Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: Hoàn thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Sở Giao Dịch – Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của mọi nền kinh tế. Đại hội IX của đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “.. nguồn lực con người – Yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”, “…con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kì CNH-HĐH…”. Đại hội Đảng lần thứ X cũng nhấn mạnh: ”phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức”. Như vậy, thời đại nào cũng cần đến nhân tài, hội nhập kinh tế thế giới càng sâu thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng trở nên bức thiết. Thực hiện nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là một xu thế tất yếu của đất nước. Trong bối cảnh phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, ngày càng nhiều các công nghệ hiện đại, các thiết bị tiên tiến và phương pháp quản lí tiến bộ được đưa vào áp dụng, không chỉ trong các doanh nghiệp nói chung mà còn cả trong các ngân hàng thương mại(NHTM) nói riêng. Tuy nhiên, không có một kỹ thuật hay phương pháp quản lý nào có thể đem lại hiệu quả nếu không đủ những con người có đủ năng lực để quản lý và thực thi nó. Nói cách khác, muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt khi tham gia hội nhập cần phải khai thác triệt để và tận dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó, nguồn lực con người đóng vai trò quyết định. Càng quan trọng hơn khi đối với các NHTM nước ta có tiềm lực về tài chính và cơ sở vật chất còn thua kém so với các NHTM nước ngoài. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với số lượng đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo nhất trong các NHTM Việt Nam, với hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghệp, nông thôn-là lĩnh vực có bước tiến chậm hơn so với các ngành kinh tế khác.Tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề đáp ứng chất lượng nguồn nhân lực với yêu cầu thực tiễn. Và vì vậy,
  3. nhiệm vụ đặt ra đối với nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của NHNo&PTNT VN là hết sức nặng nề và cấp bách khi hội nhập kinh tế quốc tế. SGD NHNo&PTNT VN là đầu mối thực hiện các nghiệp vụ theo ủy quyền của NHNNo & PTNT VN, SGD luôn coi đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện của mình. Xuất phát từ lí do trên, em quyết định chọn đề tài: “ Hoàn thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại Sở Giao Dịch – Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: 1.1.1. NHTM trong nền kinh tế thị trường: *. Khái niệm NHTM: Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng, các nghiệp vụ lại phức tạp và luôn thay đổi theo sự thay đổi của nền kinh tế. Do tập quán và luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau nên quan niệm về NHTM cũng không có sự thống nhất song có thể hình dung NHTM là một trong những ngành dịch vụ lâu đời nhất, là tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán trung gian cho các khách hàng. Tầm quan trọng của NHTM có thể được minh họa một cách chi tiết qua các chức năng cơ bản của nó(chức năng tạo tiền, chức năng thanh toán, chức năng bảo quản và cất trữ,…) Theo Luật các tổ chức Tín dụng của Việt Nam(được sửa đổi bổ sung năm 2004) thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ
  4. hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàngchính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. [Luật các tổ chức Tín dụng]. “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán” [Luật các tổ chức Tín dụng]. Nếu xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. *.Vai trò NHTM: Về lý thuyết, các NHTM là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay,nhưng trên thực tế ngân hàng thực hiện nhiều nghiệp vụ để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau: Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiền tiết kiệm, chủ yếu từ hộ - gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàngthực hiện thanh toán cho - việc mua hàng hóa và dịch vụ(như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc). Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách - hàngmất khả năng thanh toán(chẳng hạn phát hành thư tín dụng)
  5. Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàngquản lý và bảo vệ tài sản của - họ, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán(thường được thực hiện tại phòng ủy thác). Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của - Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội 1.1.2. Nguồn nhân lực NHTM: 1.1.2.1. Khái niệm: *. Khái niệm nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh, tùy theo cách tiếp cận khác nhau sẽ cho ta nhiều khái niệm khác nhau. Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung nghiên cứu trên 2 góc độ: Trên phương diện tăng trưởng kinh tế: yếu tố con người được đề cập - đến với tư cách là là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản nhất của xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động theo yêu cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản xuất và dịch vụ. Trên phương diện khía cạnh về vốn: Con người được xem xét trước hết - như một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương diện để phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư cho con người được phân tích với tính chất là sự “tư bản hóa các phúc lợi” tương tự như đầu tư vào các nguồn vật chất có tính đến tổng hiệu quả các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các nhà đầu tư đó. Theo cách nghiên cứu trên, ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp..) mà mỗi các
  6. nhân sở hữu. Nguồn nhân lực được xem như một nguồn vốn bên cạnh những nguồn vốn vật chất khác như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên thiên nhiên…đầu tư cho con người, giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Cũng trên cơ sở nghiên cứu trên, Liên hiệp quốc(UNO) đưa ra khái niệm nguồn nhân lưc là tất cả các kiến thức, kỹ năng, năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu hạ tầng xã hội – kinh tế. Từ những quan niệm nêu trên, rút ra: Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà đó là cả một tập hợp gồm nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kĩ năng, phong cách nghề nghiệp… gắn với sự tác động của môi trường đối với lực lượng lao động đó. *. Nguồn nhân lực NHTM : Theo cách tiếp cận trên thì nguồn nhân lực của ngân hàng th ương mại là tất cả vốn người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…của tất cả những thành viên trong NHTM, bao gồm cả những cán bộ quản lý của Ngân hàng và các cán bộ, nhân viên thực thi các nghiệp vụ Ngân hàng, cũng nh ư những nhân viên ở các bộ phận khác trong NHTM: lễ tân, phục vụ… 1.1.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực NHTM: Dựa trên đặc thù ngành kinh doanh hàng hóa đặc biệt là tiền tệ và dịch vụ tài chính, nguồn nhân lực của NHTM có đặc điểm chung như sau: Về mặt bằng kiến thức: do hoạt động NHTM là cấp tín dụng và đầu - tư cho nền kinh tế nên đòi hỏi cán bộ NHTM phải am hiểu và có kiến thức tổng hợp cuarnhieeuf chuyên ngành sản xuất kinh doanh, nhiều loại đặc thù quản lý. Về năng lực: Nhạy bén, sáng tạo, năng động do xuất phát từ đặc - điểm của kinh doanh hàng hóa đặc thù là tiền tệ.
  7. Về phong cách: NHTM thực hiện chức năng”đi vay để cho - vay”kinh doanh dựa trên sự “tín nhiệm” nên người cán bộ NHTM cần phải có phong cách chững chạc, tự tin, quyết đoán, đạo đức tốt, tạo được niềm tin tưởng cho khách hàng ở cả góc độ là người gửi tiền và các nhà đầu tư vay vốn. Dựa trên tiêu thức phân chia theo ngạch quản lý và theo chuyên môn, có thể xác định đặc điểm về nguồn nhân lực NHTM theo hai nhóm chính sau: a. Cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ: Đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ gồm có hai bộ phân chủ yếu: - Bộ phận đầu não(Trung tâm điều hành, Trụ sở chính): đây là bộ phận có ảnh hưởng quyết định đến phương hướng hoạt động của NHTM. - Bộ phận chỉ đạo cơ sở: là bộ phận tác động trực tiếp đến chất lượng kinh doanh tiền tệ của một Ngân hàng, một chi nhánh Ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng. Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ bao gồm những người đảm nhận cá chức danh: + Chủ tịch Hội đồng quản trị: thành viên HĐQT; + Tổng Giám đốc(Giám đốc) và các Phó tổng giám đốc(Phó giam đốc) + Trưởng, phó các phòng(ban) nghiệp vụ thuộc cơ quan điều hành(cấp trung ương và trung gian); Yêu cầu về năng lực chuyên môn: Tùy thuộc vào từng loại hình Tổ chức tín dụng, từng vị trí then chốt trong các bộ phận nghiệp vụ của một Tổ chức tín dụng mà cán bộ nắm giữ những vị trí này phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, những yêu cầu chung nhất mà một cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ cần có. Loại nhân lực này, với đặc trưng cơ bản nhất đòi hỏi họ là phải nắm bắt tốt được thời cơ để tổ chức các kế hoạch kinh doanh tiền tệ sao ho có hiệu quả nhất cho mỗi tổ chức tín dụng và cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
  8. Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ là những người quyết định chất lượng hoạt động của một Ngân hàng, một tổ chức tín dụng, nên sự thành đạt của mỗi Ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng trước hết trông chờ vào năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ này. b. Cán bộ nhân viên nghiệp vụ. Nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ nhân viên nghiệp vụ mang một số đặc điểm về cơ cấu sau: - Nghề nghiệp đa dạng - Số lượng nghề nghiệp bố trí chủ yếu ở các lĩnh vực kinh doanh trực tiếp. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, tuy không phải là lực lượng lãnh đạo và quyết định đến sự phát triển của mỗi Ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhưng lại chiếm số đông tuyệt đối trong hệ thống Ngân hàng nên họ chính là động lực của sự phát triển Cùng với đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ, lực l ượng cán bộ làm công tác nghiệp vụ là những người đã góp phần làm nên sự nghiệp đổi mới ngành ngân hàng và thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế chung của đất nước. 1.1.2.3. Phân loại nhân lực của NHTM: Trong hoạt động của NHTM cũng như các hoạt động của các tổ chức khác, để thực hiện thuận tiện cho các công tác về nguồn nhân lực cần phân chia thành các loại nhân lực theo các tiêu thức khác nhau. Theo tầm quan trọng của các cương vị được giao cho cá nhân trên cơ sở sử dụng cách phân cấp quản trị, nhân lực NHTM được chia thành 4 loại. *. Cán bộ lãnh đạo
  9. Là cấp quản trị cao nhất, là người đứng đầu, chỉ huy, có quyền quyết định chiến lược, định hướng chung cho hoạt động của NHTM, xây dựng và quản lý các mục tiêu định hướng ngắn hạn và dài hạn cho NHTM. Về mặt nhân lực: Đưa ra các chương trình phát triển nhân lực: các chính sách để sử dụng nhân lực tốt nhất bao gồm các chính sách về l ương bổng, chính sách về thưởng , phat, kiểm soát hoạt động của nhân viên cấp dưới, giúp đỡ nhân viên cấp dưới khi cần thiết. Ở vị trí cao nhất, với nhiệm vụ to lớn và nặng nề như trên, những người lãnh đạo NHTM cần đáp ứng những đòi hỏi nhất định trên nhiều phương diên: Năng lực nhận thức, năng lực ra quyết đinh, năng lức tổ chức quyết định điều hành, có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm và thâm niên công tác, có phẩm chất đạo đức tốt. *.Cán bộ quản trị cấp trung gian Là những người phụ trách, đứng đầu các bộ phận, các nhóm (phòng, ban, sở…); trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động của nhân viên. Cấp quản lý này có vai trò rất lớn trong quan hệ điều hành, duy trì không khì làm việc thuận lợi, bố trí công việc hợp lý, kèm cặp nhân viên, chuyển giao kinh nghiệm cho nhân viên. Công việc chính của họ phụ trách một phạm vi công việc tương đối lớn và thường không tách khỏi công việc chuyên môn. Những công việc chính thường bao gồm: Từ việc ra quyết định chiến thuật và tác nghiệp, xây dựng và trực tiếp chỉ đạo thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, các mục tiêu cụ thể. Tổ chức tập hơp mọi thành viên trong đơn vị triển khai thực hiện và hoàn thành các mục tiêu, các chương trình, các công việc được phân công. Nhìn chung khó có thể tách biệt các tiêu chuẩn riêng biệt cho nhà lãnh đạo và các nhà quản trị cấp trun g gian, nhưng luôn có thể nhận định: người lãnh đạo và những nhà quản trị cấp trung gian đóng vai trò quan trọng trong hệ thống NHTM, giống như hệ thần kinh của con người, có nhiệm vụ cảm nhận
  10. được các phản ứng từ bên ngoài, thấy được và nghĩ ra được những giải pháp tối ưu để điều khiển các bộ phận khác trong tổ chức, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của NHTM. Như vậy, đòi hỏi họ phải: Là những người có kinh nghiệm, có ý chí, có khả năng thực hiện và hướng dẫn, động viên người khác cùng hoàn thành nhiệm vụ, có bản lĩnh, có hoài bão để hoàn thành sứ mạng của mình, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, phải biết làm cho thuộc cấp vừa tuân phục, vừa mến mộ với tư cách tấm gương cho mọi người học tập noi theo, biết làm cho mọi người hợp tác với nhau dể làm việc, biết nhận ra, biết khai thác, sử dụng khả năng của cấp dưới, giúp họ ý thức trách nhiệm, để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. *. Chuyên gia: Bao gồm tất cả những người được các nhà lãnh đạo sử dụng với tư cách làm tham mưu, cố vấn, là người đưa ra ý kiến để các cấp lãnh đạo và quản trị với nghĩa là cấp quản trị trực tuyến lựa chọn và ra quyết định. Những chuyên gia này là những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về một số lĩnh vực chuyên môn náo đó. Các chuyên gia này rất cần cho các cấp quản trị về việc tư vấn cho các cấp quản trị về các chiến lược lâu dài, cũng như công việc thực tế hàng ngày. Họ có thể giúp huấn luyện nhân viên, chuyển giao kinh nghiệm cho nhân viên. Do vậy, đòi hỏi phải đạt một số tiêu chuẩn: có năng lực chuyên môn, kinh nghiệm và thâm niên trong lĩnh vực chuyên gia, có năng lực nhận thức, có tầm hiểu biết rộng, có phẩm chất đạo đức. *. Nhân viên: Là những người thực hiện các công việc cụ thể theo kế hoạch đề ra tuân thủ mệnh lệnh của các cấp quản trị. Công việc của họ là hoàn thành các phần
  11. việc được giao theo khả năng và kiến thức sẵn có, phối kết hợp với các viên chức khác để hoàn thành công việc cụ thể. Đây là nhân lực có vai trò quan trọng ở NHTM. Bởi vì, quản trị là hoàn thành công việc qua người khác. Nghĩa là, lãnh đạo dù có tài giỏi, song nếu không có một đội ngũ nhân lực giỏi thì cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Măt khác, so với ba loại nhân lực trên, loại nhân lực này là lực lượng đông đảo nhất, chiếm đại bộ phận trong lực lượng lao động của NHTM. Họ là những người trực tiếp thực hiện và giải quyết mọi công việc của NHTM; là người trực tiếp tiếp xúc với môi trường hoạt động cụ thể. Do đó mục tiêu của NHTM có đạt được hay không, uy tín cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động này. Tiêu chuẩn của loại nhân lực này, không đòi hỏi cao như ba loại trên, nhưng cũng phải đảm bảo: có trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ; tính cách cần thiết phù hợp với công việc; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong làm việc; ý thức cầu tiến; phong cách ứng xử; khả năng giao tiếp; phẩm chất đạo đức; các tiêu chuẩn khác phù hợp từng vị trí lĩnh vực công tác.
  12. 1.1.3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM 1.1.3.1. Khái niệm: *. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định.Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp. Như vậy có thể xem đào tạo nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm giúp người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Phát triển nguồn nhân lực( theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày thậm chí đến vài năm, tuỳ vào mục tiêu học tập; và nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp của họ. Như vậy có thể thấy cả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đều là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho nguồn nhân lực của tổ chức. Song đào tạo và phát triển là không giống nhau, chúng khác nhau ở định hướng, phạm vi, thời gian và mục đích. Cụ thể, đào tạo định hướng vào hiện tại, tập trung nâng cao kĩ năng cần thiết, khắc phục những thiếu hụt về mặt kiến thức giúp các cá nhân thực hiện tốt công việc hiện tại của mình. Đào tạo thực hiện ở phạm vi cá nhân và trong thời gian ngắn. Phát triển nguồn nhân lực lại chú trọng vào các công việc tương lai của tổ chức, nó giúp các cá nhân trang bị sẵn những kiến thức, kỹ năng mới cần thiết trong việc thăng tiến lên chức vụ mới. Phát triển thực hiện ở cả phạm vi cá nhân và tổ chức, và được
  13. tiến hành trong dài hạn Hai hoạt động này phải tiến hành đồng thời đối với mỗi cá nhân trong tổ chức để khai thác hết hiệu quả của hoạt động này và xây dựng một đội ngũ NNL chất lượng cao, ổn định cho tổ chức. Hiện nay vai trò và vị trí của hoạt động này ngày càng quan trọng hơn trong mọi tổ chức. *. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: Như vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM là một hoạt động có tổ chức, được điều khiển trong một thời gian nhất định theo những kế hoạch đã được xác định, bằng các kiến thức và phương pháp khác nhau đem lại sự thay đổi về chất cho người lao động. 1.1.3.2. Mục tiêu, vai trò: Nhân lực là yếu tố then chốt đối với sự phát triển của mỗi tổ chức. Vì vậy, các doanh nghiệp không tiếc công sức đầu tư cho công tác tuyển dụng với mong muốn xây dựng được đội ngũ nhân sự trình độ cao. Nhưng thực tế cho thấy các nhà lãnh đạo và quản trị không ngừng than phiền về chất lượng nhân viên của mình. Đây cũng là một thực tế vẫn đang tồn tại ở các NHTM. Vấn đề đặt ra là ban lãnh đạo của NHTM vẫn chưa đánh giá đúng mức vai trò của công tác đào tạo trong quá trình làm việc. Trước tiên hãy cùng xem xét mục tiêu mà các NHTM đặt ra với công tác này: *. Mục tiêu của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong NHTM: Nhằm nâng cao hiệu quả của đơn vị và sử dụng tối đa NNL hiện có trên cơ sở làm cho người lao động hiểu rõ hơn về công việc, nắm vững hơn về nghề nghiệp của mình. từ đó thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình tốt hơn, tự giác hơn. Đồng thời giúp nhân viên nâng cao kỹ năng thích ứng với sự thay đổi, đáp ứng được đòi hỏi đối với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ và sự biến đổi không ngừng của môi trường kinh doanh trong và ngoài nước. Xuất phát từ những mục tiêu trên, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đang ngày càng trở thành công tác thiết yếu được quan tâm hàng đầu trong các
  14. NHTM bởi vai trò quan trọng của nó đối với đơn vị hay cá nhân người lao động. *. Vai trò của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đối với NHTM: - Đối với NHTM: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của các NHTM. + Đào tạo và phát triển giúp nâng cao năng suất lao động: Thông qua công tác đào tạo và phát triển mà kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên ngân hàng được nâng cao, giúp họ trở nên “thích hợp” với công việc hơn. Do đó, hiệu quả thực hiện công việc được nâng cao, khả năng tiếp cận và vận hành công nghệ cũng được cải thiện hơn, đồng thời nâng cao mức độ thỏa mãn của nhân viên trong công việc và có động lực để tự gia tăng hiệu suất làm việc mang lại năng suất lao động cao hơn cho tổ chức. + Đào tạo và phát triển đảm bảo sự duy trì và phát triển của các NHTM: Công tác đào tạo và phát triển theo những chương trình mới còn giúp duy trì và nâng cao đội ngũ nhân lực có chất lượng, giúp nâng cao trình độ, kỹ năng, phẩm chất đạo đức, ý thức kỷ luật, khả năng xử lý tình huống cũng như sự nhanh nhạy với thị trường phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội và của ngành ngân hàng từ đó duy trì và phát triển tổ chức. + Đào tạo và phát triển giúp hạn chế tối đa chi phí dành cho các hoạt động kiểm tra, giám sát: đào tạo giúp người lao động nâng cao trình độ và nhận thức của mình, do đó, họ sẽ có trách nhiệm hơn với công việc, mong muốn được đóng góp nhiều hơn cho tổ chức và làm việc hiệu quả hơn, chính xác hơn. Vì vậy, họ sẽ chủ động làm việc mà không bắt buộc phải có sự giám sát chặt chẽ của người quản lý. Nhà quản lý vì vậy mất ít thời gian hơn vào việc giám sát, theo dõi những việc vụn vặt, có nhiều thời gian để định hướng những tầm nhìn mới cho tổ chức. Điều này cũng giảm bớt sự căng thẳng giữa nhân viên và người quản lý trong các NHTM.
  15. + Đào tạo và phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho NHTM: Khi được đào tạo về nghiệp vụ, về kỹ năng, người lao động hiểu được yêu cầu công việc, họ sẽ làm việc tốt hơn, nhờ đó, chất lượng sản phẩm dịch vụ sẽ được nâng cao rõ rệt. Có sự chuyển biến tích cực trong lao động sẽ khiến khách hàng hài lòng về sản phẩm dịch vụ và tin dùng hơn. Trong thời đại kĩ thuật phát triển như vũ bão, Các NHTM cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ và công nghệ thì hoạt động này góp phần tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao tính ổn định và năng động của các Ngân hàng. Ngoài ra, công tác đào tạo và phát triển còn có nhiều vai trò + Đào tạo và phát triển giúp tăng cường sự gắn bó giữa lao động và NHTM: Người lao động được tạo điều kiện để học tập và phát triển, họ sẽ thấy sự quan tâm cần thiết của tổ chức đối với mình, điều này sẽ tạo thúc đẩy họ mong muốn được làm việc lâu dài tại đó. Ngoài ra, mọi Ngân hàng hiện nay có thể căn cứ vào những chương trình đào tạo khác nhau để đưa ra những quy định khác nhau để giữ người lao động. Chẳng hạn, với các Ngân hàng cho nhân viên đi học cao học trong và ngoài nước, họ sẽ đưa ra quy định ràng buộc nhân viên sau khi đi học phải làm việc cho họ tối thiểu bao nhiêu năm. Đây thực ra là một hình thức đầu tư cho nguồn nhân lực, đem lại lợi ích lâu dài cho cả ngân hàng và cá nhân người lao động. Nhờ đó, người lao động cũng thấy muốn gắn bó với ngân hàng và ngân hàng cũng giữ được người tài, tăng sức cạnh tranh cho tổ chức. + Đào tạo giúp thu hút nguồn nhân lực tiềm năng: Một NHTM biết cách tạo ra cơ hội và phát triển cho nhân viên sẽ thu hút được nhiều nhân lực trẻ, chất lượng cao mong muốn được làm việc cho tổ chức. Đối với nguồn nhân lực trẻ, đặc biệt là những sinh viên mới ra trường, cơ hội được học hỏi và phát triển bản thân, phát triển sự nghiệp là mong muốn cháy bỏng của họ. Hãng tư vấn nhân sự Ernst & Young (Anh quốc) vừa tiến hành một cuộc điều tra đối với hơn 1.000 sinh viên vừa tốt nghiệp về các yếu tố ảnh hưởng tới lựa chọn công việc trong tương lai và phát hiện ra gần 1 nửa (44%) coi trọng cơ
  16. hội được đào tạo thêm trong khi chỉ 18% quan tâm nhất đến các khoản lương, thưởng. Ước mơ, khát vọng, nhu cầu được khám phá, trải nghiệm và thách thức, đó là những điểm khác biệt của một nhân viên mới rời ghế nhà trường so với một nhân viên đã trưởng thành và có kinh nghiệm lao động. Điều đó chi phối cách chọn lựa công việc tương lai của họ. - Đối với người lao động: + Nhờ có đào tạo và phát triển mà người lao động có điều kiện bù đắp những kiến thức, kỹ năng còn thiếu hụt và học hỏi những kiến thức, kĩ năng mới: Từ đó giúp người lao động làm việc một cách chuyên nghiệp hơn, tự tin hơn và thích ứng tốt hơn với những thay đổi công nghệ và môi trường làm việc của NHTM tạo ra hiệu quả công việc cao hơn. + Đào tạo và phát triển giúp lao động tìm được đúng công việc phù hợp với mình: đào tạo sẽ giúp người lao động hình dung được công việc của mình rõ ràng hơn. Từ đó cân nhắc và nhận thức được công việc có thực sự phù hợp với mình không. Đồng thời đào tạo và phát triển cũng tạo động lực cho người lao động phấn đấu, bộc lộ hết khả năng của mình. Nhờ đó, nhà quản lý sẽ nắm được điểm mạnh, điểm yếu và sắp xếp đúng người vào đúng vị trí sở trường của anh ta. + Đào tạo và phát triển tạo ra cơ hội thăng tiến tốt hơn cho người lao động: Vì qua đào tạo và phát triển, kĩ năng, trình độ chuyên môn của người lao động sẽ tốt hơn, kết hợp với những kinh nghiệm có được trong quá trình lao động sẽ góp phần phát huy khả năng và sự sáng tạo của người lao động. Do đó, họ sẽ có nhiều cơ hội được giao cho những nhiệm vụ khó khăn và quan trọng hơn, có nhiều hơn cơ hội để thể hiện mình và đóng góp nhiều hơn cho Ngân hàng. Từ đó sẽ tạo ra cơ sở để các nhà quản lý làm căn cứ để cất nhắc họ vào những vị trí cao hơn. 1.2. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM:
  17. 1.2.1. Khái niệm chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: *. Khái niệm chính sách: Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những chính sách của mình.Có chính sách của cá nhân, chính sách của doanh nghiệp, chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một lin minh các nước hay tổ chức quốc tế…Vậy chính sách là gì? Theo quan niệm phổ biến: chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Ví dụ: khi hiệu trưởng của một trường đại học nói :”chính sách của chúng tôi là khuyến khích mọi sinh viên tham gia vào quá trình nghiên cứu khoa học.” Một cửa hàng tuyên bố “chính sách của chúng tôi là sẽ truy tố tất cả những người có hành vi trộm cắp trong cửa hàng.” Tuyên bố chính sách có nghĩa là một cá nhân hay tổ chức đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức giải quyết những vấn đề quan trọng. Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lí những quyết định nào có thể và những quyết định nào không thể. Bằng cách đó các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức. *. Khái niệm chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của NHTM: Là hệ thống các quan điểm, mục tiêu về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cùng những phương thức hành động được ban lãnh đạo Ngân hàng khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại trong một giai đoạn phát triển nhất định của mỗi NHTM.
  18. 1.2.2. Mục tiêu, vai trò của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: Mục tiêu: Nắm được sự thiết yếu và quan trọng của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực như vậy, các lãnh đạo NHTM đã chú trọng nhiều hơn đến việc thiết lập và hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo, phát triển nhân sự cho tổ chức nhằm mục tiêu thúc đẩy và tạo điều kiện để nhân viên tham gia tích cực vào công tác học tập,trau dồi những kiến thức, kỹ năng cần thiết nhằm tăng khả năng thích ứng cho các cá nhân. Vai Trò: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có vai trò quan trọng nhất trong hệ thống chính sách phát triển của NHTM. Nó giữ vị trí quyết định và có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của Ngân hàng. Cùng với các chính sách khác tạo nên hệ thống chính sách quy định, điều chỉnh hoạt động của các thành viên trong đơn vị hoạt động một cách khoa học, hiệu quả nhất. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trực tiếp góp phần vào việc nâng cao trình độ chuyên môn, xây dựng và phát triển con người có đủ đức và tài, qua đó đáp ứng được mục tiêu trước mắt của NHTM, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của quốc gia( vì một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến đói nghèo là do con người không có học, không có nghề nghiệp). Chính sách phát triển nguồn nhân lực hợp lý còn góp phần phát triển khả năng tiềm ẩn trong mỗi các nhân, Giúp đào tạo ra đội ngũ nhân viên giỏi thực sự cho NHTM, chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo kế cận cho tổ đơn vị, đảm bảo sự phát triển đáp ứng đòi hỏi của điều kiện phát triển của nền kinh tế. 1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM.
  19. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, các nhân tố khác nhau thì ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. *. Môi trường kinh tế vĩ mô: Môi trường kinh tế vĩ mô theo mô hình PEST bao gồm 4 yếu tố: Political (Thể chế- Luật pháp)  Economics (Kinh tế)  Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội)  Technological (Công nghệ)  Đây là những yếu tố khách quan bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến các tổ chức kinh tế nói chung và NHTM nói riêng. Dựa trên các điều kiện môi trường vĩ mô cụ thể, NHTM sẽ đưa ra những chiến lược kinh doanh cũng như những chính sách về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khác nhau theo hướng phù hợp với đặc điểm môi trường, đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. - Thể chế- Luật pháp: Thể chế luật pháp có sự bình ổn cao, không có các yếu tố xung đột về chính trị, ngoại giao sẽ tác động tốt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các NHTM và ngược lại. Bên cạnh đó, chính sách Thuế (thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ, thuế thu nhập…) và các đạo luật liên quan (luật đầu tư, luật doanh nghiệp,luật lao động, luật chống độc quyền, chống bán phá giá ...) sẽ ảnh hưởng đến hành vi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với các dịch vụ của NHTM, do đó ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Từ đó tác động trực tiếp đến nguồn kinh phí có thể đầu tư cho công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM. Dựa vào đó, NHTM mới đưa ra những chính sách đào tạo và phát triển NNL phù hợp với điều kiện tài chính của đơn vị. - Các yếu tố Kinh tế:
  20. NHTM đưa ra các chính sách đào tạo và phát triển NNL phải chú ý đến các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế. Thực vậy: Trước tiên tình trạng của nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ hay rơi vào tình trạng khủng hoảng sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu tiền mặt để tiêu dùng, đầu tư…hay tiết kiệm. Do đó sẽ tác động đến nhu cầu của người dân về các dịch vụ của NHTM do đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của NHTM. Không chỉ vậy, sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho NNL NHTM, do đó tác động đến các chính sách đào tạo và phát triển NNL. Nền kinh tế nhìn chung vận hành theo những quy luật nhất định, do đó, NHTM phải có những chính sách đào tạo và phát triển NNL khác nhau để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Không chỉ vậy, các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, luật tiền lương cơ bản, các chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho ngành…) sẽ tác động tới sự vận hành của nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của NHTM, do đó ảnh hưởng đến các quyết định về chính sách đào tạo và phát triển NNL. Cuối cùng, Triển vọng kinh tế trong tương lai:Tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng GDP, cơ cấu kinh tế…sẽ có tác động định hướng cho những chính sách đào tạo và phát triển NNL của NHTM trong tương lai. - Các yếu tố văn hóa xã hội: Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng. Những yếu tố này cũng chính là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó. Mỗi xã hội có những giá trị văn hóa, xã hội là khác nhau, điều này tạo nên sự khác biệt về lối sống, học thức, các quan điểm về vấn đề học tập, tâm lý sống… của đại bộ phận người dân các quốc gia khác nhau. Do đó các NHTM phải căn cứ vào những đặc điểm văn hóa, xã hội của quốc gia mình để có những chính sách đào tạo và phát triển NNL về nội dung, phương
nguon tai.lieu . vn