu dùng mạnh mẽ tại các thành phố lớn
ngày càng hấp dẫn và tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy không chỉ Chính
phủ, mà các tỉnh, các doanh nghiệp quốc doanh liên tục vay nợ, tạo dựng các
dự án, đề án dù chưa biết lỗ lãi ra sao. Có thể đó cũng là một trong các nguyên
nhân làm cho tốc độ nợ công tăng lên nhanh chóng trong thời gian gần đây.
Từ năm 2003, Việt Nam đã hết thời gian ân hạn 10 năm, bắt đầu phải
trả cả gốc lẫn lãi. Lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng
từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9% trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới
2,1%/năm. Bên cạnh đó, từ năm 2010, Việt Nam đã bước ra khỏi danh sách
các nước nghèo kém phát triển và trở thành nước có mức thu nhập trung bình
thấp, điều đó cũng có nghĩa là các khoản vay hiện nay của Chính phủ sẽ
tương đương với các khoản vay thương mại mà gần như không có thêm ưu
đãi. Do đó, bên cạnh việc trả nợ thì Việt Nam sẽ phải thận trọng và tính toán
kỹ càng cho các khoản vay mới và ngay khi vay đã phải chuẩn bị trả nợ đúng
hạn.
Nợ, thâm hụt ngân sách, lạm phát và dự trữ ngoại tệ luôn có mối liên
hệ mật thiết với nhau. Các tỷ lệ nợ nước ngoài của nền kinh tế trên GDP và
tỷ lệ nợ phải trả trên xuất khẩu thường được dùng để phân tích khả năng trả
nợ của một nền kinh tế. Khi phân tích nợ và khả năng chi trả của Chính phủ
ảnh hưởng thế nào tới chính sách vĩ mô (tài khóa và tiền tệ) thì phải tính đến
cả nợ nước ngoài lẫn nợ trong nước.
Năm 2016, nợ công đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng
chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ
đô la Mỹ. Như vậy, khả năng trả nợ ngày càng gặp nhiều thách thức. Nợ ở
Việt Nam hiện nay chưa tính đủ vì còn thiếu nợ của khu vực kinh tế nhà
nước mà Chính phủ phải chịu trách nhiệm trả nợ (phần nợ này không được
hiển thị hoặc không thấy trong số liệu thống kê). Ngay trong số liệu dự toán
ngân sách thì phần trái phiếu chính phủ vẫn được để ngoài cân đối ngân sách.
Việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia cũng gần như bị lọt
lưới vì sự chia cắt trong quản lý. Đó là sự thiếu minh bạch trong quản lý,
thậm chí che giấu những sai sót do sự yếu kém trong quản lý. Việc quản lý
nợ công được chia cho nhiều cơ quan nhà nước thực hiện, cấp bảo lãnh cho
doanh nghiệp vay nợ cũng phân cho nhiều cơ quan, số liệu thực tế vì vậy
không được cập nhật, thiếu nhất quán dẫn tới tình trạng thiếu minh bạch.
19
- 2.3.3. Một khoản nợ chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của
sản lượng tiềm năng chậm lại
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong
dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn và tỷ lệ của nó so với GDP cao, làm cho
sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải
tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng
giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư
nhân: thay vì sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu giấy nợ
chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì
tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và
các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh
tế là một tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy
vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ
vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng
công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện
tượng crowding out, đó là đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên.
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái
phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính
phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới
huy động được người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền
kinh tế cũng tăng. Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu
vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ
tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi
suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất nước ngoài, dẫn tới luồng tiền
từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối đoái tăng làm giảm
xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song
mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ
tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi
suất, người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều
hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ
nhờ phát hành công trái và tăng tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng
dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra áp lực lạm phát, vì thế tác động
tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực tế (bằng tốc độ tăng trưởng danh nghĩa
trừ tỷ lệ lạm phát). Hôm nay chúng ta đang sống trong tâm bão lạm phát, bạn
cảm thấy điều này hơn ai hết.
20
nguon tai.lieu . vn