Xem mẫu

  1. Tiểu luận - Tình huống LỜI MỞ ĐẦU Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đ ược ghi nhận trong Hiến pháp, nó là phương tiện để công dân s ử dụng b ảo v ệ l ợi ích của mình, của Nhà nước. Luật khiếu nại, tố cáo ban hành ngày 2 tháng 12 năm 1998 đã cụ thể hoá quyền cơ bản đó, đồng thời thể hiện rõ quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của thực ti ễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay. Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quy ết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công ch ức. Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có th ẩm quy ền bi ết v ề hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ ch ức, cá nhân nào gây thi ệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Sau hơn 5 năm thực hiện, Luật khiếu nại, tố cáo đến nay đã đi vào đ ời sống kinh tế, xã hội, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều tiến bộ, những vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương được giải quyết theo trình tự, thủ tục, thời gian luật định góp ph ần thiết lập kỷ cương. Đồng thời bên cạnh đó đã xuất hiện những quy định không còn phù hợp với thực tiễn cần phải bổ sung, sửa đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tế, những vấn đề quy định chưa rõ ràng cần phải có s ự điều chỉnh để công tác giải quyết tổng hợp, tổng kết tình hình khi ếu n ại của công dân được đầy đủ chính xác và kịp thời. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng những vụ việc khiếu kiện kéo dài, những vụ việc dồn từ c ơ quan cấp dưới lên cơ quan cấp trên không hề giảm, gây ra tình trạng quá tải trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính Nhà n ước nh ất là đối với các cơ quan Trung ương.
  2. Các vụ án sau khi đã có Quyết định giải quyết lần đầu thì số vụ ti ếp tục khiếu nại lên cơ quan cấp trên rất cao, nó có nguyên nhân của nó: Th ứ nhất, quyết định của cấp dưới đã bị khiếu nại nhưng vẫn được giao thụ lý giải quyết, do đó vẫn mang tính chủ quan của người ra quy ết đ ịnh, th ường là nội dung vẫn như cũ làm phát sinh khiếu kiện. Thứ hai, về mặt tâm lý của người khiếu kiện, khi vụ việc được giao cho người đã có quy ết định hành chính hoặc hành vi hành chính, thì khi có quy ết đ ịnh gi ải quy ết khi ếu n ại l ần đầu mà kết quả không được như ý muốn thì người khiếu nại vẫn nghi ngờ, tiếp tục khiếu nại lên cơ quan cấp trên. Th ứ ba, ngưòi khi ếu n ại vì nôn nóng muốn giải quyết nhanh vụ việc mà cùng lúc lại gửi đơn thư đến nhiều cấp, nhiều ngành. Chính vì vậy việc nâng cao vai trò giải quy ết của toà án hành chính trong các vụ khiếu nại, tố cáo là rất quan trọng. Có nh ư vậy m ới tránh được việc đơn thư gửi nhiều lần, trùng lặp về nội dung, các phán quy ết c ủa toà án cũng đảm bảo tính pháp lý, tránh được tình trạng đơn th ư gi ải quy ết kéo dài. vượt cấp. Vụ án hành chính "Khiếu kiện quyết định buộc thôi việc " sau đây đã phần nào nói lên thực trạng việc khiếu nại, tố cáo ở các địa phương cũng như ở Trung ương nước ta hiện nay. 2
  3. Tiểu luận - Tình huống PHẦN I: TÌNH HUỐNG Vụ việc xảy ra với người khởi kiện là ông Trần Văn Hùng, sinh năm 1954, địa chỉ số 20/4 phố Lý Thái Tổ, phường Bạch Đằng, thành ph ố Ngô Quyền, tỉnh BKT và người bị kiện là ông Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT. Với nội dung chủ yếu của vụ án như sau: Ông Trần Văn Hùng là Đội trưởng Đội thuế phường Lê Lợi, thành ph ố Ngô Quyền. Từ năm 1996 đến tháng 2 năm 1999, gia đình ông Hùng có mua chịu một số lượng hàng hoá vật tư xây dựng (để xây dựng, sửa chữa nhà ở) của một số hộ kinh doanh trong địa bàn ông Hùng trực tiếp phụ trách và m ột số hộ trong địa bàn xã, phường khác trong thành phố, tổng số tiền là 120.000.000 đồng, mới trả nợ được 70.000.000 đồng. Do gia đình ông Hùng không trả nợ đúng hạn nên các hộ cho vay tiền gửi đơn khiếu nại đến Đội Cảnh sát kinh tế Công an thành phố Ngô Quyền và Chi cục Thuế thành ph ố Ngô Quyền đề buộc ông Hùng trả hết nợ. Đến ngày 14/4/1999, ông Hùng chỉ còn nợ lại 18.000.000 đồng và ông đã viết tường trình trước Tổ kiểm tra xử lý của Công an, Chi c ục Thu ế thành phố Ngô Quyền, hứa số tiền còn lại sẽ có trách nhiệm trả nốt trong th ời gian sớm nhất. Ngày 23/4/1999, Chi cục Thuế Ngô Quyền ra Quyết định số 7B/TCCB đình chỉ công tác đối với ông Hùng và ngày 15/6/1999, Chi cục Thuế gửi Báo cáo số 31/BC-TCCB gửi Cục Thuế tỉnh BKT báo cáo về việc ông Hùng còn thiếu nợ số tiền trên. Đội Thuế phường Lê Lợi họp xét kiểm điểm kỷ luật ông Hùng vào ngày 6/7/1999, đề nghị Cục thuế áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo. Ngày 10/7/1999 Hội đồng kỷ luật Chi cục Thuế Ngô Quyền họp xét kỷ luật và
  4. ngày 03/8/1999 có Công văn số 24/ĐN-CCT đề nghị Cục thuế tỉnh BKT k ỷ luật buộc thôi việc đối với ông Hùng. Ngày 10/8/1999, Hội đồng k ỷ lu ật C ục thuế tỉnh BKT họp xét kỷ luật ông Hùng và ngày 14/8/1999, C ục tr ưởng C ục Thuế tỉnh BKT ban hành Quyết định số 03/QĐ-TCCB kỷ luật buộc thôi việc đối với ông Hùng và buộc ông Hùng có trách nhiệm trả số nợ còn lại là 20.000.000 đồng cho các hộ ông Hùng đã mua hàng còn nợ. 4
  5. Tiểu luận - Tình huống PHẦN II: PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG I. Mục đích của việc phân tích, xử lý tình huống: Qua việc phân tích và xử lý tình huống cụ th ể ph ần nào ta s ẽ làm rõ được những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác kiểm sát giải quy ết án hành chính liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo về vi ệc kỷ lu ật cán b ộ, công chức, từ đó nêu ra được những vấn đề cần đề xuất, kiến nghị bổ sung, sửa đổi pháp luật về nội dung liên quan đến khiếu nại, tố cáo. Mặt khác nh ằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước cũng như việc giải quyết các thủ tục về vấn đề này, chỉ rõ được những vấn đề vướng mắc trong tố tụng hành chính để góp ý xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nhằm phát huy những mặt đạt được; kh ắc phục tồn tại, hạn chế của công tác kiểm sát giải quyết án hành chính để khâu công tác này đạt chất lượng, hiệu quả hơn. II. Phân tích xử lý, tình huống: Do ông Hùng có đơn khiếu nại đề ngày 19/8/1999 đối cới Quyết định nói trên, Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT có Công văn số 26/CT-TCCB đề ngày 11/10/1999 trả lời, khẳng định Quyết định số 03/QĐ-TCCB nêu trên là đúng. Ngày 21/10/1999, ông Hùng khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân tỉnh BKT, đề nghị Toà án huỷ Quyết định số 03/QĐ-TCCB nêu trên. Toà án nhân dân tỉnh BKT thụ lý vụ án vào ngày 4/11/1999. Ngày 29/12/1999, Cục thuế tỉnh BKT ban hành Quyết định số 11/QĐ- TCCB thu hồi Quyết định số 03/QĐ-TCCB nêu trên để “Ch ờ H ội đ ồng kỷ luật bổ sung, làm rõ một số vấn đề liên quan sẽ xử lý tiếp ”.
  6. Tại phiên toà sơ thẩm ngày 3/01/2000 của Toà án nhân dân tình BKT, không có Quyết định nêu trên nên ông Hùng rút đơn khởi ki ện. Cùng ngày Toà án nhân dân đã ban hành Quyết định số 01/HCST đình ch ỉ vi ệc gi ải quy ết v ụ án, với lý do ông Hùng rút đơn khởi kiện. Ngày 10/01/2000, ông Hùng kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ vụ án. ngày 12/01/2000, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BKT cũng có kháng nghị số 31/KN-HC đối với Quyết định đình chỉ giải quy ết v ụ án s ố 01/HCST nêu trên. Ngày 25/01/2000, Hội đồng kỷ luật Cục thuế tỉnh BKT lại xét kỷ luật đối với ông Hùng và ngày 29/02/2000, Cục thuế tỉnh BKT l ại ban hành Quy ết định số 01/QĐ-TCCB kỷ luật buộc thôi việc đối ông Hùng. Ngày 20/3/2000, khi ông Hùng nhận được Quyết định buộc thôi việc số 01 trên ông đã khiếu nại đối với Quyết định này. Ông Hùng tiếp tục khởi kiện đối với Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999 và Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/2/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT bằng đơn đề ngày 31/5/2000. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/HCPT ngày 4/01/2001 của Toà phúc thẩm Toà án nhân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xử huỷ Quy ết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 01/HCST ngày 3/01/2000 của Toà án nhân tỉnh BKT, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh BKT xét xử sơ th ẩm lại theo quy định của pháp luật. Bản án hành chính sơ thẩm số 03/HCST ngày 29/6/2001 của Toà án nhân tỉnh BKT đã xử: Bác yêu cầu đơn khởi kiện của ông Hùng, giữ nguyên Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/2/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT. Ngày 9/7/2001, ông Hùng kháng cáo. Bản án phúc thẩm số 29/HCPT ngày 29/9/2001 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xử huỷ bản án s ơ th ẩm s ố 6
  7. Tiểu luận - Tình huống 03/HCST nêu trên, giao hồ sơ về Toà án nhân dân tỉnh BKT xét xử sơ thẩm lại với thành phần Hội đồng xét xử khác. Bản án hành chính sơ thẩm số 05/HCST ngày 27/12/2001 của Toà án nhân dân tỉnh BKT đã xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hùng, giữ nguyên Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/2/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT. Ngày 2/01/2002, ông Hùng kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Ngày 21/01/2002, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BKT cũng có kháng nghị số 62/KN-HC đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án sơ thẩm nêu trên. Bản án phúc thẩm số 20/HCPT ngày 13/8/2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xử: Sửa án sơ th ẩm, huỷ Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/02/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT với nhận định Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/02/2000 c ủa C ục trưởng Cục thuế tỉnh BKT ban hành khi đã quá thời hiệu xử lý kỷ luật theo Quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/01/1998 của Chính phủ. Ngày 7/02/2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có Kháng ngh ị s ố 2/HC-TK đối với bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ t ục giám đốc th ẩm theo hướng: Đề nghị HĐTP Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án phúc th ẩm đ ể giao hồ sơ về cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành ph ố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định: Việc Toà phúc thẩm xử huỷ Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/02/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT là không đúng pháp lu ật vì Quyết định này là Quyết định thay thế Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999, là Quyết định ban hành đúng quy định tại khoản 3 Điêù 5 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/01/1998 của Chính phủ. Mặt khác, Toà cấp phúc thẩm mới chỉ xem xét về thời hiệu ban hành Quyết định mà ch ưa xem xét tính chất, mức độ vi phạm của ông Hùng.
  8. Ngày 31/3/2003, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Kết luận số 08/KL- HC, nhận định bản án phúc thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng pháp luật, đ ề nghị HĐTP Toà án nhân dân tối cao xét xử không chấp nhận kháng ngh ị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Ngày 4/4/2003, Chánh án Toà án nhân tối cao ban hành Quy ết định s ố 01/HC-TK rút Kháng nghị số 02/HC-TK nêu trên. Trong quá trình sơ thẩm lần I của vụ hành chính này, các b ước đã tiến hành như sau: - Về tư cách pháp lý của các thành phần tham gia tố tụng: Theo quy định tại Điều 12, Điều 43 Pháp lệnh cán bộ, công chức ban hành ngày 17/3/1998, có hiệu lực từ ngày 01/5/1998 thì ông Hùng là cán b ộ, công chức nhà nước khi bị kỷ luật có quyền khiếu nại về Quy ết đ ịnh k ỷ lu ật đối với mình đến cơ quan, tổ chức có thẩm quy ền theo quy đ ịnh c ủa pháp luật. Căn cứ vào đại diện của pháp nhân theo khoản 1, kho ản 2, kho ản 3 Điều 102 Bộ Luật Dân sự và Điều 6, khoản 3 Điều 19 Pháp L ệnh Th ủ t ục giải quyết các vụ án hành chính thì ông Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT có quyền quyết định bằng văn bản kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật (trong tr ờng hợp này là ông Trần Văn Hùng). - Về thẩm quyền giải quyết loại việc: Nội dung loại việc cần giải quyết là căn cứ vào đơn khiếu kiện của ông Trần Văn Hùng đề nghị huỷ Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT về việc buộc thôi việc đối với ông Hùng Căn cứ vào khoản 2 Điều 2. khoản 4 Điều 11 Pháp L ệnh Th ủ tục gi ải quyết các vụ án hành chính ban hành ngày 25/12/1998 có hiệu l ực t ừ 8/01/1999 thì thẩm quyền giải quyết vụ việc trên thuộc Toà án nhân dân địa phương. 8
  9. Tiểu luận - Tình huống Vận dụng điểm 3 Công văn số 39/KHXX ban hành ngày 6/71996 của Toà án nhân dân tối cao và căn cứ tiết b khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh Th ủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì vụ việc này thuộc th ẩm quy ền giải quy ết của Toà án nhân dân cấp tỉnh. - Về việc án phí, lệ phí: Theo Điều 9 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 56/QĐ-V12 ngày 22/12/1999 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Căn cứ khoản 4 Điều 11; Điều 29; khoản 1 Điều 32 Pháp lệnh thủ tục giải quy ết các vụ án hành chính; tiết c khoản 1 Điều 31 Chơng VI Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 thì khi Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính, kháng nghị bản án, quy ết đ ịnh hành chính sơ thẩm không phải nộp tiền tạm ứng án phí và án phí. - Về thời hạn, thời hiệu khởi kiện: Khoản 1 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có quy định: Người khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quy ền giải quyết v ụ án hành chính trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết hạn giải quyết khiếu nại l ần đầu theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được gi ải quy ết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với giải quyết nại đó. Cán bộ, công ch ức khởi ki ện đối v ới quyết định kỷ luật buộc thôi việc phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quy ết định giải quyết khiếu nại đó. Trong trường hợp này khi Cục thuế tỉnh BKT ban hành Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999 thì sau đó 05 ngày, tức là ngày 19/8/1999 ông Hùng có đơn khiếu nại và khi Cục thuế tỉnh BKT ban hành Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/02/2000 thì đến ngày 20/3/2000 có đơn khiếu nại. Như vậy việc khởi kiện của ông xét về m ặt th ời h ạn là đúng quy định của pháp luật.
  10. Vì ông Hùng là cán bộ, công chức Nhà nước nên căn cứ quy định t ại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP của Chính ph ủ thì th ời hi ệu x ử lý vi phạm hành chính được quy định từ 3 tháng đến không quá 6 tháng. Do đó Quyết định 01/QĐ-TCCB ngày 29/02/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT ban hành là đã quá thời hiệu xử lý kỷ luật. - Về thủ tục khởi kiện: Căn cứ tiết a khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh Th ủ tục gi ải quy ết các v ụ án hành chính thì thủ tục khởi kiện đúng quy định của pháp luật (Có đơn, đã gi ải quyết lần đầu bằng văn bản). Căn cứ vào khoản 3 Điều 13 Pháp lệnh Th ủ t ục gi ải quy ết các v ụ án hành chính về hình thức đơn khởi kiện xét th ấy đơn khởi ki ện c ủa ông Hùng có đầy đủ nội dung, có chữ ký đại diện và có tài liệu kèm theo. - Về căn cứ pháp lý: Theo Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ, có hiệu lực từ 2/12/1998; Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 9/3/1998, có hiệu lực từ 1/5/1998; Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ, có hiệu lực từ 26/6/1997 thì các Quyết định xử lý kỷ luật của C ục Thu ế t ỉnh BKT đều có hiệu lực. Các căn cứ pháp lý của hoạt động tố tụng của cơ quan ti ến hành t ố tụng được chuẩn bị và nghiên cứu gồm: các quy định về th ảm quy ền c ủa Thẩm phán Toà án Nhân dân theo Luật tổ chức Toà án nhân dân ban hành ngày 10/10/1992, Pháp lệnh thẩm phán Toà án nhân dân; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành ngày 10/10/1992, Pháp lệnh Kiểm sát viên, Luật sư (năm 2001 mới có Pháp lệnh về Luật sư ban hành ngày 25/7/2001, có hiệu lực từ ngày 1/10/2001); Các quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999, ban hành ngày 25/12/1998, có hiệu lực từ ngày 8/1/1999). Như v ậy tại thời điểm xảy ra các tình huống vụ án thì các căn cứ pháp lý trên đều có hiệu lực. Các tài liệu văn bản cần thiết để giải quyết vụ án phải thu thập: 10
  11. Tiểu luận - Tình huống Tờ trình của ông Hùng ngày 14/4/1999, Quyết định số 7B/TCCB ngày 14/4/1999 và Báo cáo số 31/BC ngày 15/6/1999 của Chi cục Thuế Ngô Quyền; Biên bản họp xét kỷ luật ông Hùng của Đội thuế ph ường Lê Lợi ngày 6/7/1999, của Chi cục thuế Ngô Quyền ngày 10/7/1999, Báo cáo s ố 24/ĐN- CCT của Chi cục thuế ngày 3/8/1999, Biên bản họp ngày 10/8/1999, Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT, Đơn khiếu nại đề ngày 19/8/1999 của ông Hùng, Công văn số 26/CT- TCCB ngày 11/10/1999 của Cục thuế tỉnh BKT, Đơn khởi kiện ngày 21/10/1999 của ông Hùng, Quyết định số 01/QĐ- TCCB ngày 29/12/1999 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT, Đơn xin rút đơn khởi kiện của ông Hùng và Quyết định số 01/HCST ngày 03/1/2001 của Toà án Nhân dân tỉnh BKT. - Về việc thực hiện quyền của các đương sự: Căn cứ Điều 20 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1999 thì các đương sự có quyền được rút toàn bộ hoặc một phần yêu cầu, thay đổi hoặc sửa chữa Quyết định, cung cấp chứng cứ… Các bước phải tiến hành trong quá trình phúc thẩm lần 1: - Về tư cách pháp lý của các thành phần tham gia tố t ụng: Ng ười kháng cáo là ông Hùng tự bảo vệ quyền lợi cho mình. Ng ười b ị ki ện là C ục tr ưởng Cục thuế tỉnh BKT. - Về thẩm quyền giải quyết các loại việc: Căn cứ đơn kháng cáo và kháng nghị đề nghị Toà án xem xét lại Quy ết định sơ thẩm: Đình chỉ giải quyết vụ án do ngời khởi kiện tự rút đơn khởi kiện theo tiết b khoản 1, khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh th ủ tục giải quy ết các vụ án hành chính. Vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án Nhân dân các tỉnh và việc nộp dự phí kháng cáo được căn cứ vào khoản 2 và khoản 4 Điều 29 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Điều 27 và Đi ều 28 chương VI án phí hành chính của Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ.
  12. - Về thời hạn kháng cáo: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 56 Pháp lệnh thủ t ục giải quy ết các v ụ án hành chính thì 10 ngày kể từ khi xét xử sơ thẩm hoặc khi nh ận được bản án (nếu vắng mặt). Vụ án này sơ thẩm ra Quyết định từ ngày 03/1/2000; Kháng cáo ngày 10/1/2000 và kháng nghị ngày 12/1/2000, trong hạn luật định. - Về thủ tục kháng cáo: Căn cứ vào Điều 55, khoản 4 Điều 56, Điều 57, Điều 58 và Đi ều 59 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì các th ủ tục kháng cáo đều đúng quy định Các bước tiến hành trong quá trình sơ thẩm lần II: - Về tư cách pháp lý của các thành phần tham gia t ố t ụng, th ẩm quy ền giải quyết loại việc (như đối với lần I) + Nội dung loại việc: Căn cứ vào đơn khởi kiện của ông Hùng: Đề nghị Toà án huỷ Quyết định số 03/QĐ-TCCB ngày 14/8/1999 vàa Quyết định số 01/QĐ-TCCB ngày 29/3/2000 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT về việc buộc thôi việc đối với ông Hùng. + Loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án hay không và thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án cấp nào (như đối với lần I). - Về việc nộp dự phí án phí, thời hạn, thời hiệu khởi ki ện, th ời hi ệu xử lý vi phạm hành chính (như đối với lần I). + Thủ tục khởi kiện: Có đơn khiếu nại nhưng ch ưa có giải quyết lần đầu bằng văn bản trả lời, căn cứ Điều 39, 55 Luật khiếu nại tố cáo ban hành ngày 01/01/1999 thì ông Hùng có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra toà án nhân dân để giải quyết. + Căn cứ pháp lý: Hiệu lực của văn bản pháp luật, Việc th ực hi ện của các đương sự (như đ ối với lần I), Các loại tài liệu, văn bản cần thiết thu thập để giải quyết vụ án. Các bước tiến hành trong quá trình sơ thẩm lần II: 12
  13. Tiểu luận - Tình huống - Về tư cách pháp lý c ủa các thành phần tham gia tố tụng, th ẩm quyền giải quyết các loại việc (như sơ thẩm lần II) + Nội dung kháng cáo và kháng nghị yêu cầu giải quyết vấn đ ề: Căn cứ đơn kháng cáo và kgáng nghị đề nghị Toá án xem xét lại bản án s ơ th ẩm đã xử bác yêu cầu đơn khởi kiện của ông Hùng, gi ữ nguyên Quy ết đ ịnh s ố 01/QĐ-TCCB của Cục trưởng Cục thuế tỉnh BKT. - Về việc nộp dự phí kháng cáo, thời hạn kháng cáo, kháng nghị (như quá trình sơ thẩm). + Thời hạn, kháng cáo, kháng nghị: Bản án sơ thẩm s ố 05/HCST ngày 27/12/2001, ông Hùng kháng cáo ngày 02/01/2001 là trong h ạn Lu ật định, Viện kiểm sát có Kháng nghị số 62/KN ngày 21/01/2001 là quá hạn Luật định. - Thủ tục kháng cáo, kháng nghị; Căn cứ pháp lý (như quá trình s ơ thẩm). PHẦN III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ Từ thực trạng phân tích tình huống cụ thể trong công tác giải quy ết án hành chính lĩnh vực khiếu nại, tố cáo về việc kỷ luật cán b ộ, công ch ức cùng
  14. các vướng mắc, khó khăn khi kiểm sát giải quyết loại án này, đồng thời để có những quy định phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta trong hiện tại tương lai gần, cần có những giải pháp để công tác kiểm sát đạt và trong hiệu quả cao. Sau đây là một số giải pháp và kiến nghị cụ thể: - Đối với Luật khiếu nại, tố cáo: + Luật khiếu nại, tố cáo cần có điều luật quy định bổ sung về việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có quyền từ chối giải quy ết khiếu nại đối với những việc đã được giải quyết và sau thời gian nhất định không bị các bên khiếu nại theo Quy định của Luật, nhng nay lại khi ếu kiện về những quyền lợi phát sinh từ việc đã giải quyết đó. Có nh ư v ậy mới tránh được trường hợp một số việc phải giải quyết nhiều lần do có sự thay đổi của chính sách pháp luật. + Cần có quy định bổ sung về việc không giải quyết vụ việc mà đã được giải quyết xong, không có khiếu nại gì trong khoảng th ời gian nhất định, tránh việc đương sự khiếu nại cả những việc đã được giải trước đây mà đến nay đương sự mới đòi hỏi những quyền lợi khác phát sinh từ việc đã giải quyết đó. - Đối với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính: Khiếu nại, tố cáo gắn liền với cuộc sống của mỗi gia đình, m ỗi cá nhân. Do đó khi có những sự điều chỉnh về vấn đề khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tác động trực tiếp vào đời sống c ủa đối tượng bị điều chỉnh, có khi ảnh hưởng đến tài sản, danh dự, tính mạng của những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Giải quyết dứt điểm một vụ việc khiếu nại, tố cáo là giải quyết không những quy ền lợi cho nhà n ước mà còn thể hiện những nguyên tắc cơ bản của nhà nước xã hội ch ủ nghĩa v ề quyền con người. Về quy định tại Điều 19 và 30 Pháp lệnh Th ủ tục giải quy ết các v ụ án hành chính bắt buộc người khởi kiện phải qua giai đoạn giải quy ết khiếu nại lần đầu của cá nhân, cơ quan có hành vi hành chính, quy ết đ ịnh hành chính 14
  15. Tiểu luận - Tình huống (trong htời hạn 30 ngày), sau đó nếu không đồng ý với kết qu ả gi ải quy ết khiếu nại đó hoặc không có kết quả giải quy ết khi ếu nại m ới được kh ởi kiện nói chung là phù hợp. Tuy nhiên trong một s ố trường h ợp, vi ệc quy đ ịnh như vậy gây thiệt hại lớn đến quyền lợi, danh dự của tập th ể, c ủa công dân nếu hành vi hành chính, quyết định hành chính đã thực hiện hoặc ban hành là trái pháp luật. Vì vậy cần phải có quy định bổ sung nh ững tr ường h ợp không cần thiết chờ đợi thời gian 30 ngày để chờ kết quả giải quyết lần đầu. Điều 3 và Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục giải quy ết các vụ án hành chính quy định ngời bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quết định bị khiếu nại, có quyền thoả thuận với người khởi kiện về việc giải quyết vụ án hành chính, có nghĩa các đơng sự có thể đã thoả thuận được cách giải quyết, không cần tiếp tục giải quyết khiếu kiện nữa vụ án có thể đình ch ỉ gi ải quy ết. Tuy nhiên các căn cứ đình chỉ vụ án tại Điều 41 Pháp lệnh Th ủ t ục giải quy ết các vụ án hành chính lại chưa có điều khoản quy định trường hợp nêu trên. Vì vậy, cần bổ sung một khoản cho trường hợp này, với nội dung: “ Khi ng ười bị kiện đã huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện theo quy định t ại Đi ều 3 ho ặc khi hai bên đương sự đã thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính theo quy định tại khoản đ Điều 20 và thông báo cho Toà án trước khi mở phiên toà xét xử ”. Trường hợp người bị kiện sửa đổi quyết định hành chính hoặc sau khi thoả thuận, hai bên đương sự không thống nhất cách giải quy ết v ụ án thì Toà án vẫn xét xử đối với quyết định bị khiếu kiện hoặc quyết định s ửa đổi quyết định bị khiếu kiện như trường hợp bình thường. - Đối với Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Pháp l ệnh Th ủ tục giải quyết các vụ án hành chính: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao nh ất thi ết phải sớm ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hi ện Pháp l ệnh Th ủ tục giải quyết các vụ án hành chính trong đó tập trung h ướng dẫn rõ kho ản 5 Điều 11. Đây là vấn đề bức xúc bởi lẽ Pháp l ệnh Th ủ tục gi ải quy ết các vụ án hành chính có những đặc điểm hoàn toàn khác bi ệt với Pháp l ệnh
  16. Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp l ệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh Th ủ tục giải quy ết các tranh chấp lao động. Trong chừng mực nào đó, một số quy định chung hoặc những thói quen của cán bộ hai ngành vẫn thực hiện trong khi th ực hiện các bước thực hiện của tố tụng như vi ệc lập hồ sơ của vụ án, chuy ển hồ sơ qua lại giữa hai cơ quan cùng cấp hoặc giữa cấp trên v ới c ấp d ưới,… song vì chưa có quy định hướng dẫn thực hiện cụ thể nên đã có nhiều trường hợp xử lý tuỳ tiện, khi phát hiện ra cũng không có cơ sở để kháng nghị, không có cơ sở để xác định trách nhiệm cụ thể và hậu quả của những hành vi đó. Mặt khác một số điểm của Pháp lệnh Thủ tục giải quy ết các vụ án hành chính chưa được giải thích để thống nhất cách hiểu nh ư trường h ợp nào thì được coi là quyết định lần đầu, quyết định giải quy ết khiếu nại l ần đầu, phương thức chuyển giao hồ sơ vụ án giữa hai ngành, thời h ạn tối đa đ ể Toà án nhân dân ban hành một quyết định, bản án sau khi xét xử,… - Hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức: Cần phải có văn bản hướng dẫn thống nhất về việc xây dung chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, công chức. Mọi cán bộ, công chức trên c ương vị, vị trí công tác đều được quy định chế độ trách nhiệm (trách nhiệm về chính trị, trách nhiệm về kinh tế, trách nhiệm về hành chính, trách nhiệm về đạo đức…) một cách đầy đủ, và ứng với trách nhiệm là quyền hạn rõ ràng. Cần phải có văn bản quy định thống nhất của cấp có th ẩm quy ền v ề vi ệc xây dung chế độ trách nhiệm mới có tác dụng giáo dục chung cho đ ội ngũ cán b ộ, công chức và đảm bảo các nội dung khoa học trong việc xây d ựng ch ế đ ộ trách nhiệm cán bộ, công chức trong tất cả các cơ quan nhà nước. Cần có văn bản quy định thống nhất về đạo đức công chức, biên soạn tài liệu và giảng dạy cho cán bộ, công chức thấu hiểu đạo đ ức công ch ức. Đạo đức công là phải rất cụ thể, có thể đo được, đếm được, so sánh được, tránh chung chung trừu tượng. Bởi suy cho cùng mọi sự chung thành, lòng yêu 16
  17. Tiểu luận - Tình huống nước, bản lĩnh chính trị của người cán bộ, công chức ph ải được th ể hi ện bằng hành động, bằng lời nói, việc làm, lương tâm nghề nghi ệp, b ằng s ự gương mẫu, lôi cuốn quần chúng làm tốt công việc theo lu ật pháp Nhà n ước. Đạo đức của cán bộ, công chức trước hết phải thể hiện ở sự cần ki ệm, liêm chính, chí công vô tư, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Đạo đức của cán bộ, công chức được coi là căn cứ quan trọng để công chức phấn đấu, rèn luy ện, tu dưỡng, là căn cứ để đánh giá cán bộ, công chức hàng năm và là căn cứ để mọi ngời có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức, góp ph ần giáo d ục cán b ộ, công chức trưởng thành. - Đối với ngành kiểm sát: Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm sát loại án này trong toàn ngành theo phương thức chuyên môn hoá, ổn định, được đào tạo và đào t ạo lại một cách thường xuyên tại các lớp nghiệp vụ của ngành theo giáo trình cụ thể, sát với thực tiễn hoạt động của ngành trong thời gian qua. Tăng cường hơn nữa việc kiểm tra, chỉ đạo điều hành kết hợp với hướng dẫn kịp thời về nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. Đặc biệt, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan có trách nhiệm tích luỹ đúc rút kinh nghiệm để xây d ựng c ơ s ở lý luận và những hướng dẫn có tính đặc thù cho lo ại vi ệc này t ới Vi ện kiểm sát nhân dân các cấp, nhằm tránh được những thiếu sót đã và có thể gặp phải trong thực hiện chức năng nghiệp vụ của mình. Viện kiểm sát nhân dân các địa phương cần quan tâm đúng mức đối với khâu công tác này vì đây là loại án phức tạp đòi h ỏi ngoài vi ệc ph ải s ưu t ầm, tích luỹ nhiều kiến thức pháp luật, kinh nghiệm công tác, kinh nghi ệm xã h ội của mỗi cán bộ, kiểm sát viên còn phải giải quyết tốt mối quan h ệ giữa ngành kiểm sát với các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Do đó vi ệc b ố trí kịp thời và đầy đủ cán bộ tham gia các lớp tập huấn, đào tạo theo yêu c ầu công tác cần phải được thực hiện nghiêm túc, có trách nhiệm,…
  18. KẾT LUẬN Khiếu nại, tố cáo về việc kỷ luật cán bộ, công chức là một trong những vấn đề bức xúc trong các loại khiếu kiện. V ấn đề này rất nghiêm túc, nhạy cảm và rất phức tạp. Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo về việc kỷ luật cán bộ, công chức là mục tiêu lớn của các cấp chính quyền, của các ngành, các tổ chức và của Toà án nhân dân các cấp. Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động t ư pháp đối với Toà án nhân dân các cấp trong th ụ lý, giải quy ết các v ụ án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã căn cứ, nhi ệm vụ, quy ền h ạn đ ược quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Th ủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Quy chế 56,… để thực hiện tốt công tác này trong thời gian vừa qua. Tuy vậy, trong công tác kiểm sát giải quyết án hành chính ở lĩnh v ực này còn nhiều hạn chế, tồn tại cũng như còn không ít các khó khăn, vướng mắc về chính sách pháp luật, bộ máy, biên ch ế … trong quá trình ki ểm sát giải quyết loại án này cần được tháo gỡ khắc phục. Việc đề ra được những giải pháp, kiến nghị sửa đổi bổ sung pháp lu ật, khắc phục khó khăn, vướng mắc khác nhằm làm cho công tác kiểm sát giải quyết án hành chính liên quan đến lĩnh vực khi ếu nại, t ố cáo v ề vi ệc k ỷ lu ật cán bộ, công chức có chất lượng, hiệu quả hơn. Đây là nhiệm vụ không chỉ của Viện kiểm sát nhân dân cấp Trung ương mà các Viện kiểm sát nhân dân cấp địa phương đều phải tiến hành. 18
  19. Tiểu luận - Tình huống
nguon tai.lieu . vn