- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận môn Đường lối cách mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam: Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Đại hội Đảng III (9/1960) đề ra, kết quả, ý nghĩa
Xem mẫu
- TIỂU LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: đường lối kháng chiến chông
Mỹ cứu nước do Đại Hội Đảng III
(9/1960) đề ra, kết quả, ý nghĩa
LỜI MỞI ĐẦU:
C
ác cuộc chiến tranh đi qua để lại bao đau thương và mất mát Ai cũng biết hậu quả
chiến tranh là to lớn biết bao. Cho dù đó là chiến tranh phi nghĩa hay chiến tranh
chính nghĩa thì đất nước đó cũng hứng chịu những tổn thất nặng nề. Song, không
phải đất nước nào cũng có quyền chọn cho mình nền hòa bình, tự do. Có những lúc
họ không muốn chiến tranh, nhưng họ buộc phải chiến đấu cho nền độc lập nước nhà. Và
Việt Nam - đất nước chúng ta rơi vào tình thế đó. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đi
qua, chúng ta không khỏi kinh hoàng trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây
- giờ chúng ta đang hưởng nền hòa bình, chúng ta đang độc lập. Song, điều đó không có nghĩa là
chúng ta quên quá khứ, bởi lẽ không có quá khứ sẽ không có hiện tại và tương lai. Chúng ta
đã chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Chúng ta có những người lãnh đạo tài
giỏi, chúng ta có Đảng lãnh đạo tài tình, chúng ta có sự đoàn kết đồng lòng của dân tộc và
chúng ta đã chiến thắng. Có rất nhiều yếu tố để tạo nên thắng lợi vẻ vang trong các cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhưng ở đây tôi xin nêu ra một trong những nguyên nhân dẫn
đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến mà ít ai nghĩ đến đó là “nghệ thuật lãnh đạo”. Có
thể nói vui: “Lãnh đạo là một nghệ thuật và người lãnh đạo là một nghệ sĩ”, họ phải cân
nhắc, sáng tạo để đưa ra những sách lượt, chiến lược vào các thời điểm khác nhau, nhắm
đem đến chiến thắng mà ít tổn hại nhất. Người xưa có câu “nước không có vua như rắn mất
đầu” để nói rõ tầm quan trọng của người đứng đầu đất nước. Ở nước ta cũng vậy, từ khi còn
chiến tranh cho đến lúc hòa bình thì Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ một vai trò cực kì
quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đất nước. Bây giờ tôi sẽ hướng các bạn vào quá khứ,
vào thời kì kháng chiến chống Mỹ để cùng phân tích nghệ thuật lãnh đạo của đảng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1.Bối cảnh đất nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam
(1954-975) là sự tiếp tục cuộc cách mang dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc thống
nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi và cùng nhau
xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược, chúng đã cùng bọn vua quan
phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã hội Việt Nam thành một xã hội thuộc địa nửa
phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Đảng ta gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là thực
hiện hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế quốc xâm lược,
giành độc lập thống nhất Tổ quốc và chống phong kiến, giành lại ruộng đất cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách thống trị của đế
quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng bọn tay sai Ngô Đình Diệm
tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, hai mâu thuẫn cơ bản trên vẫn tồn tại và đất nước
tạm thời bị chia cắt. Nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là
tiếp tục cuộc cách mạng đã được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930,
nhằm hoàn thành sự nghiệp giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây
- dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối lịch sử tất yếu. Đúng như Đảng ta đã khẳng định
tại Đại hội tân thứ III (tháng 9-1960): "Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là
sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và
cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều kiện mới của lịch sử". Từ bối cảnh
lịch sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân ta ở miền Nam bước vào cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược với tư thế của người chiến thắng và đã kế thừa được nhiều
kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó
cũng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn nói: Chúng
ta thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và 9 nǎm kháng
chiến chống Pháp. Không có Cách mạng tháng Tám, không có 9 nǎm kháng chiến chống Pháp
thì không thể có thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị chia làm
hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước
ta từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975. Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường
lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ
mục tiêu chung của cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề
chủ trương, sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên và sát đúng
với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ vị trí cách mạng từng
miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng hai miền trong thế chiến lược chung của cả
nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định
đường lối cách mạng của nước ta:
1. Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
2. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc l ập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy
lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc là cǎn cứ
địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước. Cách mạng miền Nam có
tác dụng quyết định trực tiếp đ ối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần
thực hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Việc xác
định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là thành công lớn của Đảng ta. Đó là đường
lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sang tạo của Đảng ta. Miền Bắc hoàn
toàn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và là hậu phương lớn của cả nước, đã
tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn các thời kỳ lịch sử trước
đây. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để cách mạng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay
sai.Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến l ược cách mạng khác nhau trên hai miền
Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa cách mạng hai miền cùng
phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp
đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
2.Bối cảnh quốc tế.
- Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác
động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới nối liền
từ châu á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là
hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc
này nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin
cậy, một thuận lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta. Cùng với sự lớn mạnh của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á
châu Phi và châu Mỹ latinh, hệ thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào
quá trình tan rã. Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay
đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy
yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. Cách mạng Việt Nam đã
hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới. Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy
chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn còn miếng đất
để xảy ra chiến tranh. Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ.
Chúng đang dẫn đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên
minh quân sự xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa phátxít ở Tây Đức
và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu và châu á, ra sức
chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang
đứng trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự
tàn sát và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó
còn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi
nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại,
chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho tình hình thế giới phức tạp. Họ tuyệt đối hoá
đường lối chung sống hoà bình, đi vào phòng ngự bị động, gây không ít khó khǎn cho phong
trào cách mạng thế giới, đặc biệt với phong trào giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân
dân ta tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, Đảng và nhân dân ta phải giải quyết thành
công mối quan hệ giữa hoà bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi Đảng ta
hết sức sáng suốt và có sách lược đúng đắn. Thực tế Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ
đó, góp phần bảo vệ hoà bình, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên hoàn thành
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thếgiới tồn tại bốn
mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủnghĩa thế giới với các lực lượng tư
bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân
tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản Đế quốc Mỹ xâm chiếmvà thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam nước ta
đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miềnNam. Đế quốc Mỹ thực hiện
âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây thành cǎn cứ quân sự của chúng nhằm
ngǎn chặn "làn sóng" cộng sản tràn xuống Đông - Nam á, và chuẩn bị tiến công các n ước xã
hội chủ nghĩa. Mỹ tuyên bố chiến tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư
tưởng cộng sản với hệ tư tưởng "tự do" kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc
chiếm miền Nam, đẩy dần các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam á, chèn ép quyền lợi của
tư bản thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các đế quốc
khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền nam, chia cắt đất
nước ta làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng
dậy chống Mỹ xâm lược, kiên quyết giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đế quốc
- Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho chúng, làm mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên sâu sắc. Để phục vụ chiến
tranh của chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để bọn tư bản Mỹ thu những món lợi kếch tử
cuộc chiến xù tranh này. Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai đổ của đổ người vào cuộc chiến
tranhcủa chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ và các nước
chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh, ngày càng mâu thuẫn quyết liệt với tư bản
Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ và giai cấp tư bản các nước chư hầu Mỹ, làm rung chuyển
hậu phương của chúng. Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
nhân dân ta là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ với chính
sách thực dân mới. Chống đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng là điểm mới,
mang tính đặc trưng của cách mạng miền Nam lúc này, khác các thời kỳ trước đây của cách
mạng nước ta là chống chủ nghĩa thực dân cũ của đ ế quốc Pháp. Đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp
định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước ta, biến nơi đây thành
thuộc đia kiểu mới và cǎn cứ quân sự của chúng. Từ đây, đế quốc Mỹ đã thành kẻ thù chủ
yếu và nguy hiểm nhất của nhân dân ta.
Từ tháng 7 nǎm 1954, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 đã xác
định: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới và hiện đang
trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương". Do vậy, trong giai đoạn mới
phải chĩa mui nhọn vào đế quốc Mỹ. Chính sách thực dân mới của Mỹ là con đẻ của chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn, của chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng
hoảng và trước nguy cơ sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đảng ta nhận biết sớm bản
chất chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nghị quyết 9 của Trung ương đã chỉ ra: "Đặc điểm chủ
yếu của chính sách thực dân là đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền
tay sai, dùng viện trợ kinh tế và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam". Chính sách
thực dân mới là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hìn dung và thấy rõ, đây đủ ngay trong
thời gian đầu của cuộc cách mạng miền Nam. Qua thực tiễn đấu tranh với Mỹ, chúng ta ngày
càng hiểu đầy đủ bản chất và thủ đoạn của chính sách thực dân mới của chúng. Về chính trị,
Mỹ không thiết lập bộ máy thực dân thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia, dân
chủ giả hiệu. Về quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng đ ội uân nguy đủ mạnh làm lực
lượng chiến đấu chiến lược cho chúng. Với cả hai mặt chính trị và quân sự như vậy, đế quốc
Mỹ nhầm một ý đ ồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiến của cuộc đấu
tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của chúng. Về kinh tế, Mỹ dùng viện trợ làm công
cụ chủ yếu để cột giữ chế độ tay sai ở miền Nam đi vào con đường phát triển tư bản chủ
nghĩa, đối lập với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta.
Về vǎn hoá - xã hội, chúng ra sức du nhập lối sống Mỹ, vǎn hoá Mỹ, hòng làm mất đi
tất cả những gì là tinh hoa, truyền thống dân tộc ta. Ngày càng hiểu sâu sắc bản chất và thủ
đoạn xảo quyệt của chính sách
thực dân mới của Mỹ, Đảng và nhân dân ta đã có những chủ trương, phương pháp đấu tranh
sát đúng, thích hợp, từng bước đánh bại chúng. Phương pháp cách mạng đúng đắn nhất để
đánh bại chủ nghĩa thực dân mới là phải kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với quân sự và
hình thức đấu tranh chính trị với quân sự. Đó là quy luật cơ bản của phương pháp cách mạng
bạo lực ở miền Nam. Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền Nam là
quátrình nhất quán thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Âm mưu xâm lược nước ta của đế
- quốc Mỹ đã có từ lâu. Song, đến giữa nǎm 1954 mới có thời cơ để Mỹ trực tiếp thực hiện âm
mưu đồ của chúng. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hoà bình ở Đông Dương
được ký kết. Đế quốc Mỹ phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Chúng đã không chịu ký vào bản tuyên
bố chung của Hội nghị Giơnevơ. Ngày 20-7-1954, tổng thống Mỹ Aixenhao đã trắng trợn
tuyên bố: "Mỹ không ký Hiệp định Giơnevơ nên không bị ràng buộc bởi Hiệp định". Đế quốc
Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu của chúng sau Hiệp định Giơnevơ là: nhanh chóng hất cẳng
Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền Nam và Đông Dương; đàn áp phong trào cách mạng
và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam nước ta, chia cắt lâu dài Việt Nam,
biến miền Nam thành thuộc địa và cǎn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam Á.
Sự thật thì Mỹ đã chuẩn bị triển khai chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam từ trước.
Mỹ đã nuôi dưỡng và đào tạo bọn tay sai ngay từ đầu những nǎm 50. Trước khi Hiệp định
Giơnevơ được ký, đế quốc Mỹ đã tìm cách ép Pháp đưa Ngô Đình Diệm (tay sai của Mỹ) về
giành ghế thủ tướng nguy của Bửu Lộc (tay sai của Pháp) vào ngày 7-7-1954, mở đầu quá
trình Mỹ hất cẳng Pháp và cũng là mở đầu quá trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở
miền Nam nước ta. Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước đế quốc và chư hầu l ập ra khối
SEATO, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối này. Cùng
lúc, Mỹ xúc tiến việc mua chuộc và tiêu diệt các lực lượng thân Pháp ở miền Nam không chịu
hàng phục Mỹ, tǎng cường viện trợ trực tiếp cho chính quyền Diệm và điều khiển chúng
chống phá cách mạng. Ngày 2-12-1954, Mỹ ép Pháp ký kết việc rút quân Pháp khỏi miền
Nam Việt Nam và ngày 10-12-1954, thỏa thuận một kế hoạch tổ chức, huấn luyện quân nguy
theo phương hướng của Mỹ. Ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức cái gọi là: "tưng cầu
dân ý" phế truất Bảo Đại. Sau đó ba ngày, Diệm lên làm tổng thống, tuyên bố thành lập nhà
nước "Việt Nam cộng hoà" và đổi "quân đội quốc gia", tay sai của Pháp, thành ", quân lực
Việt Nam cộng hoà", tay sai của Mỹ. Như vậy, bằng tất cả các thủ đoạn ngoại giao, quân sự,
chính tr ị, kinh tế, đế quốc Mỹ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng thực dân Pháp, độc
chiếm miền Nam, triển khai chính sách thực dân mới của chúng ở miền Nam nước mặt ta trên
các
Từ đây, dân tộc ta phải trực tiếp đương đâu với chủ nghĩa thực dân mới
của đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam nước ta. Qua 21 nǎm kháng chiến cực kỳ gian khổ và
oanh liệt, dân tộc ta đã toàn thắng đế quốc Mỹ, chặt đ ứt một mắt xích trong hệ thống chiến
lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và đẩy chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ thêm
một bước suy yếu và khủng hoảng; thực hiện được nguyện vọng thiêng liêng là hoàn thành
độc lập, thống nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho chúng ta
nhiều kinh nghiệm quý góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
và bảo vệ hoà bình thế giới
II. NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)
1. Kiềm chế đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất
Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng chúng
một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương đó dựa trên cơ sở
phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động của đế quốc Mỹ trong các mối
quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và lực cùng khả nǎng phát triển của ta.
Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế những âm
mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện đ ược. Trước hết, tránh những
- khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực
lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng
tập hợp đông đảo l ực lượng cách mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ
và hoà bình trên thế giới, có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp được mãi
nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song không phải bọn xâm
lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta cũng
được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng, nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở
đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm chế.
1.1) Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược
nước ta:
Đầu những nǎm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chi ếm Vi ệt
Nam, nhất là từ đầu những nǎm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của
Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nǎm 1945,
giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, cũng như
đánh bại thực dân Pháp xâm l ược và can thiệp Mỹ trong kháng chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế
và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm
miền Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính quyền tay sai Ngô
Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền
Nam. Nhân dân ta không chịu khuất phục đã vùng lên chống lại chúng, Đảng ta đã ra Nghị
quyết 15 (1-1959) về cách mạng miền Nam. Nghị quyết ra đời tuy có phần muộn, nhưng cũng
đã kịp phát động quần chúng đấu tranh, đi tới cao trào đồng khởi khắp miền Nam. Phong trào
đồng khởi đã đưa cách mạng miền Nam "từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công", là sự
sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu cuộc chiến tranh cách mạng từ
thấp lên cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách
mạng miền Nam mới nổi dậy và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền
Nam, tránh được những khó khǎn, bất lợi của cách mạng miền Nam buổi đầu.
1.2) Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
Bước vào những nǎm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng
hẳn về phía cách mạng và hòa bình. Khả nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày càng
nhiều. Chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính
chất phản công của chúng như "trấn áp ồ ạt", "trả miếng hàng loạt" đã bị phá sản. Để thích
ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự mới vừa có tính chất tiến công,
vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược "phản ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh:
"chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến tranh đặc biệt". Ở miền Nam nước ta
từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện "chiến tranh đặc biệt" nhằm ba
mục đích:
• Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới
• Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội ch ủ
nghĩa;
• Ngǎn chặn chủ nghĩa xã h ội lan xuống Đông Nam á.
- Thực hiện ba mục đích trên, đ ế quốc Mỹ muốn khắc ph ục nh ững
mâu thuẫn đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn giữa hệ
thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với
các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp. Nhưng trên thực tế, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc
biệt" chống lại nhân dân ta lại càng làm sâu sắc những mâu thuẫn đó.
Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đ ề ra nhiệm vụ chống
đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trung lập là để chủ động kiếm
chế địch trong loại "chiến tranh đặc biệt" và tìm cách hoà hoãn mâu thuẫn giữa lực lượng đế
quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề miền Nam Việt Nam, tranh thủ
giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời tranh thủ sự
đồng tình của các nước dân tộc chủ nghĩa và khơi sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế
quốc Pháp. Đảng ta khẳng định: Chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng địch
trong loại "chiến tranh đặc biệt". Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu chúng ta kiên
quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn khéo biết lợi dụng hơn nữa
mâu thuẫn trong nội bộ đ ịch, giữa đ ế quốc Mỹ và các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp,
giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm
cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng
chiến tranh ở miền Nam. Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế
quốc Mỹ gây chiến và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội
chủ nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu rộng
và thiết thực hơn nữa. Kiềm chế và thắng Mỹ trong "chiến tranh đ ặc biệt" là chúng ta đã đẩy
Mỹ vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đ ạo trên của Đ ảng
Đó là quá trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống
địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ
đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền Nam là cơ bản và
đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng.
Thực hiện quá trình đó, nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ -
ngụy và làm phá sản các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho "chiến tranh đặc biệt" của đế
quốc Mỹ bị thất bại. Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm l ược mi ền Nam Vi ệt Nam là nh ằm thực
hiện một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm thiết
lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và quân sự của
Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc biệt", hay trước thất bại
nặng nề mà liều lĩnh tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại
miền Bắc bằng không quân và hải quân cũng đều nhằm mục đích đó. Mỹ không thể liều lĩnh
đến mức có thể gây phương hại đến chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Điều
đó đòi hỏi Mỹ phải có thời gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quy ền làm công cụ thực hiện
chủ nghĩa thực dân mới của chúng, đánh phá lực lượng cách mạng miền Nam bằng những thủ
đoạn thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải thực hiện chính sách leo thang chiến
tranh từng bước.
1.3) Kiềm chế chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ trên phạm vi
chiến trường miền Nam
Giữa nǎm 1965, chiến l ược "chiến tranh đ ặc bi ệt" c ủa Mỹ hoàn
toàn phá sản, tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước
- chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện "chiến tranh cục bộ" và tǎng cường
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của địch đã có
sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì mục đích chính trị của
đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, tính chất
cơ bản của cuộc chiến tranh c ủa Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu
mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt
động quân sự và còn để tạo điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai
của chúng về mọi mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng
ở miền Nam. Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên thế
giới: rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng của nước Mỹ
không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của chúng trong cuộc chiến
tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong "chiến tranh đặc biệt", buộc phải đ ưa quân vi ễn
chinh và chư hầu vào miền Nam mở rộng chiến tranh, chúng đã mắc sai lầm đánh giá quá
thấp lực lượng của ta. Chúng tính, với "chiến tranh cục bộ" sẽ thay đổi thế bị động của
chúng thành thế chủ động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế
bị động và bị tiêu diệt.
Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng
ta kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực
lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên
gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế
chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện đánh bại âm mưu trước mất và lâu dài
của địch.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng "chiến
tranh cục bộ" ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí l ực lượng sẵn sàng đánh bại chúng
ngay từ trận đầu nếu xảy ra. Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đ ạo thường xuyên và kịp
thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp
nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch quân
sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào thế tiến thoái
lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968, làm phá sản kế hoạch
"chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã giữ vững được thế
thắng, kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh cục bộ" của chúng trên chiến trường miền
Nam.
2. Biết giành thắng lợi từng bước.
Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn l ực l ượng sang th ế ti ến
công, đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán
triệt Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi
sục cǎm thù Mỹ - Diệm, đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền Nam. Phong trào
đông khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức
thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đây là một mốc rất quan
trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, làm thất bại kế hoạch "chiến tranh
đặc biệt" của Mỹ.
Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào đ ể giữ đ ược thế làm
chủ của nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển
- của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh
cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng để đưa cách mạng tiến
lên. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm chiến lược của cách mạng miền Nam sau Đồng
khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên
song song với đ ấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Bộ
Chính trị khẳng định: Cần phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh đ ể tiêu di ệt
nhiều sinh lực địch.
Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam đã phát
triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền Bắc vào cùng lực
lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế và lực. Với thế và lực đó,
với phương hướng tiến lên bằng cả l ực l ượng chính trị và quân sự, bằng sự kết hợp cả hai
hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch,
làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (1961-
1962) và kế hoạch Giônxơn - Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-
1965). Đây là quá trình nhân dân miền Nam đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của
Mỹ - nguy.
Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chi ến th ắng ấp Bắc (2-1-
1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng
cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt
Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy quyền
khủng hoảng triển miên, quốc sách "ấp chiến lược" bị phá sản, "chiến tranh đặc biệt" của
Mỹ - ngụy bị thất bại. Giữ vững thế thắng, thế tiến còng, quyết chiến quyết thắng đế quốc
Mỹ leo thang chiến tranh. "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với b ản chất
hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đ ế quốc Mỹ đã leo
thang chiến tranh, tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đánh phá miền Bắc bằng
không quân và hải quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có tính chất quyết định
thắng bại với cả hai bên tham chiến
Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam.
Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12
bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở
miền Nam đã từ "chiến tranh đặc biệt" chuyển thành "chiến tranh cục bộ", song về tính chất
và mục đích vẫn là nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Hội nghị đã phân tích rõ chỗ
mạnh, chỗ yếu của địch, đề ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền
Nam và những hình thức, biện pháp cụ thể để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một lần
nữa, Đảng ta hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh.
Phải đánh phủ đầu quân Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam. Tháng 5-1965, khi quân Mỹ
gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì tại cǎn cứ Núi Thành, một đại
đội thuộc bộ đội tỉnh Quảng Nam đã tập kích tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ
Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Đây là trận đầu tiên lực lượng vũ trang cách mạng giáp chiến
tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ ở miền Nam. Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh,
mặt yếu của quân Mỹ trên thực tế, và khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là
chiến thắng Vạn Tường, Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong
trào thi đua diệt Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến ở
miền Nam, ta đã tiêu diệt 20
vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo đà cho quân dân ta ở miền Nam đánh bại
hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai mùa khô 1965- 1966 và 1966-1967. Với cuộc
- phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ
cao, bộ mặt xâm lược tàn bạo của chúng đã lộ rõ trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng
hoảng sâu sắc, chính giới Mỹ phân hoá và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam, đế quốc Mỹ lâm
vào thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận
lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới. Quân
và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định
đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải từng bước xuống thang
chiến tranh và đi vào chiều hướng kết thúc cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân
1968, Đảng ta mắc sai lầm chủ quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa
đủ. Bởi vậy, đợt tổng tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội nhưng các đợt
sau ta bị tổn thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều hướng trên của cuộc chiến
mà thắng lợi thuộc về ta đã rõ. Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng
lợi quy ết định Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học
thuyết Níchxơn bằng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" hòng kéo dài chiến tranh, duy trì
chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy
quyền và ngụy quân làm xương sống cho "Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ thực hiện ở miền
Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất kỳ thời
kỳ nào trước đó, đ ồng thời thực hiện ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta giành thắng lợi
hoàn toàn.
Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến
công chính trị và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia
giành thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và
giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam
Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của
Níchxơn. Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô lớn,
cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất
bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa sông, cửa biển và ném
bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt hòng ngǎn cản
thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích
chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở
miền Nam, cuộc tập kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta
(12-1976) đã nhận định: "Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến
công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B. 52 vào
Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đ ế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam,
rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta". Ta đã giành thắng lợi quyết định với đế
quốc Mỹ.
3.Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn .
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đ ế quốc Mỹ v ẫn
ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới
của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia" than Mỹ, xoá bỏ chính quyền
cách mạng.
Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hoàn toàn, chưa
có hoà bình thật sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam. Tháng
7-1973, Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị l ần thứ 21, phân tích rõ tình hình trên, âm
- mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh,
điểm yếu của địch.
Hội nghị nhận đ ịnh thế và l ực của cách mạng mi ền Nam hi ện
mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn nhiều mặt cần
nhanh chóng khắc phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng lực lượng
phát triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đánh đổ ngụy quy ền, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương
pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá trình cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi
hoàn toàn. Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và
khắc phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến trường
miền Nam có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã
thu hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari
và giải phóng thêm được gần nửa triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc
giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền
Nam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ
huy các chiến trường miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: "Chưa bao giờ ta có
điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi
như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà
bình thống nhất Tổ quốc".
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết đ ịnh l ấy chiến tr ường
Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng
hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đ ạo kịp thời các bước tiến quân
giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đ ến 20-3-1975) đã
điểm trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân
ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn
quân ngujy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đ ến 29-3-1975)
đã phá tan âm mưu co cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu
hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công
và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ -
Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn
của ta mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta chiếm
dinh tổng thống ngy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Sự nghiệp giải phóng
hoàn toàn miền Nam của nhân dân ta toàn thắng.
4. Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ
Đánh thắng đế quốc Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của
quần chúng. Đây là phương pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Nó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cách mạng. Nghị
quyết 15 của Trung ương đã chỉ rõ: "Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không
có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ", "con đường đó là lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với
lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính
- quyền cách mạng của nhân dân". Vào bước cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Hội nghị trung ương lần thứ 21 lại khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống
nhất của cả quá trình cách mạng miền Nam. Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính đúng
đắn, sáng tạo của phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ta. Bạo lực cách mạng trong
cách mạng Việt Nam có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh
chính trị và đ ấu tranh quân s ự và sự kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá trình thực
hiện bạo lực cách mạng, nhân dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp chặt chẽ giữa ý chí giành
đ ộc lập dân tộc với phương pháp cách mạng đúng đắn.
Ý chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống thiêng liêng
của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. ý chí
đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi cả dân tộc đứng lên làm Cách
mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập,
tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại
nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do.Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt 21 n
ǎm lãnh đ ạo kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết sức mềm
dẻo và khôn khéo về chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Đảng ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về đường lối cách mạng, đã lãnh đạo
tiến hành chiến tranh cách mạng thắng lợi, đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước bảo
vệ hoà bình thế giới. Một nước nhỏ, dân số không đông, kinh tế còn kém phát triển đã liên
tục đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam. Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến
tranh cách mạng và kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng. Đây là
phương pháp nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam được Đảng
ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi lên của cách mạng miền Nam sau Phong trào Đồng khởi
(1960). Bằng cách thức đó, lực lượng cách mạng miền Nam đã đánh bại "chiến tranh đặc
biệt" của Mỹ - ngụy, và đã phát triển cao ở các thời kỳ tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú,
sinh động trong đấu tranh chính trị, quân sự và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh chính trị
và quân sự. Về sau lại được kết hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị rất lớn của ta, cũng là điểm
yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy. Đảng và nhân dân ta đã biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến
công địch trên mặt tr ận chính trị, những "đội quân tóc dài", học sinh, sinh viên, giáo phái... đã
tiến công chủ nghĩa thực dân mới bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh
chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ trước
nhân dân toàn thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông Dương và thế giới,
cùng tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Từ thực hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới, đồng thời
cũng là làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng quân sự và đấu
tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy không có lực lượng quân
sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lòng đẩy mạnh các mặt đấu tranh chính trị và ngoại
giao và không thể có thắng lợi triệt để như mùa Xuân 1975.
Mặt trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch, đồng thời phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh
bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng
ta. Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Phát động
chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền thống của dân tộc ta và cũng là
đường lối nhất quán suốt 30 nǎm lãnh đ ạo chiến tranh của Đảng ta chống lại hai đế quốc to
- là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển
tới đỉnh cao. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân gồm ba thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ
trang của ta được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu cũng có
thể bị tiến công.
Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không chỉ ở ba thứ
quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể góp sức mình tiến công
giặc, góp phần giải phóng quê hương. Cách đánh sở trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng
cách đánh này, mà vũ khí thô sơ của ta đã nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải
chấp nhận thất bại. Kết hợp đánh du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp
của tất cả các lực lượng vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc. Hình thức tác chiến
trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết
hợp các quy mô tác chiến đó trong từng chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ
địch không thể l ường hết được các mũi tiến công của ta. Chiến tranh nhân dân của ta tiến
công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình
thức này, nâng cao hiệu quả chiến đấu của ta lên rất cao. Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và
đô thị đều có những hình thức tiến công địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân
dân của ta. Miền núi lấy tiến công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công
cả quân sự và chính trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính
trị là chủ yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào
các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
5. Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và truyền
thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và phát triển. Từ khi
Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân tộc được kế thừa và phát
triển , trở thành truyền thống cách mạng. Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy
mỗi mi ền có nhi ệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng đều có chung một mục tiêu là hoàn thành
độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ cách mạng hai miền có mối quan hệ chặt chẽ và
thúc đẩy lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ cách mạng
hai miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược và những nội dung cụ thể.
Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: "Nhiệm vụ cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". "Cách mạng
miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình
thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước". Và cách mạng hai miền "cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất nước
nhà, cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc
đẩy nhau cùng phát triển".
Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên quyết
định thắng lợi. Vì vậy, bất kể trong tình huống nào, hoà bình hay không có hoà bình, hoặc vừa
có hoà bình vừa có chiến tranh, thì nhân dân ta vẫn quyết tâm xây dựng miền Bắc vững mạnh
về mọi mặt. Cách mạng miền Nam còn có vai trò tích cực bảo vệ miền Bắc. Đồng bào miền
Nam nói: Mỹ đánh miền Bắc một, chúng ta đánh Mỹ gấp mười ở miền Nam. Điều đó có ý
nghĩa rất lớn trong sự kết hợp giữa hậu phương và tiền tuyến, mỗi đòn tấn công mạnh của
quân dân ta ở miền Nam có tác dụng trực tiếp đánh bại cuộc chiến tranh thực mới của Mỹ.
- Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất của cách mạng
hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất lượng tốt nhất về lực
lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thi ết yếu cho tiền tuyến miền Nam. Cách
mạng miền Nam bên cạnh nhiệm vụ xây dựng lực lượng tại chỗ, đồng thời phải tổ chức,
chuẩn bị địa bàn tiếp nhận lực lượng từ miền Bắc chi viện và bảo đảm sự chi viện đó phát
huy hiệu quả cao nhất. Trong chiến đấu, cách mạng miền Nam có nhiệm vụ kiềm chế và
thắng Mỹ ngay tại chiến trường miền Nam. Thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đồng bào ta ở miền
Nam đã góp phần tích cực bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đồng bào ta ở miền Bắc vì
miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai, vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi.
6. Đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất
Đoàn kết quốc tế là tư tưởng chiến lược nhất quán và sách l ược khôn khéo của Đảng
ta. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Tại Hội nghị thành lập Đảng, trong Sách lược vắn tắt của Đảng đã khẳng
định: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, lại phải đồng tuyên
truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới" . Tư tưởng này
là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Chính sách đó luôn được
bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn hơn sức mạnh vốn có của ta, là
một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước khi tìnhhình thế giới đã có nhiều thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ
hai. Cách mạng thế giới ở thế tiến công. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào tổng khủng hoảng. Các
đế quốc bị kiệt quệ sau chiến tranh. Riêng đế quốc Mỹ trở thành giàu nhất và mạnh nhất về
kinh tế, tài chính, quân sự và trở thành kẻ thù chung của các dân tộc trên thế giới.Trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, đ ặc bi ệt ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện tư
tưởng hoà bình chủ nghĩa và chủ nghĩa cơ hội mang màu sắc dân tộc.
Trong tình hình đó, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm đưa cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta vào thế tiến công chung của các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh
cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đồng thời cùng nhân dân thế giới đấu
tranh giữ vững hoà bình. Chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta lúc này là: tiếp tục tǎng
cường sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác,củng cố tình hữu
nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta với các nước anh em, đồng thời góp phần tǎng
cường sự thống nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Kiên quyết cùng các
nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới đấu tranh bảo vệ hoà
bình, chống lại chính sách xâm lược và chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ra sức ủng hộ phong
trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu á,
châu Phi và châu Mỹ latinh. Với các nước, chúng ta xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp
tác hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau. Đi đôi với việc xây dựng và tǎng cường quan hệ giữa các chính phủ, cần
mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
Nhờ có chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn lại có sách lược khôn khéo nên trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta đã giành được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ cả về tinh
thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức
quốc tế và nhiều cá nhân có tên tuổi ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây là một yếu tố cực
kỳ quan trọng góp phần đưa sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi. Trong chính sách
đoàn kết quốc tế của mình. Đảng ta đặc biệt chú ý xây dựng và củng cố khối đoàn kết chiến
- đấu keo sơn giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Trên thực tế, ba nước Việt Nam, Lào
và Campuchia đã hình thành mặt trận chung chống đế quốc Mỹ xâm lược, phối hợp chặt chẽ
trong chiến đấu. Đông Dương thành một chiến trường, cùng chiến đấu và cùng chiến thắng
đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nên có mâu thuẫn
với cả thế giới, là kẻ thù chung của nhân dân thế giới. Đó là một cơ sở để nhân dân ta thực
hiện trên thực tế mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc
Mỹ xâm lược. Chưa bao giờ nhân dân thế giới đến với nhân dân ta nhiều và mạnh mẽ như
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân
dân ta đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận đông đảo, rộng khắp, sôi nổi ở trong nước,
trên bán đảo Đông Dương và trên toàn thế giới, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đ ế quốc
Mỹ, kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta và cũng là kẻ thù chung của nhân dân thế giới.
Sự giúp đỡ về vật chất của bạn bè trên thế giới là cực kỳ to l ớn. Nhân dân ta đã sử dụng vũ
khí, trang bị và các phương tiện chiến tranh của các nước anh em và bạn bè giúp đỡ với hiệu
quả cao. Đảng ta xác định: "Cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến
đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính", "nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế", "kể cả nhân dân Mỹ". Thực tiễn đường lối đoàn kết quốc
tế của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược đã làm sáng tỏ phương châm đó.
III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954- 1975)
1. Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975).
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả vĩ
đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trải
qua 21 năm chiến đấu nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế
quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thắng lợi đó đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một
thế kỷ c ủa chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xá
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành thống nhất đất nước.Thắng lợi đã mở ra 1 kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập thống nhất và chủ nghĩa xã hội, chiến thắng
nghèo nàn lạc hậu,xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh và bảo vệ vững
chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần làm tăng thêm sức mạnh và thế tiến công cách mạng
trên thế giới, động viên cổ vũ hàng trăm triệu người đang đấu tranh vì hòa bình, đ ộc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất, dài ngày nhất và ác liệt
nhất của tên đế quốc đầu sỏ chống các lực lượng cách mạng trên thế giới kể từ sau chiến
tranh thế giới thứ 2, đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ phòng
tuyến quan trọng của Đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản
cách mạng của chủ nghĩa đếquốc và thế lực phản động quốc tế, mở đầu cho sự sụp đổ
không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới.Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo
dài 30 năm là một trong những thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ 20, đưa
Việt Nam vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong của nhân loại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập, hòa bình và phát triển với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân
Việt Nam đã chứng minh 1 chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng,
người không đông, kinh tế kém phát triển nhưng đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết
dưới sự lãnh đạo của Đảng Mac-Lenin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn,
- nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì hoàn toàn có thể đáng bại mọi thế
lực xâm lược, dù đó là một nước đế quốc mạnh. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IV
của Đảng đã nhận định:" Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người và vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20,
một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc.
2. Bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước đã để lại cho Đảng ta nhìu bài
học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc
1. Một là, đề ra và thực hiện đường lối giương cao ngọn c ờ đ ộc l ập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nc đánh Mỹ.
Đường lối đó thể hiện ý chí và nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Bắc,
miền Nam của ca dân tộc Việt Nam, phù hợp với các trào lưu của cách mạng
thế giới, nên đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh cảu tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh của
nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến
đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
2. Hai là, tin tưởng vào sức mạnh của dân tôc, kiên đ ịnh tư tưởng chiến lược tiến
công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tư tưởng đó là 1 nhân
tố hết sức quan trọng để hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương biện
pháp đánh Mỹ, nhân tố đưa cuộc chiến đấu của dtộc đi tới thắng lợi
3. Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra bi ện pháp chi ến đấu đúng đắn,
sang tạo. để chống lại kẻ địch xâm lược hung mạnh, phải thực hiện chiến
tranh nhân dân. Đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn để tìm ra phương
pháp đấu tranh, phương pháp chiến đâu đúng đắn, linh hoạt, sang tạo.
4. Bốn là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chiến l ược chung đúng đắn phải có
công tác tổ chức thực hiệngiỏi, năng động sang tạo của các cấp bộ đảng trong
quân đội, của các ngành, các địa phương, thực hiện phương châm giành thắng
lợi từng bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn
5. Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đ ảng, xây dựng lực lượng
cách mạng ở cả hậu phương và tiền tuyến, phải thực hiện lien minh ba nước
đông dương và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ ngày càng to lớn c ủa các
nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân và chính phủ các nước yêu chuộng hòa
bình và công lý trên thế giới.
KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đi qua, nhưng những ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
của nó thì mãi tồn tại cho đến hôm nay và mai sau. Chính vì thế mà tôi làm bài tiểu luận này
mong một phần nào đó khơi dậy truyền thống yêu n ước trong mỗi người chúng ta mà có lẽ
sống trong thời bình ta đã quên mất. Cũng với bài tiểu luận nay, tôi hi vọng các bạn thấy rõ
được tầm quan trọng của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói riêng và cuộc chiến
giành độc lập dân tộc nói chung. Sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và sáng tạo đó của Đảng đã
giúp chúng ta có được tự do và độc lập hôm nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong thời
- chiến mà còn rất ý nghĩa trong thời bình. Chúng ta rất cần s ự lãnh đạo tài tình của Đảng
trong công cuộc đổi mới đất nước - thời kì có những biến đổi sâu sắc về mọi mặt và những
thử thách vô cùng lớn.
Là sinh viên, là những chủ nhân tương lai của đất nước chúng ta không chỉ học để nuôi sống
bản thân, gia đình mà còn có trách nhiệm với xã hội, với đất nước. Vì vậy, ngay hôm nay
chúng ta có thể làm được nhiều điều để giúp ích cho đất nước, cho Đảng ta như tìm hiểu lịch
sử đảng, tham gia các phong trào về chính trị, luôn đặt niềm tin vào Đảng và kiên quyết bài
trừ những nguồn tin thất thiệt gây tổn hại uy tín của Đảng, lên án những người phản động
chống l ại chính quyền, chống lại Đảng…Nói tóm lại, chúng ta hãy làm những gì có thể để
góp phần xây dựng đảng vững mạnh và nâng cao uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân
Việt Nam.
• MỤC LỤC THAM KHẢO
- Đảng cộng sản Việt Nam :văn kiện đảng toàn tập, nhà xuất bản. Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2004.
- http://www.wattpad.com
- Giáo trình lịch sử đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản chính trị quốc gia
( 2006 )
- Website đảng cộng sản Việt Nam : http://www.cpv.org.vn/
- Website báo vietnamnet: http://vietnamnet.vn/
- Website lịch sử Việt Nam: http://www.lichsuvietnam.vn/
nguon tai.lieu . vn