Xem mẫu

  1. Tiểu luận Kỹ năng của luật sư trong các vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường các tranh chấp về quyền và lợi ích dân sự luôn diễn ra mạnh mẽ, phức tạp; thậm chí còn phát sinh những tiêu cực gây tổn hại trực tiếp đến quyền lợi cá nhân, tổ chức, nhà nước và toàn xã hội. Pháp luật dân sự là cơ sở pháp lý để quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng chủ thể trong quan hệ dân sự nhằm đảm bảo quyền bình đẳng, tự nguyện, quyền con người trong quan hệ xã hội; ủồng thời loại bỏ những hành vi, những yếu tố gây cản trở trong quan hệ dân sự lành mạnh tạo nền tảng ổn định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong những vấn đề của luật dân sự nổi bật nhật là vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản... của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Qua đó,vai trò và kỹ năng của luật sư trong các vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đề cao. NỘI DUNG 2
  3. I..Hành vi có lỗi và trách nhiệm bồi thường II.Kỹ năng của luật sư trong vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng III.Những vấn đề lý luận và thực tiễn I.Hành vi co lỗi và trách nhiệm bồi thường: 1.Hành vi có lỗi: Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 309 BLDS thì "Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác:. Khoản 1 Điều 309 nói trên quy định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự 3
  4. thì người có hành vi đó bị coi là có lỗi. Theo quy định của khoản 2 Điều 309 BLDS thì nội dung của khoản này có ý nghĩa viện dẫn trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Khoản 2 Điều 309 quy định: "Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra". Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vấn thực hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi có lỗi cố ý của mình. Về măt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại luôn nhằm mục đích có thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện dưới hai mức độ: - Mong muốn có thiệt hại xảy ra. - Không mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí- hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người đó nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là nguyên nhân của thiệt hai. Theo nội dung khoản 2 điều 309 BLDS, chúng tôi thấy cần thiết phải làm rõ những quan hệ và yếu tố có liên quan đến phạm vi lỗi của người gây thiệt hại. Một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại đó xảy ra thì lỗi của người gây thiệt hại là lỗi cố ý. Những yếu tố liên quan đến hình thức lỗi cố ý gây thiệt hại được thể hiện ở những mức độ khác nhau, do biểu lộ ý chí của chủ thể đã là yếu tố quyết định hình thức lỗi. Khi xác định lỗi cố ý gây thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện bất ngờ. Sự kiện bất ngờ được qui định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được dẫn chiếu vì 4
  5. điều luật này không những được áp dụng trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó. 2.Hành vi gây thiệt hại: Mối liên hệ giữa các yếu tố trên không thể làm phát sinh TNDS ngoài hợp đồng do thiếu yếu tố lỗi của người gây thiệt hại và hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi trái pháp luật. Không có mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Nói các khác, người có hành vi liên quan đến thiệt hại không phải là người gây thiệt hại do nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện, đồng thời người có hành vi đó không thể hiện ý chí mong muốn hoặc không mong muốn nhưng để mặc thiệt hại xảy ra cho người khác. Như vậy, người có hành vi thuộc trường hợp bất ngờ thì hành vi của người đó không có lỗi tồn tại ở hình thức này hay hay hình thức kia, ở mức độ này hay mức độ khác. Theo qui định của pháp luật, thì người có hành vi đó không chịu trách nhiệm dân sự. Khi xác định và phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự (TNDS) ngoài hợp đồng, cần thiết phảiỉ đặt yếu tố đó trong mối liên hệ với những sự kiện pháp lý khác, mà rõ nét hơn cả là sự biến pháp lý tuyệt đối và sự biến pháp lý tương đối là những căn cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp tương đối là một sự kiện pháp lý mà sự khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới hình thức lỗi vô ý, do vậy người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong khoa học pháp lý các nhà luật học đều thừa nhận sự biến pháp lý tương đối là sự biến do con người tác động, còn sự thay đổi và chấm dứt của nó con người không kiểm soát được. Như vậy, hành vi tạo ra sự biến pháp lý tương đối là hành vi có lỗi và là hành vi trái pháp luật. Theo khoản 2 Điều 309 BLDS. lỗi vô ý được xác định là "trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được". Người gây thiệt hại đã không mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra mà là do không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì người có hành vi đó phải bồi thường. Thứ nhất, thiệt hại xảy ra hoàn tòan do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt 5
  6. hại không phải bồi thường. Lỗi của người bị thiệt hại có thể do vố ý hoặc cố ý nhưng phải xác định được lỗi đó hoàn toàn thuộc về người bị thiệt hại, theo đó người gây thiệt hại phải là người hoàn toàn không có lỗi thuộc hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay ở mức độ khác thì người có đó không phải bồi thường. Người gây thiệt phải chứng minh được là mình hoàn toàn không có lỗi, mà lỗi hoàn toàn thuộc về phía người bị gây thiệt hại. Mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra luôn luôn xác định được trong một thiệt hại cụ thể. Nhưng trách nhiệm pháp lý có phát sinh ở người có hành vi gây thiệt hại hay không còn tùy thuộc vào sự kiện xảy ra hoàn tòan hay không hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại để có cơ sở quy trách nhiệm dân sự cho người có hành vi gây thiệt hại. Nếu người gây thiệt hại, thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ lỗi của mình. Thứ hai, trong BLDS năm 1995 của nước CHXHCN Việt Nam khong có điều luật nào qui định về mức độ lỗi, àm chỉ qui định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc áp dụng hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Việc áp dụng Điều 621 BLDS trong việc giải quyết trách nhiệm dân sự hỗn hợp được dựa trên mức độ lỗi như thế nào. Lỗi không tự nó có vị trí độc lập với các yếu tố khác trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi cũng không phải là không thể xác định. Theo nguyên tắc chung của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, thì hình thức lỗi nếu xét về người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại không ảnh hưởng tới mức độ và trách nhiệm bồi thường của người đó. Người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho người khác thì người đó cũng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi có lỗi của mình gây ra. Không vì người gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc cố ý trong khi gây thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay giảm tương ứng. Tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt có điều kiện luật định, thì người gây thiệt hại ngoài hợp đồng có thể được miễn giảm mức bồi thường (do Tòa án xem xét quyết định). Những trường hợp phổ biến trong việc miễn giảm mức bồi thường cho người gây thiệt hại thường phát sinh trong các trường hợp sau đây: - Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình (Khoản 2 điều 610); - Người gây thiệt hại và người bị thiệt hại thỏa thuận với nhau về mắc bồi thường thấp hơn thiệt hại. Trường hợp thứ nhất, pháp luật qui định người gây tiệt hại bồi thường thấp hơn thiệt 6
  7. hại do hành vi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với điều kiện bồi thường của người gây thiệt hại. Qui định này đã loại trừ người gây thiệt hại có lỗi cố ý và pháp luật không qui định xem xét để giảm mức bồi thường. Tuy nhiên trong trường hợp người gây thiệt hại có lỗi cố ý nhưng có sự thỏa thuận với người bị thiệt hại về mức bồi thường thấp hơn thiệt hại, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội và được Tòa án thừa nhận, thì người gây thiệt hại do lỗi cố ý được miễn giảm phần bồi thường thiệt hại do mình gây ra, thuộc về trường hợp thứ hai. Thứ ba, Điều 621 BLDS qui định về trách nhiệm hỗn hợp trong trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường tương ứng với mức độ lỗi của mình. Trong BLDS của nước CHXHCN Việt nam không có qui định về mức độ lỗi, di vậy việc xác định trách nhiệm hỗn hợp trong trường hợp cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi gây ra thiệt hại thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ lỗi của mình. Mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa trên những cơ sở lý luận pháp luật hình sự trong việc phân biệt mức độ lỗi vô ý vì quá cẩu thả, vô ý vì quá tự tin của một người mà gây ra thiệt hại thì tương ứng với nó mức bồi thường thiệt hại có khác nhau. Như cách đặt vấn đề ở phần đầu bài viết này, thì lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác động trực tiếp đến hành vi của người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin mà gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý chủ quan của người đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên đã có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó. Qua phânt ích trên, chúng tôi đã loại trừ trường hợp cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại đều có lỗi cố ý trong việc gây thiệt hại, mong muốn thiệt hại xảy ra cho nhau và cho chính bản thân mình. Khi phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng cần thiết phải hiểu rõ quy định tại Điều 621 BLDS: "Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường". Hiểu như thế nào về trường hợp người bị thiệt hoàn tòan có lỗi, và lỗi đó là lỗi vô ý hay cố ý. Mối liên hệ giữa lỗi vô ý của người gây thiệt hại và lỗi cố ý của người bị thiệt hại có ảnh hưởng như thế nào đến việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên? Giải đáp những vấn đề nêu ra ở trên, cần tuân theo những nguyên tắc sau đây: 7
  8. a. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý hay cố ý, mà người gây thiệt hại hoàn toàn không có lỗi thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Trường hợp này phù hợp với việc gây tiệt hại trong tình thuống bát ngờ. b. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý trong việc gây ra thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp. c. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý, người bị thiệt hại có lôi cố ý thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Như vậy, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại cho dù lỗi đó có ở hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay mức độ khác thì người gây thiệt hại không có trách nhiệm bồi thường. 3. Trách nhiệm bồi thường: Từ cơ sở lý luận, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải thỏa mãn bốn điều kiện: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại; người gây thiệt hại có lỗi. Khi nhận thức về lỗi, có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phải do pháp luât qui định về hình thức và mức độ. Nhưng cũng có quan điểm lại cho rằng; lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng còn do suy đoán. Tuy nhiên, hai quan điểm khác nhau trong việc nhận thức về lỗi vẫn tồn tại, chúng tôi thấy cần thiết phải làm rõ vấn đề này để có sự thống nhất trong việc nhận thức về lỗi và do pháp luật qui định trước hay do suy đoán mà có? Điều 309 BLDS xác định rất rõ về lỗi và hình thức lỗi trong trách nhiệm dân sự. Khoản 1 Điều 309 qui định: "Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác." Như vậy, trong trách nhiệm dân sự nói chung, điều kiện lỗi không thể thiếu được 8
  9. trong việc xác định trách nhiệm dân sự. Hơn nữa, tại khoản 2 điều 309 BLDS đã qui định rất rõ về hình thức lỗi, nó vừa có ý nghĩa làm rõ khoản 1, đồng thời nội dung của nó cũng giải thích làm rõ lỗi là gì. cơ sở để xác định lỗi, hình thức lỗi, theo chúng tôi đều do pháp luật qui định trước, mà không thể do suy đoán. Bởi vì, lỗi "cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vấn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra". Và lỗi "vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được". Như vậy, đã quá rõ ràng rằng lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do pháp luật qui định cả về cơ sở xác định lỗi, cả về hình thức lỗi. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể nhận định lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là do suy đoán, mà do pháp luật qui định trước. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợpđồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có căn cứ qui trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật - người có hành vi có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, cũng cần phải phân biệt những trách nhiệm dân sự liên quan đến những quan hệ dân sự và những chủ thể nhất định của quan hệ dân sự đó và trách nhiệm dân sự của chủ thể, Như vậy, không cần thiết phải đưa ra quan điểm trong việc nhận thức về lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là do suy đoán. Nhận thức như trên không chuẩn xác về mặt khoa học, bởi vì lỗi, hình thức lỗi đã được qui định rất rõ và đầy đủ tại Điều 309 BLDS. Những suy diễn ngoài nội dung Điều 309 BLDS, do vậy không cần thiết và cũng không đúng. 9
  10. 4.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Bồi thường thiệt hại được thực hiện theo nguyên tắc: bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời”. Bồi thường “toàn bộ” thể hiện triết lý rằng, không ai được lợi từ việc bị thiệt hại và không ai phải bồi thường vượt quá phần thiệt hại mà mình đã gây ra. Nguyên tắc này đảm bảo cho các chủ thể cần có biện pháp phòng ngừa hợp lý, tránh tình trạng tạo dựng những tình huống gây ra thiệt hại để kiếm lời. Tuy nhiên, pháp luật ở một số nước lại cho phép bồi thường gấp ba lần thiệt hại thực tế xảy ra, thậm chí, trong nhiều trường hợp, pháp luật còn buộc người có hành vi vi phạm phải bồi thường gấp rất nhiều lần đối với một số loại hành vi vi phạm nhất định (chẳng hạn vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng) với lý do “răn đe người có hành vi gây thiệt hại” và “khuyến khích người bị thiệt hại khởi kiện”. 1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có thiệt hại xảy ra b) Có hành vi trái pháp luật c) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra d) Người gây thiệt hại có lỗi cố ý hoặc vô ý 2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó. Đây là một sự khẳng định về mặt pháp lý đối với căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, quy định nh khoản 2 là chưa đủ để luận giải vì sao cha mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho con vị thành niên, vì sao pháp nhân phải bồi thường do người của tổ chức mình gây ra và nhiều trường hợp tương tự khác. 10
  11. 5.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân : - Người từ đủ mời tám tuổi trở lên gây thiệt hại, thì phải tự bồi thường. - Khi người chöa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”. Về mặt kỹ thuật lập pháp, quy định nêu trên cha thống nhất, vì khoản 1 đã khẳng định rằng “(mọi) người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”, trong khi đó, khoản 3 lại quy định trường hợp bồi thường đối với người mất năng lực hành vi dân sự (bất kể ở độ tuổi nào, tức là bao gồm cả độ tuổi thành niên). Do đó, khoản 1 Điều 595 cần bổ sung nh sau: “người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. 6.Bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp đặc biệt: a.Điều 598 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: -Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; - Khoản tiền cấp dỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng,nếu có. Như chúng ta đã biết, một người khi thực hiện cấp dưỡng cho những người mình có nghĩa vụ cấp dưỡng thì mức cấp dưỡng không thể vượt quá khả năng thu nhập của họ. Vì vậy, điểm b khoản 1 đã xác định, khoản thiệt hại cần phải bồi thường là phần thu nhập bị mất của người bị thiệt hại, trong khi, điểm d lại quy định người gây thiệt hại phải cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dỡng. Có hai vấn đề cần xem xét: 11
  12. Thứ nhất, cách xác định thiệt hại như trên đã vô tình buộc người gây thiệt hại phải bồi thường đến hai lần cho một thiệt hại xảy ra,đó là: thu nhập bị mất và khoản tiền mà người đó phải cấp dỡng cho người khác, trong khi, thu nhập mà người bị thiệt hại mất đi trên thực tế đã bao gồm cả nghĩa vụ cấp dỡng của người đó (nếu có). Quy định này rõ ràng là trái với nguyên tắc bồi thường toàn bộ tại Điều 595 của Dự thảo. Thứ hai, quy định tại điểm b khoản 1 cũng chưa hợp lý, nhất là trong trường hợp thiệt hại xảy ra đối với những người mà tại thời điểm bị gây thiệt hại, họ cha có thu nhập thực tế nhng hoàn toàn có khả năng tạo thu nhập trong tơng lai nh: học sinh, sinh viên, người chờ việc…, cách xác định thiệt hại trên sẽ không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của họ. Điểm d chỉ quy định nghĩa vụ cấp dỡng của người gây thiệt hại đối với những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng chứ việc cấp dỡng cho chính bản thân người bị thiệt hại thì luật lại không quy định. b.Điều 599 của Dự thảo quy định về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Theo đó người gây thiệt hại ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về vật chất còn phải bồi thường một khoản tiền tối đa không quá sáu mươi (60) tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân. Điều 600 của Dự thảo quy định về bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, theo đó người gây thiệt hại ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về vật chất, bị buộc phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai người bị thiệt hại, còn phải bồi thường một khoản tiền tối đa không quá mời (10) tháng lương tối thiểu do nhà nước quy định để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm. Nh vậy Dự thảo quy định theo hớng xác định mức trần khoản tiền bồi thường để bù đắp tổn thất về tinh thần. Chúng tôi cho rằng, nên quy định để cho các bên đơng sự tự thỏa thuận mức bồi thường, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định trên cơ sở mức tối thiểu (mức sàn) do Bộ luật Dân sự quy định. Chúng tôi không đồng tình với quy định mức trần vì trên thực tế đương sự có thể thỏa thuận với nhau và chấp nhận bồi thường khoản tiền lớn hơn mức pháp luật quy định rất nhiều. Vì vậy, pháp luật chỉ nên quy định mức sàn làm cơ sở cho Tòa án áp dụng đối với từng vụ việc cụ thể. 12
  13. c.Điều 602 và Điều 603 Dự thảo Điều 602 quy định: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. 1 Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. 2 Người gây thiệt hại do vợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Như vậy, Khoản 2, Điều 602 mới chỉ quy định trách nhiệm bồi thường chung mà cha xác định rõ mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp vợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là bồi thường toàn bộ hay được giảm một phần thích hợp. Chúng tôi cho rằng, việc quy định người vợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra từ hành vi đó không phải là cách quy định hợp lý, bởi quy định như vậy sẽ không khuyến khích được các chủ thể thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, nên quy định người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại do hành vi vượt quá của mình gây ra sau khi đã trừ đi phần thiệt hại mà trong trường hợp phòng vệ chính đáng gây ra. Tương tự như vậy, để khuyến khích người ở trong tình thế cấp thiết có những hành động, lối ứng xử phù hợp, kịp thời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và các cá nhân khác, khoản 2, Điều 603 cần xác định rõ mức bồi thường trong trường hợp vợt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là bồi thường phần vượt quá chứ không phải là bồi thường toàn bộ thiệt hại thực tế xảy ra. d.Điều 610 của Dự thảo quy định: Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian ở trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý: 1.Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra; 2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý, thì bệnh viện, các tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra; 13
  14. 3.Trong các trường hợp trên, nếu trường học, bệnh viện, các tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi, thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường. Chúng tôi cho rằng cách quy định tại Khoản 1 là chưa hợp lý. Đối với trường hợp này, cha mẹ và trường học cần phải chịu trách nhiệm liên đới vì trong thực tế, hầu hết các hành vi gây thiệt hại của các trẻ em trong thời gian học tập tại trường không đơn thuần là kết quả của quá trình giáo dục của riêng nhà trường, mà là sản phẩm của quá trình giáo dục của cả nhà trường và cha mẹ, trong đó, vai trò của cha mẹ rất quan trọng. Vì vậy, để tránh tình trạng phó thác việc giáo dục học sinh cho một bên, nên quy định nghĩa vụ liên đới của cha mẹ và nhà trường trừ các trường giáo dưỡng vì tính đặc thù về học viên trong loại hình trường này. Trên cơ sở đó, khoản 1, Điều 610 nên quy định theo hướng: Người dưới 15 tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì cha mẹ và trường học có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại xảy ra, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. e.Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623 BLDS): Xác định nguồn nguy hiểm cao độ: - Khi có phương tiện giao thông, công trình, vật, chất hoặc loại thú nào đó gây ra thiệt hại để có căn cứ áp dụng các khoản 2, 3 và 4 Điều 623 BLDS xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không. - Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Để xác định phương tiện giao thông cơ giới đường bộ thì phải căn cứ vào Luật giao thông đường bộ. Theo quy định tại điểm 13 Điều 3 Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật. Hiện tại chưa có một quy định nào xác định thế nào là thú dữ, danh mục xếp loại. Tuy nhiên căn cứ vào định nghĩa về thú dữ của các từ điển tiếng Việt thì : "Thú dữ" là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất dữ, có thể làm hại người..." Súc vật: vật nuôi trong nhà; mở rộng thêm là chỉ những giống vật đã được con người thuần chuẩn hóa, chứ như thiểu số thì không được ( vd nuôi hổ trong nhà chẳng hạn). 14
  15. II. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG: 1. Soạn thảo đơn kiện: Khi soạn thảo, kiểm tra đơn khởi kiện cho khách hàng cần lưu ý nghiên cứu kỹ nội dung vụ kiện, xem xét các dấu hiệu pháp lý nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Căn cứ theo yêu cầu của khách hàng và bản chất pháp lý của yêu cầu để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp thuộc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nào: - Bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xây dựng trái pháp luật gây ra; - Bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín; - Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; - Bồi thường thiệt hại do người của Pháp nhân gây ra; - Bồi thường thiệt hại do xúc vật gây ra… Luật sư cần có sự phân biệt quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền và yêu cầu bồi thường thiệt hại trong hợp đồng (đặc biệt là loại hợp đồng dịch vụ), để tiến hành tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng những cách thức tiến hành khởi kiện một cách thuận lợi. Luật sư tư vấn khách hàng các giấy tờ cần thiết cần phải nộp để chứng minh cho yêu cầu của mình trong loại vụ án này là: Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể kiện; các chứng cứ chứng minh thiệt hại; các văn bản, tài liệu giải quyết của các cơ quan chức năng (nếu có)… Xuất phát từ đặc trưng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải lúc nào người gây thiệt hại cũng là người phải trực tiếp bồi thường, khi tiến hành soạn thảo đơn khởi kiện, Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng là nguyên đơn khởi kiện đúng đối tượng trong những trường hợp người gây thiệt hại là vị thành niên và trong những trường hợp người có trách nhiệm bồi thường không phải là người trực tiếp gây thiệt hại (trường hợp thiệt hại do người của pháp nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước gây ra hoặc do tài sản của chủ sở hữu gây ra…). 15
  16. 2. Xác định khách hàng là nguyên đơn hay bị đơn: Khi Luật sư nhận yêu cầu của khách hàng thì phải xác định được tư cách chủ thể kiện của khách hàng, cần đặc biệt lưu ý xác định tư cách chủ thể khởi kiện, xác đinh người đại diện cho đương sự tham gia tố tụng, các trường hợp ủy quyền và ủy quyền lại; Nhiều trường hợp, khách hàng yêu cầu Luật sư tham gia vào vụ án bồi thường thiệt hại được chuyển đến Tòa án từ cơ quan điều tra hình sự. Trong những trường hợp này, Luật sư cần phải tư vấn cho khách hàng làm đơn khởi kiện theo đúng quy định của BLTTDS. 3. Xác định thẩm quyền của Toà án thụ lý: Về thẩm quyền giải quyết, trong vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật sư tư vấn cho khách hàng có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 36 BLTTDS: Tòa án nơi nguyên đơn cư trú; Tòa án nơi nguyên đơn làm việc; Tòa án nơi nguyên đơn có trụ sở; Tòa án nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết. Sau khi soạn thảo đơn khởi kiện và nộp vào toà án, Luật sư phải giải thích cho khách hàng biết là chỉ có một Tòa án trong các Tòa án được điều luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ án để họ lựa chọn. 4. Thời hiệu khởi kiện: Khi Luật sư nhận yêu cầu của khách hàng về khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trước tiên Luật sư phải xác định ngày tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm theo quy định tại Điều 159 BLTTDS trong các trường hợp cụ thể. Trong trường hợp ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm trước ngày 01/01/2006 thì thời hiệu khởi kiện được xác định căn cứ theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 159 BLTTDS và hướng dẫn tại mục 2.1. mục IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004. Trường hợp ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm kể từ ngày 1/1/2006 áp dụng quy định tại Điều 607 BLDS năm 2005 thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định là 02 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Ngoài ra, Luật sư cần tư vấn cho khách hàng khi có yêu cầu khởi kiện thì nên xem xét vụ án được giải quyết bằng bản án hay chưa, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác hay chưa. Tuy nhiên, một số vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mặc dù đã được Tòa án giải quyết và đang 16
  17. thi hành thì Luật sư tư vấn cho khách hàng vẫn được quyền khởi kiện lại cho rằng mức bồi thường đang thi hành không còn phù hợp nữa. Vụ án yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thì Luật sư hướng dẫn cho khách hàng không phải nộp tạm ứng án phí (Điều 13 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 về án phí và lệ phí Tòa án. 5. Trong việc khởi kiện vụ án dân sự: - Khi nhận được yêu cầu bảo vệ quyền lợi của đương sự thì luật sư cần yêu cầu đương sự cho biết rõ nguyên nhân, nội dung việc tranh chấp và nguyện vọng của họ. Do những nguyên nhân khác nhau, các đương sự có thể giấu diếm. Vì vậy, để xác định được đúng phương hướng tham gia tố tụng, làm tròn được nhiệm vụ của mình luật sư phải động viên, thuyết phục đương sự nói hết sự thật với mình và luật sư có trách nhiệm giữ bí mật cho họ. - Trên cơ sở yêu cầu của đương sự, các chứng cứ, tài liệu ban đầu đương sự cung cấp, các qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luật sư xác minh tìm hiểu thêm để bước đầu xác định yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người bị thiệt hại có đúng không, trách nhiệm bồi thường thuộc về ai.Trường hợp bảo vệ quyền lợi cho người gây thiệt hại mà thấy yêu cầu của người bị thiệt hại là đúng thì luật sư cần phân tích cho người gây thiệt hại biết trách nhiệm bồi thường của họ để họ bồi thường cho người bị thiệt hại, tránh việc kiện tụng tại Toà án. Nếu yêu cầu của người bị hại chỉ đúng một phần thì luật sư cũng chỉ rõ cho người gây thiệt hại biết và có thể giúp đỡ họ thương lượng, thoả thuận với người bị thiệt hại giải quyết tranh chấp.Trong trường hợp bảo vệ quyền lợi cho người bị thiệt hại mà thấy yêu cầu của người bị thiệt hại là không có cơ sở thì luật sư giải thích để họ rút yêu cầu, tránh việc kiện tụng ở Toà án gây tốn kém cho họ. Nếu yêu cầu của người bị thiệt hại chỉ đúng một phần thì luật sư giải thích để người bị hại rút phần yêu cầu không đúng và có thể giúp đỡ họ thoả thuận với người gây thiệt hại về việc bồi thường.Đối với những tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng qua việc giúp đỡ của luật sư mà các bên vẫn không thoả thuận giải quyết được việc bồi thường thì luật sư cần hướng dẫn cho đương sự yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết. Theo quy định tại Điều 13, Điều 14 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì Toà án có thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp này là Toà án nơi cư trú của bị đơn. Nếu tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng sức khoẻ thì Toà án có 17
  18. thẩm quyền bao gồm cả Toà án nơi cư trú của bị đơn, nơi xảy ra thiệt hại và Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết. Theo Điều 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì đơn khởi kiện phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người khởi kiện (nguyên đơn), bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nội dung sự việc, yêu cầu và những chứng cứ lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu đó. Do vậy, luật sư cần giúp đỡ các đương sự đưa ra yêu cầu khởi kiện đúng, xác định đúng thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp, viết đơn khởi kiện và cung cấp các chứng cứ, lý lẽ cho Toà án để bảo vệ quyền lợi của mình. 6. Nghiên cứu hồ sơ vụ án: Luật sư nghiên cứu tất cả các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án từ đơn kiện, lời khai của nguyên đơn, lời khai của bị đơn, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến các chứng cứ, tài liệu do đương sự cung cấp và Toà án thu thập được. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án luật sư cần chú ý nghiên cứu kỹ chứng cứ, tài liệu ban đầu do cơ quan điều tra lập và những chứng cứ, tài liệu chứng minh có hay không các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (đã nêu trên). Ngoài ra, tuỳ trường hợp cụ thể luật sư nghiên cứu hồ sơ làm rõ những vấn đề khác, như năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, căn cứ để đình chỉ việc giải quyết vụ án... Ví dụ: Đối với tranh chấp bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông luật sư phải nghiên cứu kỹ sơ đồ hiện trường, biên bản về tai nạn giao thông do cảnh sát giao thông lập, kết luận của cơ quan điều tra, giấy chứng thương, kết luận giám định, hoá đơn mua thuốc thanh toán viện phí, các tài liệu phản ánh mức thu nhập của người bị hại trước khi bị thiệt hại...Đối với tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do xây dựng luật sư phải nghiên cứu kỹ sơ đồ hiện trường, kết luận giám định, các tài liệu phản ánh chi phí đã bỏ ra để khắc phục thiệt hại...Để đánh giá được giá trị của các chứng cứ, tài liệu luật sư cần phải nghiên cứu cả nội dung và hình thức của chúng, mối liên hệ của chúng đối với sự kiện gây thiệt hại...Ví dụ: hoá đơn thanh toán viện phí có phải do bệnh viện lập không, có được lập ra sau sự kiện gây thiệt hại không.. Sau khi đã nghiên cứu kỹ từng chứng từ, tài liệu luật sư cần hệ thống lại những nội dung cơ bản của vụ án, xác định những chứng cứ, tài liệu nào có thể sử dụng để giải quyết vụ án, những vấn đề nào của vụ án đã được làm rõ, những vấn đề nào cần xác minh thêm. Trên cơ sở đó luật sư phác thảo kế hoạch xác minh thêm các vấn đề của vụ 18
  19. án. 7. Nghiên cứu pháp luật áp dụng giải quyết vụ án : - Trên cơ sở những nội dung các chứng cứ, tài liệu của vụ án luật sư nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật áp dụng giải quyết vụ án. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại các điều từ Điều 609 đến Điều 638 Bộ luật dân sự và một số quy định của các văn bản pháp luật khác. Tuy vậy không phải tranh chấp nào cũng áp dụng tất cả các điều luật đó do vậy, luật sư phải lựa chọn đúng điều luật áp dụng vụ án cụ thể mà nghiên cứu. Ví dụ: Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra nghiên cứu các điều từ Điều 609 đến Điều 614, Điều 616 và Điều 629 Bộ luật dân sự. - Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, pháp luật áp dụng giải quyết vụ án luật sư xác định xem người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không, mức bồi thường thiệt hại cụ thể là như thế nào. Trên cơ sở đó luật sư trao đổi với đương sự mình bảo vệ tiếp tực giữ nguyên yêu cầu hay phải thay đổi yêu cầu. Trường hợp phải tham gia tố tụng tại phiên toà thì luật sư chuẩn bị bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự đọc trước Toà án. 8. Viết bản luận cứ bảo vệ cho đương sự: Trên cơ sở kết quả của việc nghiên cứu hồ sơ, xác minh các tình tiết của vụ án và nghiên cứu pháp luật giải quyết vụ án luật sư chuẩn bị bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự đọc tại Toà án. Cơ cấu của bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự cần trình bày theo các phần: Nội dung vụ án, nhận định của luật sư và đề nghị của luật sư yêu cầu Toà án giải quyết. ở phần nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả xác minh tìm hiểu vụ án của mình luật sư trình bày khái quát những vấn đề cơ bản nhất của vụ án. Trong phần nhận định của mình luật sư phải phân tích rõ, nêu bật lên được những chứng cứ tài liệu nào có tính xác thực có thể dựa vào đó để giải quyết vụ án; có hay không có hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại, thiệt hại thực tế xảy ra cụ thể được tính toán như thế nào, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại, mức độ lỗi của người gây thiệt hại, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại... Để việc nhận định có sức thuyết phục, khi viết bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự luật sư cần nêu trích dẫn những tài liệu có trong hồ sơ vụ án (đặc biệt là những tài liệu do đương sự bên kia cung cấp) và viện dẫn những quy định của pháp luật về 19
  20. trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng giải quyết vụ án. ở phần đề nghị yêu cầu Toà án giải quyết tuỳ vào việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho bên nào mà luật sư nêu ra yêu cầu Toà án giải quyết. Các yêu cầu của luật sư phải cụ thể và có căn cứ xác thực. Luật sư không nên vì quá thiên về bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà nêu ra những yêu cầu vô lý. 9. Tham gia tranh tụng tại phiên toà: Tại phiên tòa luật sư cần theo dõi việc thẩm vấn và ghi chép lại những điểm cần thiết từ đó phát hiện những vấn đề chưa được làm rõ đề nghị hội đồng xét xử cho hỏi để làm rõ. Tuỳ trường hợp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn hay bị đơn mà luật sư đưa ra câu hỏi cho phù hợp. Nhưng nói chung luật sư chỉ nên đặt những câu hỏi mà đoán chắc việc trả lời sẽ có lợi cho đương sự mình bảo vệ. Việc đặt câu hỏi của luật sư tập trung vào làm rõ những vấn đề sau: Ai là người thực hiện hành vi gây thiêt hại, hành vi gây thiệt hại có trái pháp luật không, thiêt hại đã xẩy ra như thế nào, người có hành vi gây thiệt hại có lỗi không, mức độ lỗi của họ, thiệt hại thực tế xẩy ra, ai sẽ phải bồi thường thiệt hại, ai là người được bồi thường thiệt hại... Theo Điều 51 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, sau khi kết thúc việc xét hỏi đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền tranh luận để làm rõ các vấn đề của vụ án. Vì vậy, luật sư phải tích cực tham gia tranh luận. Khi tranh luận luật sư cần tránh việc đứng lên đọc nguyên văn bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự đã được chuẩn bị sẵn. Luật sư cần căn cứ vào diễn biến của vụ án ở tại phiên toà mà sửa chữa bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự cho phù hợp, có sức thuyết phục. Khi tranh luận luật sư dựa vào bản bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà trình bày nhận định của mình về các chứng cứ, tài liệu của vụ án, nêu ra yêu cầu giải quyết vụ án. ý kiến của luật sư tham gia tranh luận trong các tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần tập trung làm rõ các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại.Nếu bảo vệ quyền lợi cho người bị hại luật sư phải phân tích, chứng minh được hành vi của người gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, thiệt hại xảy ra là do lỗi của người gây thiệt hại, người gây thiệt hại là người có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường...Nếu bảo vệ quyền lợi cho người gây thiệt hại luật sư cần phải phân tích, chứng minh hành vi gây thiệt hại không trái pháp luật, người bị hại cũng có lỗi, thiệt hại chưa đến mức như người bị thiệt hại nêu ra. 20
nguon tai.lieu . vn