Xem mẫu

  1. KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BỘ MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG ­­­­­­­­­­
  2. TIỂU LUẬN CUỐI KỲ *** VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM MàMÔN HỌC:  THỰC HIỆN:  LỚP:  GVHD:  Tp. Hồ Chí Minh, tháng  năm 2020 DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KỲ II NĂM HỌC 2019­2020 Nhóm:  Tên đề tài: Vi phạm quyền tác giả ở Việt Nam
  3. TỈ LỆ % STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MàSỐ SINH VIÊN HOÀN THÀNH
  4. 1 100%
  5. 2 100%
  6. 3 100%
  7. 4 100%
  8. 5 100% Ghi chú: ­ Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia. ­ Trưởng nhóm:  SĐT:  Nhận xét của giáo viên ……………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………. Ngày    tháng  năm 2020
  9. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 3. Mục đích đề tài PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN  ĐỀ  CHUNG VỀ  VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ   Ở  VIỆT NAM 1.1 Khái quát chung về quyền tác giả 1.2 Khái niệm hành vi xâm phạm quyền tác giả 1.3 Đặc điểm hành vi xâm phạm quyền tác giả 1.4 Trách nhiệm pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả  CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ  VÀ CÁC BIỆN PHÁP  HIỆN NAY 2.1 Thực trạng vi phạm quyền tác giả hiện nay 2.2 Thực trạng tuân thủ quyền tác giả đối với sinh viên 2.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả 2.4 Giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên với vấn đề bản quyền PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  10. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Quyền tác giả  là quyền của tổ  chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng  tạo ra hoặc sở  hữu. Quyền này được Nhà nước bảo hộ; do đó, pháp luật đã quy  định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền này khi có hành vi xâm phạm. Bất kỳ  tổ chức, cá nhân nào có hành vi xâm phạm quyền tác giả đều phải gánh chịu những   hậu quả  bất lợi do pháp luật quy định. Chủ  thể  xâm phạm có thể  phải chịu trách  nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm dân sự, thậm chí là trách nhiệm hình sự. Tuy  nhiên, việc chủ thể xâm phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý nào còn tùy thuộc vào   ý chí chủ quan của chủ thể quyền. Nếu chủ thể quyền có đơn khởi kiện chủ thể có   hành vi xâm phạm quyền tác giả thì khi đó, Tòa án sẽ áp dụng các biện pháp dân sự  để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác giả như: Buộc chấm dứt   hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ  dân   sự; buộc bồi thường thiệt hại…  Trên thế giới, hầu hết các nước khi phát hiện có các hành vi xâm phạm quyền   tác giả, chủ thể quyền thông thƣờng khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, ở Việt Nam, thực trạng xâm phạm  quyền tác giả ngày càng có xu hƣớng gia tăng, tính chất vi phạm ngày càng tinh vi   hơn, nhưng số  vụ  án về  quyền tác giả  được tòa án thụ  lý và giải quyết còn rất  khiêm tốn, mặc dù so với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự thì biện pháp   dân sự có ưu thế hơn. Tại sao vậy? Nguyên nhân là do tác giả, chủ sở hữu tác phẩm   chưa coi việc khởi kiện ra tòa là chuyện bình thường; cộng với năng lực, trình độ  chuyên môn của cán bộ, công chức ngành Tòa án còn yếu, hiểu biết chưa sâu về  lĩnh vực sở hữu trí tuệ  nói chung và quyền tác giả  nói riêng; do cơ chế  giải quyết   tranh chấp tại tòa án còn nhiều bất cập…Vì thế  chúng tôi chọn đề  tài “Vi phạm   quyền tác giả ở Việt Nam.” 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
  11. Tiểu luận này nghiên cứu vấn đề cơ bản nhất về trách nhiệm pháp luật của  cá nhân, tổ chức đã có hành vi xâm phạm quyền tác giả. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn này là dựa trên phương pháp luận của  Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và pháp luật  Nhà nước ta về quyền tác giả. Đồng thời, Luận văn sử dụng thêm một số phương  pháp khác như phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp.Vận dụng  quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và tổng hợp,  các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn. 3. Mục đích của đề tài Xác định rõ các hành vi xâm phạm quyền tác giả; xem xét thực trạng xâm  phạm quyền tác giả   ở  Việt Nam; tìm hiểu và nghiên cứu các quy định về  trách  nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam Qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật để việc  bảo vệ quyền tác giả bằng biện pháp dân sự trở thành cơ chế bảo vệ quyền sở hữu  trí tuệ phổ biến và hữu hiệu nhất.
  12. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ Ở  VIỆT NAM 1.1 Khái quát chung về quyền tác giả Quyền tác giả hay tác quyền là bản quyền hoặc độc quyền của một tác giả  cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh   thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không bị vi phạm bản  quyền, ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh   vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền   lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một   phần người ta cũng nói đó là sở  hữu trí tuệ (intellectual property) và vì thế  là đặt  việc bảo vệ  sở  hữu vật chất và sở  hữu trí tuệ  song đôi với nhau, thế  nhưng khái  niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả  không cần phải đăng ký và  thuộc về  tác giả  khi một tác phẩm được ghi giữ  lại ít nhất là một lần trên một  phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo  này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy   nhất. 1.2 Khái niệm hành vi xâm phạm quyền tác giả Trong hệ  thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có khái niệm chung để  chỉ các hành vi xâm phạm quyền tác giả  mà các hành vi này được liệt kê tại Điều   28 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 như:  Chiếm đoạt quyền tác giả  đối với tác phẩm văn học, nghệ  thuật, khoa học.   Quyền tác giả  là quyền độc quyền của tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả  đối với  tác phẩm của mình. Do vậy, hành vi chiếm đoạt quyền tác giả  của tác phẩm văn  học, nghệ thuật, khoa học là hành vi vi phạm. Mạo danh tác giả. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên  thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử  dụng là một trong các quyền   nhân thân của quyền tác giả. Việc mạo danh tác giả là trái với quy định này.
  13. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả. Tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả  có quyền công bố  tác phẩm hoặc cho phép người khác công  bố  tác phẩm. Khi đó, người nào công bố, phân phối tác phẩm mà không được sự  cho phép của tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả  thì sẽ  bị  coi là hành vi vi phạm  quyền tác giả. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả  mà không được phép của đồng  tác giả. Đồng tác giả  là hai hay nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm. Họ  có   quyền tác giả  đối với tác phẩm như nhau, và có quyền riêng đối với phần mà học  trực tiếp sáng tạo. Vì vậy khi công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả thì phải   có sự đồng ý của tất cả các đồng tác giả đó. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ  hình thức nào gây  phương hại đến danh dự  và uy tín của tác giả. Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,  không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình   thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả là quyền nhân thân thứ  tư được quy định trong luật. Các quyền của quyền tác giả được pháp luật bảo hộ. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác   giả. Tuy nhiên không phải hành vi sao chép nào cũng là hành vi vi phạm. Việc tự sao  chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân hay sao  chép tác phẩm để  lưu trữ  trong thư  viện với mục đích nghiên cứu không bị  coi là  hành vi vi phạm quyền tác giả. Hành vi sao chép tác phẩm nhằm mục đích kinh  doanh (ví dụ  như  quán photocopy sao chép để  bán cho người khác) là hành vi vi   phạm. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ  sở  hữu quyền  tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh. Làm tác phẩm phái   sinh là một trong các quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Họ được  phép độc quyền thực hiện quyền này hoặc cho phép người khác thực hiện. Vì vậy,   khi không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả  thì hành vi làm   tác phẩm phái sinh này là trái với quy định của pháp luật.
  14. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không   trả  tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật.   Pháp luật quy định tổ  chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một hay một số quyền   tài sản của của tác giả  thì phải trả  tiền thù lao, nhuận bút. Tuy nhiên có một số  trường hợp không phải trả  thù lao như  sau: Tự  sao chép một bản nhằm mục đích  nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không  làm sai ý tác giả  để  bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;  Trích dẫn  tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong   chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu; Trích dẫn tác phẩm để  giảng  dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương  mại; Sao chép tác phẩm để  lưu trữ  trong thư  viện với mục đích nghiên cứu; Biểu  diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ  thuật khác trong các buổi sinh  hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ  động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; Ghi  âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để  đưa tin thời sự hoặc để  giảng dạy; Chụp  ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được  trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;  Chuyển tác  phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ  khác cho người khiếm thị;  Nhập khẩu bản sao  tác phẩm của người khác để sử dụng riêng. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất   khác cho tác giả  hoặc chủ  sở hữu quyền tác giả. Tác phẩm cũng là đối tượng của  hợp đồng thuê. Do vậy, khi thuê tác phẩm, bên thuê có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút,  thù lao và các lợi ích khác cho bên cho thuê. Việc vi phạm nghĩa vụ sẽ bị xử lý theo   pháp luật. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm  đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không  được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Các hoạt động liên quan đến phân phối,   sao chép tác phẩm đều phải có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
  15. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Xuất  bản tác phẩm là hành vi công bố, phân phối tác phẩm. Do đó phải được sự đồng ý   của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Cố  ý huỷ  bỏ  hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ  thuật do chủ  sở  hữu quyền   tác giả  thực hiện để  bảo vệ  quyền tác giả  đối với tác phẩm của mình.  Quyền tác  giả được pháp luật bảo hộ trên cơ sở hành vi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền   hay tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả  tự  mình tiến hành các biện pháp tự  bảo vệ.  Tất cả  các hành vi gây cản trở  đến việc bảo vệ  tác phẩm đều là hành vi vi phạm  pháp luật. Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác  phẩm. Đây là hành vi xâm phạm thông tin của tác phẩm. Tác phẩm được bảo hộ  một cách tuyệt đối về mặt hình thức. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho  thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ  thuật do chủ sở hữu quyền tác giả  thực hiện để  bảo vệ  quyền tác giả  đối với tác  phẩm của mình. Làm và bán tác phẩm mà chữ  ký của tác giả  bị  giả  mạo. Lúc này tác phẩm   không còn là tác phẩm của chính tác giả  đó nữa. Chính việc giả  mạo chữ  ký của   người khác đã là hành vi vi phạm pháp luật nên làm và bán tác phẩm mà chữ ký của   tác giả bị giả mạo là hành vi vi phạm quyền tác giả. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của  chủ sở hữu quyền tác giả. Bản chất của hành vi này là hành vi công bố, phân phối   tác phẩm không được sự cho phép của tác giả. 1.3 Đặc điểm hành vi xâm phạm quyền tác giả Hành vi xâm phạm quyền sở  hữu trí tuệ  nói chung và hành vi xâm phạm   quyền tác giả nói riêng là một loại của hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi   xâm phạm quyền tác giả mang các đặc điểm chung của hành vi vi phạm pháp luật,   đồng thời mang những đặc điểm riêng có. 
  16. Chủ thể của hành vi xâm phạm quyền tác giả phải gánh lấy trách nhiệm pháp   lý đối với hành vi vi phạm của mình. Đây là đặc điểm của các hành vi vi phạm pháp   luật nói chung và cá nhân, tổ  chức xâm phạm quyền tác giả  phải gánh chịu trách   nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và thâm chí trách nhiệm hình sự đối với hành   vi vi phạm của mình. Hành vi xâm phạm quyền tác giả phải là hành vi thực tế (cố ý hay vô ý) của cá   nhân, tổ chức đối với đối tượng được bảo hộ quyền tác giả. Các hành vi này là xử  sự thực tế của các cá nhân và tổ chức xác định. Hành vi xâm phạm quyền tác giả  không chỉ  gây tác hại chủ  quyền của đối   tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. 1.4 Trách nhiệm pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả  Theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: Tội xâm phạm  quyền tác giả, quyền liên quan Người nào không được phép của chủ  thể  quyền tác giả, quyền liên quan mà  cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên   quan đang được bảo hộ  tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất   chính từ  50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ  thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng   hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì   bị  phạt tiền từ  50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không  giam giữ đến 03 năm: ­ Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình; ­ Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao  bản ghi hình. Phạm   tội   thuộc   một   trong   các   trường   hợp   sau   đây,   thì   bị   phạt   tiền   từ  300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: ­ Có tổ chức; ­ Phạm tội 02 lần trở lên; ­ Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
  17. ­ Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng  trở lên; ­ Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên. Người phạm tội còn có thể  bị  phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000   đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề  hoặc làm công việc nhất định từ  01 năm đến 05 năm. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô   thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng  hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng  đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến  dưới   500.000.000   đồng;   thu   lợi   bất   chính   từ   100.000.000   đồng   đến   dưới  200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ  100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị  giá từ  100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị  xử  phạt vi phạm hành   chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này,   chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị  phạt tiền từ  300.000.000 đồng đến  1.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ  1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ  06 tháng đến 02 năm; Pháp   nhân   thương   mại   còn   có   thể   bị   phạt   tiền   từ   100.000.000   đồng   đến  300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định   hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm." CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VI PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ  VÀ CÁC BIỆN  PHÁP HIỆN NAY 2.1 Thực trạng vi phạm quyền tác giả hiện nay  Ở  Việt Nam hiện nay, thực trạng xâm phạm quyền tác giả  xảy ra khá phổ  biến, rộng khắp các lĩnh vực: Báo chí, xuất bản, âm nhạc, phát thanh truyền hình,  
  18. biểu diễn, trên mạng internet… Sự  phát triển nhanh chóng của công nghệ  số  và   internet đã mang đến những tiện ích mới cho người sử dụng nhưng cũng mở  ra các   lối đi khác cho nạn xâm phạm bản quyền ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.  Mặc dù pháp luật Việt Nam hiện hành về  cơ  bản đã đáp  ứng được các yêu   cầu về bảo hộ quyền tác giả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên   cũng như yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, nhưng trên thực tế tình trạng xâm phạm   quyền tác giả  trong môi trường Internet tại Việt Nam hiện nay vẫn còn ở  mức độ  rất phổ  biến. Hành vi xâm phạm quyền tác giả  nói chung, trên môi trường Internet  nói riêng diễn ra đối với tất cả các loại hình tác phẩm, từ  tác phẩm văn học, khoa  học đến tác phẩm điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, chương trình máy tính… Các hành   vi xâm phạm quyền cũng rất đa dạng, từ  xâm phạm quyền tài sản như  quyền sao  chép, quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm đến quyền nhân thân như  quyền công   bố  tác phẩm, quyền bảo vệ  sự  vẹn toàn của tác phẩm… Các hành vi xâm phạm  ngày càng tinh vi hơn với việc khai thác sự phát triển của công nghệ  (Pear to Pear:   P2P, Bit Torrent, Cyberlockers…). Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ  thị  số  36/2008/CT­TTg về  việc   tăng cường quản lý thực thi và bảo hộ  quyền tác giả, quyền liên quan (quyền tác   giả) của Bộ  Văn hóa Thể  thao và Du lịch trong năm 2009, lực lượng thanh tra  chuyên ngành văn hóa, thể  thao và du lịch đã thu giữ  649.324 băng đĩa các loại và  3885 bản sách. Tổng số  tiền xử  phạt vi phạm hành chính là 11,500,510,000 VNĐ.  Trong hai năm 2010 – 2011, thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã xử phạt vi  phạm hành chính với tổng số  tiền 227,000,000 VNĐ đối với các công ty có các  website lưu trữ, cung cấp và phổ biến đến công chúng số lượng lớn các bản ghi âm  không được sự cho phép của chủ sở hữu quyền. Trong năm 2013, thanh tra Bộ Văn   hóa Thể  thao và Du lịch đã tiến hành xử  phạt vi phạm hành chính đối với hành vi  xâm phạm quyền tác giả  đối với chương trình máy tính với số  tiền 2,033,000,000   VNĐ và yêu cầu ba website tháo gỡ hàng nghìn bộ phim vi phạm bản quyền của sáu   hãng phim lớn của Mỹ. Thanh tra Bộ VHTTDL cũng đã tiếp nhận 60 đơn thư khiếu  nại có liên quan đến tranh chấp quyền tác giả đối với 142 đầu sách của 25 nhà xuất   bản. Đó là chưa kể đến các trường hợp xử lý ở các địa phương.
  19. Những số  liệu trên chỉ  phản  ánh một phần rất nhỏ  thực trạng xâm phạm  quyền tác giả tại Việt Nam. Trên thực tế, với khoảng 400 website có sử dụng video  (phim và nhạc) tại Việt Nam, trong đó phần lớn tác phẩm được sử  dụng trái phép  thì có thể  thấy số  lượng tác phẩm bị  vi phạm quyền tác giả  sẽ  rất lớn. Thực tế  việc sao chép, đăng tải lại các bài báo trên các báo điện tử, các website còn rất phổ  biến tại Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là tình trạng cá biệt  ở  Việt Nam mà còn là tình   trạng chung tại rất nhiều quốc gia.. Ví dụ tại Hàn Quốc, trong năm 2011, có khoảng  2,7 tỉ nội dung các loại hình sao chép lậu (online và truyền thống), thất thoát khoảng   2,400 tỉ  won. Trong năm 2013, chỉ  riêng việc sao chép lậu online đã chiếm khoảng   4000 tỉ won. Tại Liên bang Nga, ước tính mỗi năm ngành công nghiệp điện ảnh Nga  tổn thất hơn 4 tỷ USD do những hành vi vi phạm bản quyền cũng như phổ biến trái   phép các bộ phim trên internet       Có rất nhiều lý do giải thích cho tình trạng trên. Đầu tiên phải kể  đến là  sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các thiết bị cho phép truy cập mạng Internet   đã khiến cho việc truyền tải, sao chép các tác phẩm trở nên rất dễ dàng. Sau đó là   thói quen “sài chùa” và ý thức không tôn trọng pháp luật sở hữu trí tuệ  của đại bộ  phận người dân. Năng lực chuyên môn và sự  thiếu hụt về  nhân lực, về  cơ  sở  vật   chất và điều kiện kỹ thuật trong các cơ  quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ  cũng là   một trong những yếu tố làm cho việc thực thi quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu  trí tuệ  tại Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế. Các chủ  thể  quyền chưa có ý   thức bảo vệ quyền của mình. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp pháp luật chưa thực  sự  bắt kịp được với sự  phát triển của công nghệ, chưa thực sự  bảo hộ  hiệu quả  quyền tác giả trong môi trường Internet. 2.2 Thực trạng tuân thủ quyền tác giả đối với sinh viên Ở Việt Nam, bản quyền/ quyền tác giả được quy định chi tiết trong Bộ Luật  Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ  và Nghị  định của Chính phủ  quy định chi tiết và  
  20. hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền   tác giả  và quyền liên quan. Theo đó, quyền tác giả  là quyền của tổ  chức, cá nhân   đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở  hữu, bao gồm các quyền: quyền nhân   thân, quyền tài sản. Những năm qua, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra  ở hầu   hết các lĩnh vực với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, trong đó có lĩnh vực giáo  dục và đào tạo. Hành vi xâm phạm quyền tác giả được hiểu là việc sao chép lại các   tác phẩm của người khác mà không xin phép, thậm chí trích dẫn/ trích nguồn các  công trình khoa học của người khác mà không ghi công tác giả tạo ra. Từ cách hiểu trên, có thể  nhận diện các hành vi vi phạm quyền tác giả  trong   sinh viên như: nhân bản, sử dụng và phân phối các bản sao chép lậu từ tài liệu gốc   mà không xin phép, trích dẫn nguồn trong nghiên cứu khoa học, ghi âm/ chụp hình   bài giảng của giảng viên trên lớp. Để  có cơ  sở  đánh giá thực trạng việc tuân thủ  bản quyền trong sinh viên hiện nay, tác giả  đã tiến hành khảo sát 100 sinh viên   trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Việc vi phạm bản quyền diễn ra công khai bằng việc sao chép, nhân bản với   số  lượng lớn từ  tài liệu gốc. Chúng ta không phủ  nhận những thành tựu mà công   nghệ in ấn đem lại. Dịch vụ in ấn ra đời và phát triển kéo theo nhu cầu về sao chép   tăng cao. Tuy nhiên, quyền sao chép được coi là “một trong những quyền tài sản cơ  bản và quan trọng của mỗi tác giả, chủ  sở  hữu tác phẩm và quyền này được bảo   hộ theo quy định của pháp luật” Khi được hỏi về các cách thức để có được tài liệu, 58% sinh viên lựa chọn sử  dụng các bản sao chép lậu từ tài liệu gốc, 25% sinh viên tự  đi mua tài liệu tại các  nhà sách, 15% sinh viên đến thư  viện để  đăng ký mượn tài liệu và chỉ  có 2% sinh   viên còn lại sử dụng các hình thức khác. Trong nghiên cứu khoa học, viết niên luận hoặc khoá luận tốt nghiệp của sinh  viên, việc thừa nhận kết quả  nghiên cứu từ  các tác giả  đi trước để  làm căn cứ  chứng minh cho luận điểm của mình là điều hết sức cần thiết. Vì vậy, trích dẫn  theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp là yêu cầu không thể thiếu khi sử dụng ý tưởng,   quan điểm, tri thức của người khác trong nghiên cứu của mình. Khảo sát cho thấy   sinh viên thường sao chép bài viết của tác giả  mà không có trích dẫn nguồn, hoặc 
nguon tai.lieu . vn