Xem mẫu

  1. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Tiểu luận Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -1-
  2. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1. KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, tồn tại và gắn chặt với nền kinh tế thị trường. Một số nhà kinh tế cho rằng: Lạm phát là tình trạng mức giá trung bình (level price) của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định, nhưng một số khác lại khẳng định rằng Lạm phát là hiện tượng tiền giấy dư thừa so với nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa và xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Trong bộ "Tư bản", C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị tiền giấy giảm xuống và lạm phát xuất hiện. 2. CÁC KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN: - Giảm phát: là tình trạng mức giá trung bình của nền kinh tế giảm xuống trong một thời gian. - Giá trung bình của túi thị trường (market bas ket) là số bình quân gia quyền các mức giá của các sản phẩm, dịch vụ mà người tiêu dùng mua. - Chỉ số giá cả: là chỉ tiêu phản ánh tương quan giá cả trung bình của một thời kỳ so với thời kỳ gốc. - Tỷ lệ thất nghiệp: là tỷ lệ (%) giữa số người thất nghiệp với tổng số lực lượng lao động xã hội. (những người thất nghiệp: là những người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm). - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là giá trị của toàn bội lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên lãnh thổ một nước tính trong một thời kỳ (thường là 1 năm). - Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là giá trị của toàn bộ lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước tạo ra, được tính trong một thời kỳ (thường là trong 1 năm). Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -2-
  3. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng 3. BIỂU HIỆN CỦA LẠM PHÁT: Mức giá chung của hàng hóa dịch vụ tăng lên trong một khoảng thời gian nhất định, giá trị đồng tiền giảm. 4. ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT: Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát tính bằng GNP danh nghĩa/GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn. Ip = ∑ip . d . (ip: chỉ số giá cả từng loại nhóm hàng; d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng) Một cách tính chỉ số lạm phát (tỷ lệ lạm phát) khác dựa vào tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá. Tỷ lệ lạm phát: là tỷ lệ tăng hàng năm (%) trong mức giá trung bình của hàng hóa dịch vụ. Tỷ lệ lạm phát được đo bằng tỷ lệ (%) thay đổi của chỉ số giá cả. Chỉ số giá cả có các loại như sau: chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI). Chỉ số giá năm (t) – Chỉ số giá năm (t-1) r(t) = % Chỉ số giá năm (t-1) Trong đó: Giá trung bình của túi thị trường năm (t) CPI năm t = Giá trung bình của túi thị trường năm gốc (năm gốc = năm cơ sở = base year) 5. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT: - Có nhiều cách phân loại lạm phát, khi căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, ta có cách phân loại khác nhau. Nhưng nhìn chung có 2 cách phân loại lạm phát. 5.1. Căn cứ vào khả năng dự báo: - Lạm phát dự báo: là lạm phát diễn ra đúng như dự kiến, lạm phát này không xảy ra những tỗn thất lớn cho nền kinh tế vì dự báo và kiểm soát được. Tuy nhiên lạm phát dự báo có hai ảnh hưởng không tốt với nền kinh tế đó là: tạo chi phí cơ hội cho Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -3-
  4. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng việc giữ tiền và kích thích gia tăng khối tiền giao dịch trong nền kinh tế. - Lạm phát ngoài dự báo: là phần tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài dự báo của mọi người. Khi đó: Tỷ lệ lạm phát thực = TLLP dự đoán + TLLP ngoài dự đoán. Loại lạm phát này rất nguy hiểm nó gây ra sự phân phối lại của cải trong dân chúng (giữa người đi vay và người cho vay, người trả lương và người hưởng lương,…) 5.2. Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát: - Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn…Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã : Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: Xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -4-
  5. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng lạm phát dưới 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 6. NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xảy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy). Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. 7. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ: 7.1. Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. 7.2. Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -5-
  6. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do đó nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. 7.3. Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. 7.4. Đối với chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -6-
  7. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Chương 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2009 Trong điều hành vĩ mô phát triển kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế, chống lạm phát. Theo dõi tình hình lạm phát là công việc thường xuyên của mọi nhà nước. Ở Việt nam trong giai đoạn 2006-2009, từ công bố qua các năm của tổng cục thống kê Việt Nam ta có biểu đồ so sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam và tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng nhằm phán ánh tình hình lạm phát như sau: SO SÁN H CP I VÀ GDP CỦA VIỆT NAM TỪ 2006 - 2009 25.00% 22.97% 20.00% 15.00% 12.63% CPI 10.00% 8.17% 8.38% GDP 6.60% 6.23% 6.88% 5.32% 5.00% 0.00% 2006 2007 2008 2009 (Nguồn: Tổng CụcThống Kê) 1. CÁC LOẠI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: Theo các chuyên gia, lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho tình trạng nay càng trở nên xấu hơn. 1.1. Lạm phát tiền tệ: Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, quản lý yếu kém… dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát. Sự mất cân đối cơ cấu đầu tư và kém hiệu quả - đặc biệt là khu vực đầu tư công với những khoản chi tiêu ngân sách (cụ thể là: chi tiêu ngân sách năm sau cao hơn năm trước, các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài, tốn kém, hiệu quả thấp..) đã đưa một lượng tiền mặt lớn ra thị trường. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -7-
  8. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Đó là cơ chế nới lỏng tiền tệ ưu tiên tăng trưởng từ các năm trước. Khi nhìn vào 2 con số: tốc độ tăng M2 tính dồn từ 2005 đến 2007 tăng 92%. Như vậy, tốc độ tăng M2 trong 3 năm trước đã gấp 3,7 lần tốc độ tăng GDP là quá cao so với cũng con số này bình quân tại các nước trong khu vực thường không lớn hơn 1,5 lần. Đó là việc lượng ngoại tệ tăng mạnh. Năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng tiền mặt trên thị trường tăng lên. Tình trạng Đôla hoá ở Việt Nam còn khá nặng nề, đã trở thành một nhóm trong những nhóm nhân tố tác động trực tiếp đến chính sách tiền tệ (CSTT) nên việc kiểm soát lạm phát càng trở nên khó lường hơn. Khi USD lên giá rất mạnh so với VND ngay cả khi chính đồng USD lúc đó đang bị mất giá mạnh so với các đồng tiền thông dụng quốc tế khác. Trong khi tại Việt Nam, đồng USD s au khi mất giá mạnh so với VND vào quí I/2008, có lúc tỷ giá tụt xuống 15.300đ/USD, lại lên giá tới 9,38%: 16000đ/USD tháng 10/2007 so với hơn 17.500đ/USD cuối tháng 6/2008. 1.2. Lạm phát cầu kéo: Bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Nguyên nhân là tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Năm 2006, 2007 , nền kinh tế phát triển nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên lạc, hạ tầng quá tải, công trình – dự án chậm tiến độ ...). Nỗ lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 – 9% trong năm 2008 dẫn tới mất cân đối cung cầu làm lạm phát tăng cao. 1.3. Lạm phát chi phí đẩy: Nguyên nhân là giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, s ắt thép, nhựa, … Những loại chi phí tăng Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -8-
  9. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát. Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao. Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó. 2. CÁC NHÓM NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM: Theo TS Nguyễn Đình Thọ, Đại học ngoại thương Hà Nội thì cho rằng tại thời điểm năm năm 2007 lạm phát ở Việt Nam hội tụ đủ các nguyên nhân như sau: 2.1. Nhóm thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế.: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7% s o với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tạo cơ hội nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề "thắt cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 -9-
  10. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng 2.2. Nhóm thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài: Đó là giá cả các loại hàng hóa trên thế giới đã tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô, lên cao gấp 2 đến 3 lần so với năm 2003. Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1-2007 lên 89,4 USD/thùng tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 125,96 USD/thùng vào ngày 9-5-2008. Tốc độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007 và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát trên diện rộng ở tất cả các nước trên thế giới. Đến cuối năm 2007, lạm phát so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam là 12,63% và đến tháng 4-2008, tỷ lệ này đã là 21,42%. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn gấp đôi mức lạm phát của một số nước trong khu vực. Tác động của lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam thường cao hơn gấp đôi các nước khác trong khu vực là do Việt Nam thực thi chính sách neo giá đồng nội tệ với USD. Kết quả là, trong khoảng thời gian từ tháng 1-2004 đến nay, đồng Việt Nam có xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi đồng tiền của các nước khác trong khu vực có xu hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD. Giá hàng hóa, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh trong thời gian gần đây là do tăng trưởng cầu thế giới tăng nhanh hơn tốc độ tăng cung với bằng chứng là lượng hàng tồn kho hàng hóa nguyên liệu giảm mạnh. Đồng USD mất giá danh nghĩa làm cho giá hàng hóa tính theo đồng tiền khác như EUR, GBP giảm tương đối và càng khuyến khích cầu. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư trên thế giới gia tăng mua hàng hóa đề phòng vệ rủi ro mất giá USD. Kết quả là giá hàng hóa nguyên liệu tăng lên cao hơn mức bình thường, tăng do tăng cầu và tăng do USD mất giá. Các nước trong khu vực có điều chỉnh nâng giá nội tệ tương ứng với mức mất giá danh nghĩa của Mỹ (đo bằng chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa NEER) s ẽ điều chỉnh giảm được tác động tăng giá do mất giá đồng USD. Hình 3 minh họa mức biến động giá lương thực theo nội tệ của các nước so với giá danh nghĩa của đồng USD và tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER). Có thể nhận thấy, giá lương thực thế giới tính theo VNĐ cao hơn mức giá tính theo USD do đồng Việt Nam mất giá so với USD. Giá Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 10 -
  11. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng lương thực theo bạt (Thái Lan) và nhân dân tệ (Trung Quốc) còn có phần rẻ hơn mức tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER) của Mỹ. Chính nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt, Thái Lan và Trung Quốc giảm được tác động sốc giá lương thực từ nước ngoài. Việt Nam thi hành chính sách neo tỷ giá và vì vậy đã nhập khẩu lạm phát giá lương thực theo USD. Đây có thể là nguyên nhân chính làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. 2.3. Nhóm nguyên nhân tiếp theo Đó là yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba năm từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12-2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường Mặc dù không thể phủ nhận yếu tố tiền tệ là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát hiện tại, nhưng cũng cần khẳng định rằng, nguyên nhân chủ yếu là do thiên tai, dịch bệnh lây lan và giá nguyên liệu đầu vào tăng đột biến dẫn đến giá lương thực tăng cao. Trong những năm 1999, 2000, mức cung ứng tiền tệ M2 đã có lúc lên tới 56,2% nhưng Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thiểu phát. Hơn nữa, độ trễ của chính sách tiền tệ là từ 6-36 tháng, nên không phải cung tiền tăng lập tức dẫn tới lạm phát. Trong tình hình hiện nay, tốc độ tăng trưởng cung ứng tiền tệ M2 chỉ đóng vai trò xúc tác cho quá trình nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài. Trên thực tế, ở bảng 1 chúng ta có thể thấy do lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng tới 42,7% trong chỉ số CPI, nên phần đóng góp của giá lương thực thường chiếm tới 70% động thái của chỉ số giá tiêu dùng CPI (được coi là tỷ lệ lạm phát). Trong quý III năm 2007, phần đóng góp của các yếu tố phi lương thực vào lạm phát chỉ là 3,5%. Con số này là 4% Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 11 -
  12. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng cho quí IV năm 2007, và ngay cả khi lạm phát lên tới 15,7% vào tháng 2-2008, thì lương thực thực phẩm góp tới 10,8%. Tháng 3 và tháng 4, tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ năm trước là 19,4% và 21,4%, phần đóng góp của lạm phát giá lương thực, thực phẩm là 13,1% và 14,6%. 3. DIỄN BIẾN NĂM NĂM 2009 VÀ DỰ BÁO 2010: Theo nhận định thì năm 2009, lạm phát chưa bùng phát là bởi kinh tế suy giảm - người tiêu dùng đang lo tiết kiệm để phòng ngừa rủi ro nên cầu về tiêu dùng còn yếu. Trong năm 2010, kinh tế vượt khỏi suy thoái thì cầu về tiêu dùng sẽ tăng mạnh và gây áp lực lạm phát. Năm 2009, giá cả các mặt hàng tiêu dùng không tạo thành cú sốc như năm 2008, kể cả gạo. Diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng trong năm 2009 đã được phục hồi lại s au những những bất thường của hai năm 2007 và 2008. Năm nay, giá cả được dự báo là sẽ có tăng nhưng không tạo yếu tố gây sốc lớn, nếu không có gì quá bất thường (Nguồn: Tổng CụcThống Kê) Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi và nhập khẩu đầu vào sẽ tăng giá nhưng kinh tế thế giới cũng không thể phục hồi nhanh được. Với mục tiêu kiềm chế nhập Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 12 -
  13. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng siêu, kiềm chế nhập khẩu thì tác động từ giá cả thế giới đến mặt bằng giá trong nước sẽ đỡ hơn. Đồng thời, sự quan ngại lạm phát cao trong năm 2009 khiến cho chính phủ có những yêu cầu về lộ trình tăng giá, thế nhưng trong năm 2010, việc tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ, trong đó có giá điện, giá than, nước sạch… cũng sẽ làm cho mặt bằng giá tiêu dùng tăng lên. Theo ông Nguyễn Tiến Thỏa (Cục trưởng Cục Quản lý giá - Bộ Tài chính), năm 2010 lạm phát có nguy cơ tăng cao trở lại vì lượng tiền trong lưu thông tăng lên từ sự nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa từ 2009 chuyển qua, sức mua tăng lên nhờ được tăng lương, đẩy nhanh chính sách an sinh xã hội, chương trình hỗ trợ giảm nghèo…, giá nhiều mặt hàng quan trọng tăng lên ảnh hưởng đến mặt bằng giá chung. Theo các chuyên gia, tình hình hiện nay ở cả trong nước và thế giới đều tiềm ẩn những nguy cơ cao gây tăng giá. Năm 2010, các tổ chức tài chính, tiền tệ uy tín trên thế giới nhận định, nền kinh tế quốc tế sẽ bước vào giai đoạn hồi phục, kéo theo mặt bằng giá cả có thể sẽ tăng lên. Cùng với đó, nhiều nước đã quyết định tiếp tục duy trì gói kích thích kinh tế, lượng tiền tiếp tục được bơm thêm ra lưu thông sẽ tạo sức ép khá mạnh đến lạm phát. Tuy nhiên, vào năm 2009 Việt Nam đã có điều chỉnh mạnh tỷ giá hối đoái nên năm nay được dự báo là sẽ không có điều chỉnh tỷ giá như thế nữa. Mà tác động của giá cả thế giới vào Việt Nam liên quan rất nhiều đến tỷ giá hối đoái. Vì thế, TS. Vũ Đình Ánh nhận định: “Theo tôi, lạm phát năm 2010 nhiều khả năng sẽ cao hơn năm 2009. Thế còn nó cao đến mức nào thì phụ thuộc vào việc điều hành chính sách của Chính phủ, chứ không phải phụ thuộc vào tác động bên ngoài…”. Đồng thời, bội chi ngân sách được công bố là 6,9% GDP, trong khi năm 2008 bội chi ngân sách chỉ ở mức trên 5% thì lạm phát đã lên tới 19,89%. Vì thế, nguy cơ lạm phát cao vào năm 2010 còn có thể xảy ra bởi một số nhân tố do bội chi ngân sách quá lớn. Ngoài ra, các nguyên nhân mang tính quy luật khách quan như thiên tai, dịch bệnh… có thể xảy ra làm ảnh hưởng cung - cầu, tác động đến giá cả thị trường. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 13 -
  14. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Theo ông Vũ Đình Ánh: “Các mục tiêu của năm 2010 như tốc độ tăng trưởng 6,5%, lạm phát khoảng 7% có thể đạt được thông qua các biện pháp không mang tính cấp bách, tình thế, mà gắn với chiến lược phát triển tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả hơn… Xét đến mục tiêu tăng GDP 6,5% trong năm nay, tôi chưa thấy có yếu tố nào là động lực cho tăng trưởng cả. Đầu tư thì chắc là không thể thêm nữa vì đã tăng cao quá rồi, bởi nếu ICOR (hệ số sinh lời từ đồng vốn đầu tư) tạm tính là 8 thì đầu tư ít nhất phải tăng 45%!... Bội chi năm tới là 6,2% GDP, theo tôi là hơi cao, nên chắc cũng phải thắt chặt chi tiêu. Còn tín dụng năm nay đã cao, nếu năm tới khống chế mức 25% thì rất khó có thể đáp ứng đủ nguồn lực để đảm bảo tăng trưởng 6,5%. Soát lại các yếu tố để đảm bảo tăng trưởng, tôi không thấy khả năng nào có thể đảm bảo mức tăng trưởng 6,5% cả… Cho nên, nếu Chính phủ mở một yếu tố nào đó, mà mở quá mức đến không kiểm soát được thì sẽ tạo ra lạm phát. Đó là cái đáng ngại của năm 2010, mà tôi nói phụ thuộc vào chính sách là vì thế”. Lo ngại của các chuyên gia trong nước cũng chính là những điểm lưu ý đối với Việt Nam trong báo cáo mới đây của các tổ chức quốc tế là kinh tế có điều kiện hồi phục, thoát khỏi ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng lạm phát cao có thể trở lại... Cụ thể, ADB dự báo, nếu Chính phủ không thông qua các biện pháp kích thích tài khóa bổ sung, nếu các chính sách thắt chặt tiền tệ vẫn được duy trì thì tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ lên 6,5% vào năm 2010 và lạm phát là 8,5%. Còn IMF cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6% nhưng lạm phát có thể tăng từ 7% trong năm 2009 có thể lên 2 con số do tăng trưởng tín dụng mạnh, đồng thời giá hàng hóa thế giới cao trở lại cũng sẽ tác động đến giá cả trong nước. Tóm lại, có thể nhận thấy rằng có nhiều nguy cơ cho lạm phát xảy ra vào năm 2010 và lạm phát năm 2010 nhiều khả năng sẽ cao hơn năm 2009 không gây bất ngờ khi năm 2010 được “kế thừa” những yếu tố gây lạm phát từ năm trước. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 14 -
  15. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT ĐÃ VÀ ĐANG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006- 2010 1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ổn định lạm phát là một hành vi của chính phủ và Ngân hàng Nhà nước điều trị cho một nền kinh tế khi có lạm phát xảy ra. Muốn bình ổn hiệu quả thì nên tìm ra những nguyên nhân của lạm phát và từ đó có những liệu pháp thích hợp. Điều cần khẳng định ở đây là không có liệu pháp nào hoàn hảo, mọi liệu pháp bình ổn lạm phát đều có cái giá phải trả của nó. Không có một chính sách ổn định lạm phát nào hoàn chỉnh và lý tưởng cả cho mọi nền kinh tế. Lạm phát tiền tệ có thể được kiểm soát bằng một chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách thu chi ngân sách nghiêm ngặt. Tuy nhiên chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ hướng tới thu hẹp tín dụng và làm cho giá trị đồng tiền trong nước cao hơn so với đồng tiền nước ngoài, làm giảm trình độ cạnh tranh ngoại thương và làm cho cán cân ngoại thương bị thâm hụt. Ngoài ra, thu hẹp tín dụng sẽ làm cho lãi s uất trong nước gia tăng dẫn đến chi phí đầu tư tăng hơn trước do đó sẽ làm giảm nhiệt tình mở rộng chi tiêu đầu tư. Hơn nữa, trong khi khống chế lạm phát thì đòi hỏi chính phủ phải thắt lưng buộc bụng trong chi tiêu bằng các giải pháp tăng thuế thu nhập, giảm chi tiêu. Tăng thuế làm giảm nhiệt tình làm việc và giảm chi tiêu đầu tư khu vực doanh nghiệp. Giảm chi tiêu chính phủ sẽ có khả năng giảm chi tiêu phát triển, làm chậm tăng trưởng của những nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hóa. Theo thuyết tiền tệ Friedman, “tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát”. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách “hạn chế tiền tệ” hay “khắc khổ” thu, tăng tín dụng của ngân hàng trung ương, hạn chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp. Các cách tiếp cận khác: - Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn… nên đề ra những biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 15 -
  16. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng tiêu và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. - Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụn chính sách nói trên. Tuy nhiên biện pháp nàykéo theo sự suy thoái và thất nghiệp – một giá đắt – nên việc kiểm soát chính sách tiền tệ tài khóa trở nên phức tạp và đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Có thể xóa bỏ lạm phát hay không? Cái giá phải trả của việc xóa bỏ hoàn toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó, chỉ số hóa các yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi s uất… Đó là cách làm cho sự thiệt hại của lạm phát ít nhất. Chúng ta cùng xem xét qua một số các giải pháp ổn định lạm phát do chi phí đẩy: 1.1. Neo tỉ giá (Exchange rate anchor): là một giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện. USD đang mất giá và giá cả hàng hóa dịch vụ, đặc biệt là giá vàng bên ngoài tăng. Cố định tỉ giá trong điều kiện như vậy có khả năng bình ổn lạm phát nhưng lại nâng giá đồng tiền VNĐ vốn dĩ giá trị đã cao trong cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lý. Hệ quả là trình độ cạnh tranh với các nước khác bị sút giảm trong điều kiện Việt Nam đang nhập siêu. Ngoài ra suất sinh lợi của việc giữ USD cũng không còn hấp dẫn. Mọi người dân có tiền đổ hết vào đầu cơ bất động sản khi mà giá đất đắt gần bằng Nhật Bản nhưng thu nhập Việt Nam chỉ bằng 2% so với họ. Lạm phát càng khó bị kiểm soát khi mà khối lượng tiền trong dân chúng sẽ tăng khi nhà nước thực hiện cách thanh toán lương mới (mỗi tháng chi thêm hàng ngàn tỉ đồng từ tháng 10 trở đi). 1.2. Chính sách tiền tệ thắt chặt: Trong tháng 7 - 2004, Ngân hàng Nhà nuớc đã tăng dự trữ bắt buộc từ 2% đến 5% đối với VNĐ và từ 4% đến 8% đối với ngoại tệ nhằm kiểm soát tín dụng. Tuy nhiên tăng dự trữ bắt buộc trong điều kiện lãi suất tín dụng cũng như lãi s uất tiền gởi chậm thay đổi sẽ làm tăng chi phí của hệ thống ngân hàng thương mại. Chưa kể sức ép của dân chúng yêu cầu một mức lãi s uất tiền gởi danh nghĩa cao hơn khi họ nghĩ rằng có lạm phát trong nền kinh tế. Hiện nay tốc độ tăng trưởng tín dụng đã cao hơn tốc độ huy động tiền gởi. Lúc này hệ thống ngân hàng Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 16 -
  17. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng thương mại đứng trước nguy cơ cao vì lãi suất tín dụng không tăng được, trong khi chi phí cho dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gởi tăng lên. Nhưng nếu cho phép ngân hàng thương mại gia tăng lãi suất tín dụng thì sẽ làm cản trở đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Như vậy, thắt chặt tiền tệ có thể bình ổn lạm phát nhưng nguy cơ về sự phát triển bền vững hệ thống tài chính cũng như cản trở đầu tư khu vực tư nhân là cái giá phải trả. 1.3. Giảm thuế nhập khẩu hoặc áp dụng giá trần: cho các mặt hàng chiến lược cũng có thể tạm thời bình ổn được lạm phát. Thông thường hai công cụ này được chính phủ áp dụng đồng thời cho một loại hàng hóa chiến lược nào đó. Ví dụ việc giảm thuế nhập khẩu xăng dầu sẽ kèm theo giá xăng dầu được chỉ đạo bởi chính phủ. Thuế nhập khẩu xăng dầu thấp hơn nhưng giá xăng bán ra thị trường cũng thấp hơn giá trị của nó. Khi đó chính phủ hàng ngày chi ra hàng tỉ để ổn định lạm phát. Mức thuế thấp hơn sẽ làm thất thu ngân sách trong điều kiện những khoản chi bắt buộc vẫn tồn tại. Hệ quả là khoản vay nợ trong và ngoài nước sẽ tăng lên đáng kể. Ngoài ra khi duy trì một mức giá thấp hơn cân bằng thị trường thì sẽ có hiện tượng cầu vượt cung, điều này tất yếu dẫn đến một thị trường chợ đen và nạn đầu cơ. Có quá nhiều công cụ để chính phủ có thể bình ổn lạm phát chi phí đẩy nhưng hầu như không có một giải pháp nào hoàn hảo. Lạm phát là một chủ đề nhạy cảm với mọi người. Chúng ta phải nhìn thẳng vào một thực tế rằng: khắc phục lạm phát luôn luôn có giá phải trả. Neo tỉ giá quá mức sẽ dẫn đến mất cạnh tranh ngoại thương. Thắt chặt tiền tệ quá liều sẽ dẫn đến một hệ thống ngân hàng mong manh, giảm nhiệt tình đầu tư của khu vực tư nhân. Giảm thuế trong điều kiện chi ngân sách không thể kiểm soát thì sẽ dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài. Áp dụng giá trần dễ tạo điều kiện cho các hoạt động đầu cơ trục lợi. Các hệ quả này dẫn đến chi phí đánh đổi của nền kinh tế khi khắc phục lạm phát là tăng trưởng chậm hơn, thất nghiệp nhiều hơn. Nói như thế thì không có nghĩa là nên làm ngơ với lạm phát mà hãy nhìn nhận lạm phát đang ở mức độ nào, thuộc loại nào để từ đó chính phủ và các nhà chính sách có những liệu pháp thích hợp nhưng không chủ quan để tiến đến ổn định nền kinh tế. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 17 -
  18. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng 2. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT TẠI CÁC NƯỚC KHÁC VÀ ÁP DỤNG THỰC TIỂN TẠI VIỆT NAM: 2.1. Nhật Bản: Tháng 12 năm 1984 Chính Phủ đã nêu 9 nguyên tắc nhằm ổn định kinh tế. Đối phó với đợt lạm phát 1970, Nhật đã áp dụng chính sách giảm chi tài chính và tăng xuất khẩu nhằm ổn định vật giá. Từ tháng 4-12 năm 1973 đã năm lần nâng lãi s uất, đồng thời quản lý vật giá một cách hữu hiệu. Nhờ những giải pháp đúng đắn Nhật Bản không những chặn đứng được lạm phát mà còn tăng thực lực cuả nền kinh tế. 2.2. Hàn Quốc – Hồng Kông – Đài Loan – Singapore: Trong thời kỳ đầu “ Bốn con rồng” đều thực hiện chính sách kinh tế thị trường tự do hay mở cửa, nhưng kinh tế hàng hoá không phát triển, sản xuất lạc hậu. Khi đó lại bị các nước cạnh tranh mạnh mẽ và lũng đoạn nặng nề, cho nên các nước này đều ý thức được rằng không thể buông lỏng tự do cho cơ chế thị trường. Họ buộc phải áp dụng biện pháp: Chính Phủ can thiệp mạnh bằng cách thực hiện một chính sách phát triển kinh tế có lý trí và trình tự. Chế độ quan chức liêm khiết có hiệu quả, không ngừng hoàn thiện chế độ luật pháp nhà nước và hệ thống chấp hành luật pháp nghiêm ngặt. Tất cả những điều kiện đó tạo thành cơ sở bảo đảm cho bước phát triển kinh tế thuận lợi và nó còn giúp cho Chính Phủ thực hiện những biện pháp can thiệp của mình vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện môi trường xã hội và kinh tế có trật tự thì các mặt công tác của Chính phủ được quán triệt và chấp hành tương đối nghiêm chỉnh, từ đó giúp Chính phủ thức hiện được các mục tiêu dự định: phát triển kinh tế cao lạm phát giảm thấp. Có thể nêu 6 biện pháp mà các chính phủ đã thực hiện chủ yếu sau: a. Lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn; nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp; b. Nghiêm khắc khống chế giá cả và bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người người tiêu dùng; c. Bảo đảm cân bằng thu chi tài chính, sử dụng biện pháp tài chính ngân hàng để khống chế lạm phát; Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 18 -
  19. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng d. Tăng cường quản lý ngoại hối, khống chế lạm phát; e. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài; f. Qui định những hành vi của xí nghiệp và thương nhân phối hợp chặt với chính phủ. 2.3. Thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua: 2.3.1. Thực trạng kiểm soát bằng các công vụ của chính sách tiền tệ những năm qua: a. Dự trữ bắt buộc: Năm 1991-1992, các ngân hàng quốc doanh ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định còn có một lượng vốn tiền gửi khá lớn tại Ngân hàng Trung Ương. Điều này trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá công cụ dự trữ bắt buộc vì như vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì hầu như cũng chẳng ảnh hưởng gì đến khả năng thanh toán và khối lượng tín dụng cung ứng. Mặt khác một số vấn đề tồn tại về mặt nghiệp vụ và tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc đã giảm tính chất nhaỵ cảm của công cụ. Thời gian qua ngân hàng nhà nước cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm mục tiêu góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp.. b. Tái chiết khấu: Tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Những hạn chế của công cụ tái chiết khấu ở nước ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ công cụ tái chiết khấu (chưa hoàn thiện) đã góp phần đưa tỷ lệ lạm phát ở nước ta từ mức 2 con số ở các năm trước xuống mức 1 con số ở năm 1993. c. Hoạt động thị trường mở: Điều 21 luật Ngân hàng Nhà nước quy định " Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 19 -
  20. “Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, thực trạng và giải pháp” Giáo viên hướng dẫn: TS. Vũ Thị Minh Hằng tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”. Quy định trên đã mở ra cho công cụ thị trường mở một lối đi khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Trên thực tế vốn nằm trong các định chế tài chính còn khá nhiều nhưng cho vay ra có nhiều rủi ro do đó họ quay trở lại mua tín phiếu kho bạc để đảm bảo an toàn và chống lỗ. Tuy nhiên do thị trường đấu thầu chỉ bán tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm nên không tạo ra công cụ tiền tệ để thúc đẩy sự ra đời của hoạt động thị trường mở. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố tác động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay đổi cơ sở tiền tệ trên thị trường. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát. Do đó việc chính phủ tìm những giải pháp để mau chóng đưa thị trường mở hoạt động một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng và cấp thiết. d. Lãi suất: Tháng 06/1992, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất theo hướng: “Đảm bảo lãi s uất dương - Quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu, còn mức lãi s uất cụ thể sẽ do các ngân hàng thương mại quyết định - Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi s uất, thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng”. Đây là bước cải tiến cơ bản, từng bước tự do hoá lãi suất. Trong những năm tiếp theo biện pháp chủ yếu là nâng cao lãi suất bằng biện pháp hành chính lên mức cao, thực hiện thắt chặt tín dụng cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh và ngân sách nhà nước. Quyết định 381/QĐ-NH ngày 28-12-1995 quy định kể từ ngày 01/01/1996, lãi s uất trần chính thức trở thành một trong những công cụ chủ chốt để điều hành chính sách tiền tệ. Bước đầu áp dụng không tránh khỏi những vướng mắc nhưng sau một thời gian khá ngắn, hệ thống ngân hàng thương mại dường như đã thích nghi được với cơ chế lãi suất trần, tự điều chỉnh nhằm tối ưu hoá cơ cấu tín dụng và cân đối tài chính để sẵn sàng ứng chiếu với 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trong 2 năm 1996-1997 và lần đầu chỉnh tăng lãi suất trần gần đây trong tháng 01/1998. Nhóm thực hiện: Nhóm 12 – Lớp Đêm 01 – Cao học K19 - 20 -
nguon tai.lieu . vn