Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội
  2. LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn mình thì nền kinh tế đất nước cần phải được tăng trường và phát triển. Để làm được điều đó cần phải có một đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng nhằm giúp cho ngân hàng có quy định đúng đắn trong hoạt động cho vay của ngân hàng, giúp hiệu quả kinh tế - xã hội. Tại ngân hàng No & PTNT chi nhánh Hà Nội, công tác tín dụng có vai trò rất quan trọng, không chỉ trực tiếp tác động đến sống còn của hoạt động kinh doanh những năm gần đây, công tác tín dụng tại ngân hàng No &PTNT chi nhánh Hà Nội được chú trọng, không ngừng phát triển và đã đặt được nhiều thành công. Nhân thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế tại chi nhánh Hà Nội NHNo & PTNT em nhận thấy mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hệ thông hoá những lý luận cơ bản về công tác tín dụng. Việc đánh giá chất lượng công tác tín dụng tại NHNo& PTNT chi nhánh Hà Nội nhằm rút ra những kết quả, nhưng hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân đưa đến hạn chế đó. Từ đó, đưa ra một số giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ chất lượng tín dụng chi NHTM nói chung và tại – NHNo & PTNT chi nhánh Hà Nội nói riêng. Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới công tác chất lượng tín dụng. Phạm vi nghiên cứu là công tác cho vay vốn trung và dài hạn tại NHNo &PTNT chi nhánh Hà Nội. Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích, luận giải, phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân tích, đánh giá, rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thực đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng, vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
  3. thôn chi nhánh Hà Nội ’’ cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Để thực hiện đề tài này, ngoài phần mở đầu và kết luận em chia thành ba chương: Chương 1: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chí nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Hà Nội.
  4. CHƯƠNG 1 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1. Một số vấn đề tín dụng ngân hàng 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng ngân hàng Qua lịch sử phát triển, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là một động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên một giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội ngày nay, tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc: - Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiện tệ, hoặc dưới hình thái vật chất như: hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản, tiện tệ … - Người đi vay chỉ sử dụng đối tượng vay tạm thời trong một thời gian nhất định sau khi hết thời hạn theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị ban đầu, nói cách khác người đi vay phải hoàn trả lãi và gốc lẫn lãi cho người cho vay. Tín dụng ngân hàng có thể hiểu: Quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển giao quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa ngân hàng với khách hàng trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó, lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một tỷ lệ lãi suất nhất định. Còn theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tín dụng là dừa trên cơ sở về long tin, người cho vay tin tường vào người đi vay sẽ sử dụng các khoản vốn đó đúng mục đích,có hiệu quả và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn cộng lãi. Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng đóng vai trò một tổ chức tài chính trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng vời các doanh nghiệp và cá nhân. Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tự cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc là phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái
  5. phiếu để hay động vốn trong toàn xã hội. trái lại với tự cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Khác với tín dụng thường mại. loại tín dụng được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, còn tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ. Bao gồm tiền mặt và bút tệ ( chủ yếu là dưới hình thức bút tệ). Tín dụng ngân hàng được biểu hiện thông qua ba đặc điểm cơ bản sau: * Thứ nhất là lòng tin: để thiết lập được quan hệ tín dụng thì người cho vay phải lòng tin đối với người đi vay, tín tương người đi vay sẽ sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả sẽ hoàn trả đầy đủ, đúng hạn. * Thứ hai là tính thời hạn: quan hệ tín dụng được thiết lập có thời hạn, nghĩa là người vay phải hoàn trả cho người cho vay sau một thời gian nhất định được thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng vay vốn, thời hạn cho vay được xác định trên cơ sở khả năng về nguồn vốn của người cho vay, chu kỳ sản xuất kinh doanh của người đi vay. * Thứ ba là tính hoàn trả: đây là sự khác biết giữa tín dụng và các loại quan hệ khác cấp phát, cho tặng,… sau một thời gian nhất định người đi vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho người cho vay. 1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng rất đa dạng và phong phú. Sự phát triển kinh tế đã làm xuất hiện nhiều hình thức tín dụng mới, do đó tuỳ thuộc vào việc phát triển kinh tế và pháp luật của mỗi nước, mỗi quốc gia khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn kinh tế xã hội và nhu cầu đa dạng của khác hàng mà các NHTM luôn tìm ra các giải pháp bằng cách đưa ra hình thức tín dụng mới nhằm đa dạng hoá các hình thức cho vay để mở rộng tin dụng. thu hút khách hàng, tặng lợi nhuận và giảm rủi ro. Các hình thức này phán ánh đặc thù riêng của mỗi loại tín dụng khác nhau để từ đó Nhà nước đưa ra các chính sách, chế độ thích hợp cho mỗi loại tín dụng trong từng thời kỳ phát triển nhất định. Hiện nay, các hình thức tín dụng có rất nhiều các phân loại theo những tiêu thức khác nhau, trong phạm vi này bài viết xin đề cấp một cách phân chia hình thức tín dụng phổ biến như sau: Xét theo thời hạn có 3 loại hình thức tín dụng
  6. - Tín dụng ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của nhân. Loại này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của NHTM. - Tín dụng trung hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào việc mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới trang thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,xây dựng các dự án hoặc công trình có quy mô nhỏ và có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 5 năm trở lên. Chủ yếu để đáp ứng nhu cầu về vốn dài hạn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất các công trình có quy mô lớn, như các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các công trình dự án thuộc điện ưu đãi đầu tư của Nhà nước … Căn cứ vào hình thái giá trị, có 2 loại hình thức tín dụng - Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng Ngân hàng cung cấp cho khách hàng là tiền. Đây là hình thái tín dụng chủ yếu của NHTM và nó được thực hiện dưới kỹ thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, tín dụng trả góp, thấu chi … - Tín dụng bằng tài sản: là loại tín dụng mà hình thái giá trị tín dụng ngân hàng cung cấp cho khách hàng là tài sản (đối với NHTM chủ yếu dưới hình thức tín dụng thuê mua ). Trong thời hạn cho vay vốn, những tài sản này chính là tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Căn cứ vào mục đính sử dụng vốn, có 2 loại hình thức tín dụng - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. Gồm những loại hình như cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay nông nghiệp, thuê mua… - Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ và các hàng hoá tiêu dùng khác. Căn cứ sự bảo đảm trong quan hệ tín dụng - Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay đòi hỏi người vay vốn phải có tài sản thế chập ( tài sản này phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay ), cầm cố
  7. hoặc bảo lãnh của người thứ ba. - Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng không có tài sản thế chập, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Căn cứ vào phong pháp cho vay - Tín dụng trực tiếp: là loại tín dụng mà ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân hàng. - Tín dụng gián tiếp: là khoản vay được thực hiện thông qua người thứ ba như mua lại các khế ước hoặc chứng từ phát sinh còn trong thời hạn thanh toán. Các loại cho vay gián tiếp mà ngân hàng NHTM thực hiện là chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng. mua các khoản nợ của các doanh nghiệp … Các hình thức tín dụng trong hệ thông NHTM * Tín dụng vãng lai ( current account ): Tín dụng vãng lai là một hoạt động vay mượn thường xuyên do Ngân hàng thực hiện bằng nội tệ và ngoại tệ với số lượng phù hợp theo sự thoả thuận trong các hợp đồng tín dụng. Đây là hình thức phổ biến và nó đóng vai trò kịp thời về vốn trong hoạt động của doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp là khách nợ của Ngân hàng. Trong quá trình kinh doanh có thể xảy ra trường hợp tại một thời điểm mà số tiền của công ty không thể đủ để mua hàng thì doanh nghiệp này phải vay tiền của Ngân hàng và tín dụng vãng lai phát sinh. Ngân hàng mở cho vay tiền của khoản tổng hợp với dự Nợ, vừa dự Có ( tài khoản vãng lai ). Toàn bộ thu nhập của khách hàng đều nhập vào bên Có và toàn bộ chi tiêu đều trích từ bên Nợ. Tín dụng vãng lai có thể coi như đường ống dẫn nhiên liệu thông suốt giữa Ngân hàng với khách hàng và giữa doanh nghiệp là khách hàng với nhau trong quan hệ làm ăn buôn bán. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng sử dụng vốn vay dưới hình thức rất linh hoạt bằng tiền mặt, ngân phiếu, thanh toán kỳ phiếu hoặc mua chứng khoán … Điều kiện để sử dụng hình thức tín dụng này là khách hàng phải có tài sản thế chập, cầm cố hoặc bảo lãnh. Ngoài ra, nếu khách hàng có uy tín với Ngân hàng thì có thể được vay dưới hình thức tín chấp.
  8. * Tín dụng chiết khấu: Khi trao đổi và lưu thông hàng hoá xã hội phát triển đến mức độ nhất định thì cũng là lúc ra đời kỳ phiếu thương mại. Người có kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán có thể bán cho các Ngân hàng dưới hình thức chiết khấu. Ngân hàng mua kỳ phiếu với giá bằng hiệu số giữa mệnh giá ghi trên kỳ phiếu trừ đi lãi, hoa hồng và các chi phí khác. Như vậy, sau khi chiết khấu Ngân hàng trở thành chủ kỳ phiếu và khi đến hạn thanh toán ghi trên kỳ phiếu ngân hàng đem xuất trình con nợ đòi thanh toán. Xét về bản chất kinh tế, việc mua kỳ phiếu của ngân hàng thực chất là ngân hàng cho chủ kỳ phiếu vay tiền và tỷ lệ chiết khấu chính là lãi suất tiền vay. Quan hệ mua bán kỳ phiếu với Ngân hàng gọi là hình thức tín dụng chiết khấu. Hình thức này chủ yếu phục vụ cho các nhà xuất khấu, thực chất của nó là cấp tín dụng ngắn hạn cho người bán trong trường hợp người bán chưa thu được tiền bán hàng mà nhu cầu chi tiêu mua bán của người cung cấp hàng hoá lại phát sinh. * Tín dụng nhận trả: Tín dụng nhận trả là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng nhận trả tiền thay cho người phát hành kỳ phiếu khi đến hạn trả nhưng người phát hành kỳ phiếu không có khả năng trả nợ. Vì thế người phát hành kỳ phiếu phải mất một tỷ lệ hoa hồng “ nhận trả ’’ cho Ngân hàng. Ngân hàng cũng thể đem kỳ phiếu này đi chiết khấu tại Ngân hàng khác. Thực chất của loại tín dụng này là hình thức cấp vốn ngắn hạn bổ sung vào vốn lưu động cho người vay. Tín dụng nhận trả cũng có vai trò tương tự tín dụng vãng lai vì nó cũng thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp các hoạt động này không phải gián đoạn do thiếu vốn lưu động. * Tín dụng cầm đồ: Đây là loại hình thức cho vay có thể chấp bằng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay. Tuy nhiên, tài sản thế chấp ở đây lại chỉ là các loại động sản dễ tiêu thụ như vàng bạc, đá quý… Tín dụng cầm đồ được dùng để cấp phát cho lĩnh vực lưu thông, chủ yếu cho vay thời vụ, số lượng cho vay thường bằng 60% đến 70% giá trị của tài sản đang đi cầm. * Tín dụng trả nhiều lần: Tín dụng trả nhiều lần là loại hình thức tín dụng mà điều kiện được hoàn trả được phân ra thành kỳ hạn trả nợ, mỗi kỳ hạn được trả một phần cho đến khi hết hạn cả gốc lẫn lãi. Người đi vay thoả thuận với Ngân hàng mức cho vay,
  9. kỳ hạn trả nợ từng lần và kỳ hạn cuối. Trong loại hình tín dụng này, Ngân hàng không những cho vay để mua sắm các tài sản lưu động các bất động sản mà còn cho vay để mua hàng tiêu dùng, sinh hoạt. Nói chung, hình thức tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay vừa kính thích tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng. * Tín dụng bảo lãnh: Tín dụng bảo lãnh là hình thức tín dụng phát sinh khi Ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hoặc người bảo lãnh không có khả năng thanh toán. Ngân hàng thu mức phí bảo lãnh bao nhiều tuỳ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. * Tín dụng thuê mua: Hình thức tín dụng này nhằm mục đích cấp vốn cho doanh nghiệp để đổi mới tài sản cố định dưới hình thức cho thuê, bán trả từng phần các máy móc, thiết bị cho các doanh nghiệp. Loại hình thức tín dụng này rất thuận lợi đối với các doanh nghiệp sản xuất vì họ có thể thay đổi máy móc thiết bị cũ bằng các công nghệ tiên tiến mà không cần đầu tư số vốn ban đầu khá lớn cho công nghệ đó. Sau khi hết thời hạn cho thuê, doanh nghiệp hay người đi thuê phải trả lại các tài sản đó hoặc có thể mua lại. Thời hạn thuê phổ biến là trung, dài hạn 1.1.3. Vai trò tín dụng Ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của ngân hàng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền nhàn rỗi vào quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với quá trình vận động liên tục của vốn. Ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế khác nhau, mục tiêu chiếm lược kinh tế xã hội khác nhau cho nên vai trò tín dụng thể hiện và có định hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là hoàn thiện trong việc cải cách các thể chế đất nước để thu hút đầu tư nước ngoài đang có xu hướng suy giảm trong thời gian gần đây. Điều đó cho thấy, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. 1.1.3.1. Đối với các doanh nghiệp Các doanh nghiệp gặp phải một căn bệnh là thiếu vốn đặc biệt là thiếu vốn để phát
  10. triển sản xuất. Nền kinh tế không ngừng vận động, hàng hoá sản xuất ngày càng nhiều và nhu cầu con người không ngừng nâng cao. Một DN nuốm tồn tại và phát triển thì phải nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó. Như vậy, DN phải không ngừng đổi mới, mạnh dạn đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất hay để xâm nhập vào thị trường mới. Tuy nhiên, để làm được điều này, cần huy động một khối lượng vốn nhất địch, hoặc DN có thể tự tích luỹ qua lợi nhuận để lại nhưng thời gian tích luỹ quá lâu, làm mất thời cơ kinh doanh. Hơn nữa, khi chậm đổi mới có nghĩa là lợi nhuận không còn. DN có thể huy động vốn trên thi trường chứng khoán hoặc là vay vốn NH. Đối với NH, việc vay vốn từ NH đổi khi đem lại nhiều thuận lợi hơn so với việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Về mặt kỳ hạn, DN có thể vay vốn NH theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh. Thủ tục thời gian thì nhanh chóng và ít phức tạp, hơn nữa không công ty nào cũng được quyền bán trái phiếu, cố phiếu của mình trên thị trượng chứng khoán, nhất là công ty mới thành lập hay quá nhỏ, chưa có tiếng tăm. Ngoài ra với khoản vay trung và dài hạn tại NH, vừa giúp NH thực hiện chiến lược kinh doanh đem lại lợi tức cho DN mà không gia tăng sự kiểm soát của người bên ngoài đối với hoạt động kinh doanh của DN như trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Mặc dù, có nhiều thuận lợi như vậy nhưng lãi suất trung và dài hạn của NH là chi phí khá cao đối với DN. Nó buộc các DN phải nghĩ đến hiệu quả đầu tư, doanh thu đạt được không chỉ đủ trả vốn và lãi cho NH mà phải đem lại lợi tức cho mình. Dó vậy, lãi suất tín dụng của NH là đòn bẩy thúc đẩy DN khai thác triệt để đồng vốn để kinh doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh. 1.1.3.2. Đối với NHTM Hoạt động của Ngân hàng thượng mại trong cơ chế thị trường là hoạt động môi trương cạnh tranh gay gắt. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt này đòi hỏi mỗi NH phải thực hiện sự quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính mình. Vì vậy, hoạt động tín dụng được xem là sự cần thiệt để mang tính cạnh tranh của NH. Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường vận động trong điều kiện nền kinh tế mở với nhu cầu mở rộng quy mô, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiến tới đổi
  11. mới toàn bộ nền kinh tế đã cho thấy nhu cầu vốn trung – dài hạn là cấp thiết và quan trọng. Nguồn vốn này tạo điều kiện cho các DN đổi mới kỹ thuật, trang bị công nghệ mới, phương pháp sản xuất mới để tạo ra hàng hoá mới. Đây là điều kiện để NH mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, tín dụng trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi NHTM, đồng thời cũng là cách NH gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các DN. Vì vậy, tín dụng trung – dài hạn cần phải được tăng cường để các NH có thể tham gia nỗ lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thong qua nghiệp vụ này. Ngoài ra tín dụng còn là một nghiệp vụ mang lại lợi ích chủ yếu cho NHTM. Bời lẽ tín dụng là những khoản tín dụng có quy mô lớn, lãi suất cao, thời gian dài nên lãi thu sẽ lớn và ổn định. Chuyển từ nghiệp vụ của NH, đồng thời nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng. Khi Ngân hàng không đa dạng hoà hoạt động cho vay, đa dạng hoá khách hàng, thời hạn vay tiền thì Ngân hàng không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sự chèn ép đông đảo của Ngân hàng khác.Quan hệ tín dụng cũng có thể dẫn tới các hoạt động bảo lãnh do Ngân hàng thực hiện. Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh vay các Ngân hàng khác cho khác, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh khác cho khách hàng. Các hình thức bảo lãnh này đêm lại thêm lợi nhuận cho Ngân hàng. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả tín dụng đang là những vấn đề mà các Ngân hàng đều quan tâm nhằm đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng cũng như phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 1.1.3.3. Đối với nền kinh tế Hoạt động tin dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dần, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng làm nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thiếu vốn, từ những nhà tiết kiệm sang nhà đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế. Do tập trung được vốn và điều hoà cung cầu vốn trong nền kinh tế, tín dụng góp phần đầy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, thực hiện chuyển
  12. dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp-nông nghiệp - dịch vụ. Các khoản cho vay cung cấp cho ngành được thực hiện theo cả chiều sâu và chiều rộng, đầu tư có trọng điểm, hình thành các ngành sản xuất mũi nhọn, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác triết để các nguồn lực, tập trung phục vụ sản xuất. Nắm trong tay nguồn vốn lớn, lâu dài đã thúc đẩy tiến độ phát triển các công trình, các dự án, tạo được hiệu quả kinh tế bên vững, lâu dài góp phần thúc để tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Bên cạnh đó, các khoản cho vay có vai trò tạo nguồn vốn để thực hiện xây dựng mới, hiện đại hoá từng bước nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng, mẫu mã, đa dạng về tính năng của sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khấu, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia, cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Tín dụng ngân hàng có vai trò trong việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. NHTM luôn quản lý tín dụng bằng các quy định và chính sách của mình. NHTM đóng vai trò là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế ổn định lưu thông tiền tệ. Thông qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có thể quản lý và thực hiện các chương trình kinh tế lớn một cách có hiệu quả. Thực tế cho thấy, các chương trình kinh tế lớn đều được cấp vốn thông qua hệ thông các NHTM, hiệu quả được xét đến kỹ hơn và Chính Phủ cũng quản lý dễ dàng hơn các chương trình đầu tư này. Ngoài ra, Chính Phủ còn có thể hướng tín dụng ngân hàng và các ngành kinh tế mũi nhọn, phục vụ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá để các ngành này đi đầu, tạo cho sự phát triển kinh tế -xã hội đến đất nước. Hoạt động tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quốc gia luôn gắn liền với thi trường thế giới. Tín dụng trở thành nhịp cầu nối liền quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau bằng các hoạt động tín dụng quốc tế như: Các hình thức tín dụng giữa các Chính Phủ, giữa cá nhân, các hình thức tài trợ, cho vay không hoàn lại của Chính Phủ các nước. 1.2 Chất lượng tín dụng Ngân hàng 1.2.1 Khái niệm Trên con đường hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển nói
  13. chung, các nước Đông Nam A nói riêng, chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ luôn là sự quan tâm của nhà đầu tư lẫn những người tiêu dùng. Vấn đề này và đang là một thách thức hết sức to lớn đối với các nhà kinh doanh của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam và Campuchia. Một trong những con đường chiến lược tốt nhất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp là nâng cao chất lượng sản phẩm, song để thực hiện được vấn đề này lại là một công việc không đơn giản chút nào, đòi hỏi sự nhìn nhận và quan tâm không chỉ những người quản lý mà con là những vấn đề có liên quan đến tất cả mọi người trong xã hội. Đối với ngân hàng - một doanh nghiệp đặc biệt, sản phẩm của nó là “ tiền tệ “ và cung cấp các dịch vụ về tiền tệ khác với các ngành sản xuất khác.Trong hoạt động quan trọng nhất mang lại 90% thu nhập cho Ngân hàng là hoạt động tín dụng và là cơ sở phát sinh các nhiệm vụ khác trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nhưng nó cũng chính là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng.Các rủi ro Ngân hàng không những trong chọn khách hàng mà còn tư phía khách hàng gây ra. Trong hoạt động khi khách hàng không thực hiện theo đúng trong thoả thuận với Ngân hàng trong việc trả nợ do các điều kiện khác nhau như:thiên tai, hoả hoạn, sự biến động về tỷ giá… dẫn đến những tồn thất cho người vay gây rủi ro cho Ngân hàng. Như vậy, muốn hoạt động an toàn, sinh lợi và tăng khả năng cạnh tranh Ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín đụng và cả chất lượng các dịch vụ khác của Ngân hàng để đảm bảo tính cạnh tranh an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả gốc lẫn lãi của các doanh nghiệp. Bởi vậy, đối với Ngân hàng, chất lượng tín dụng đi liền với độ an toàn của vốn vay và việc hoàn trả đẩy đủ, đúng thời hạn gốc và lãi vay của khách hàng khi hết hợp đồng tín dụng.Đối với khách hàng, khoản tín dụng được đánh giá là có chất lượng cao khi khoản tín dụng đó đáp ứng được về khối lượng vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đáp ứng được nhu cầu vốn doanh nghiệp cả mặt không gian và thời gian, giúp doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận đủ để trả lãi cho khoản vay và được tăng giá trị tài sản sở hữu cho chủ doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các chủ thể kinh tế đều đang hoạt động trong
  14. môi trương kinh tế có sự điều tiết và quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuy vậy, chất lượng tín dụng không chỉ đánh giá bởi hai chủ thể là Ngân hàng và các khách hàng mà còn đánh giá từ phía Nhà nước. Đối với Nhà nước, khoản tín dụng được đánh giá là có chất lượng khi nó đáp ứng được các mục tiêu chung của Nhà nước cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Chẳng hạn như, các khoản tín dụng mà Ngân hàng cung cấp sẽ góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao cơ sở hạ tầng, giảm ô nhiễm môi trường, tăng phúc lợi xã hội 1.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng a) Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Đây là một chỉ tiêu có tính tư tượng, nó phán ảnh tín dụng phục cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giảm thiếu lạm phát giải quyết công ăn việc làm. Đó là những yếu tố quyết định cho sự tăng trương kinh tế b) Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra (cho vay) phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, phải dựa trên cơ sở những dự án khả thi (cả về mặt kinh tế và xã hội) của khách hàng. Trên cơ sở đó phải đảm bảo vê lãi suất và thời hạn hợp lý, về thủ tục đơn giản thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng những vẫn không vi phạ m nguyên tắc tín dụng. c) Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng thế hiện phạm vi và mực độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng. thể hiện ở tình hình thu nợ, nợ quá hạn, nợ khó đòi.Ngân hàng phải đảm bảo được kết quả kinh doanh, tính cạnh tranh làng mạnh trên thị trường nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi xem xét, đánh giá một khoản tín dụng có chất lượng tốt, xấu hay trung bình có rất nhiều quan điểm khác nhau, theo quan điểm của nhà quản lí NHTM thường dựa trên hai chỉ tiêu: khả năng thu hồi vốn và khả năng có lãi cho Ngân hàng. 1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định lượng a) Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có ( tỷ lệ an toan vốn tối thiếu) Tỷ lệ vốn tự có Vốn tự có = Tổng tài sản có rủi ro trên tổng tài sản có Trong đó:
  15. Vốn tự có được xác định gồm hai phần: vốn điều lệ của ngân hàng và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. -Tổng tài sản có rủi ro: là các loại tài sản có của ngân hàng đã được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản ( bao gồm cả các cam kết ngoài bảng của Ngân hàng ).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản có tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước, từng thời kỳ phát triển khác nhau, phán ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng. - Vốn tự có của Ngân hàng liên quan tới các khoản rủi ro dự đoán. Về cơ bản, một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác định quy mô vốn tự có. Ngân hàng có thể tăng vốn khi rủi ro sự đoán gia tăng hoặc có thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro hơn. Việc quyết định quy mô của ngân hàng không dễ dàng, nhưng quan trọng, một ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng sở vốn, đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định. Phần lớn các NHTM trên thế giới có tỷ lệ vốn trên tổng tài sản có đạt 7- 10% và được điều chỉnh theo mức độ rủi ro RATA(Rick Adjusted Total Assets). Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có đã điều chỉnh theo mức độ rủi ro lớn hơn 10% là chỉ số tốt. Tỷ lệ này thấp hơn quy định có thể Ngân hàng phát triển nhanh do thua lỗ hay thu nhập thấp trong một thời kì nào đó. b) Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất Tổng dư nợ cho vay = Tổng nguồn vốn huy động x 100% sử dụng vốn Đây là một trong những công cụ đo lường đáng tín cậy về hoạt động vay của Ngân hàng. Hệ số này xác ðinh hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động, nó giúp phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng vốn tổng vốn huy động được, tỷ lệ này bình quân thường là 80%. Tuy nhiên tỷ lệ nạy biến đối từ 30% trong những khu vực kinh tế trì tệ đến 100% tại các trung tâm tiền tệ lớn hay các Ngân hàng khu vực. Tỷ lệ tổng dự nợ cho vay trên nguồn vồn huy động thấp, giả sử dưới 40% thì điều đó có nghĩa là Ngân hàng không tìm kiến được nhiều khách hàng và dự án vay vốn có hiệu quả hoặc Ngân hàng dè dặt trong hoạt động cho vay của mình. c) Tỷ lệ nợ quá hạn
  16. Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thành toàn khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay. Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ không hoàn hảo, trước hết nó vi phạm đặc điểm của tín dụng đó là thời hạn, tính hoàn trả và lòng tin của người cấp tín dụng đối với người nhận tín dụng Tổng số dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ cho vay Về cơ bản, tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu phán ánh các khoản tín dụng có vấn đề- những khoản cho vay quá hạn mà Ngân hàng không thu hồi được.Mặc dù các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yếu tố khác nhau, nhưng về cơ bản chúng là hậu quả của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc không có khả năng thực hiện hợp đồng để giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản vay như đã thoả thuận, cá biệt có âm mưu chiếm dụng vốn. d) hu nhập từ tiền lãi ròng cho vay Tiền lãi ròng cho vay là khoản thu nhập cao nhất của Ngân hàng, được xác định bở i + Thu nhập trực tiếp từ lãi suất cho vay + Chi phí lãi phải trả cho tất cả các loại tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi và tiền vay trực tiếp Thu nhập từ tiền lãi ròng cho vay là tỷ lệ được tính trên tổng dư nợ cho vay. Thu nhập trực tiếp Chi phí lãi - phải trả Thu nhập từ tiền từ lãi cho vay = x 100% lãi ròng cho vay Tổng dư nợ cho vay Thông thường có thể xác định chỉ tiêu này theo cách đơn gian, tính toán trực tiếp chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động vốn bình quân của mỗi Ngân hàng. Tỷ lệ này phán ánh hiệu quả về mặt tài chính của hoạt động cho vay và thông qua nó sẽ cho ta thấy khả năng tạo ra thu nhập từ hoạt động cho vay của mỗi Ngân hàng. Ðối với mỗi ngân hàng, tỷ lệ này phán ánh ở mức 4-5% /năm mới đảm bảo bù đắp
  17. được các chi phí hoạt động, trích lập quỹ để bù đắp các rủi ro phát sinh và có được mức lợi nhuận tương xứng trong hoạt động.Theo kinh nghiêm, Ngân hàng nào có tỷ lệ thấp hơn 3% là có dấu hiệu đang gặp phải khó khăn trong. e) Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu Hệ số sinh lời Lợi nhuận vốn chủ sở hữu = Vốn tự có của ngân hàng Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu cho biết một ðồng vốn của ngân hàng bỏ thu được bao nhiều lợi nhuận, hay nói cách khác nó nói lên khả năng sinh lời của Ngân hàng. Nếu hệ số sinh lời trên vốn chủ sở hữu lớn biểu hiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tạo ra nhiều lợi nhuận, chất lượng tín dụng cao do hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu và tạo ra nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược lại, nếu tỷ lệ này thấp biểu thi hoạt động của Ngân hàng không hiệu quả, chất lượng tín dụng. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu định tính Tín dụng là một trong những hoạt động mang lại thu nhập chủ yêu cho các NHTM, song không phải tất cả các NHTM đều thực hiện tốt hoạt động này. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong việc không thể tìm được dự án thích hợp cho vay hoặc gặp khó khăn trong huy động vốn. Vì vậy việc xem xét chất lượng hiệu quả tín dụng trung và dài hạn là hết sức cần thiết, nó giúp ngân hàng có thể đánh giá lại hoạt động cho vay của mình từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay. Để đánh giá chất lượng tín dụng đứng trên giác độ là một nhà ngân hàng chúng ta phải xem xét cả những chỉ tiêu về mặt định tính và định lượng. Về mặt định tính, các chỉ tiêu được thể hiện quả một số khía cạnh sau. - Chất lượng tín dụng được thực hiện thông qua khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, thủ tục đơn giản, thiên tiện, cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn, kỳ hạn và phương thực thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng. - Những ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, cơ sở vật chất trang thiết bị tốt, đồng thời ngân hàng tham gia vào nhiều hình thức huy động vốn, đa dạng hoá không
  18. ngừng ứng dụng các dịch vụ ngân hàng mới. Ngân hàng có tổng nguồn vốn huy động lớn, ổn định có lượng khách hàng vay đông đảo chứng tỏ ngân hàng có uy tín. - Ngoài ra chất lượng tín dụng còn được xem xét thong qua hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng, tình hình khai thác tiềm năng ủa Ngân hàng trên địa bàn hoạt động. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hướng tới chất lượng tín dụng ngân hàng Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nước, từng NHTM mà có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến chất lượng tín dụng Ngân hàng. Chúng ta có thể chia các yếu tố ảnh hướng tới chất lượng tín dụng ngân hàng làm 2 loại: các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan. 1.2.3.1 Nhân tố chủ quan Chính bản thân Ngân hàng có liên quan đến hoạt động tín dụng và ảnh hướng trực tiếp tới chất lượng tín dụng từ những góc độ khác nhau được thể hiện qua: a) Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Là một trong những nhân tố có ảnh hướng lớn tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chiến lược kinh doanh sẽ giúp cho Ngân hàng có mục đích và đường lối đúng đắn. Nếu không có chiến lược kinh doanh, tất cả các moi hoạt động của ngân hàng sẽ trở nên bị động, chệch hướng. Trên cơ sở chiến lược kinh doanh đúng đắn, Ngân hàng sẽ có kế hoạch cụ thể trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo thực hiện đúng những mục tiêu đã để ra, nhất là những kế hoạch ảnh hướng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. b) Vấn đề chính sách tín dụng Ngân hàng: Đây là một vấn đề đóng vai trò quan trọng và là yếu tố bao trùm có tác động mạnh mẽ đảm bảo sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Một chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán và hạ thấp rủi ro, tuân thủ pháp luật của Nhà nước,sẽ là sự tín cậy của nhân dần về tính công bằng trong xã hội. Đối với vấn đề này các Ngân hàng cần thực hiện việc quản lý một cách thống nhất các hoạt động tín dụng theo sự phát triển của cơ chế thị trường bằng các công cụ kinh tế có chiến lược. Định hướng sắp xếp mọi hoạt động kinh doanh một cách nghiêm chỉnh với uy
  19. tín vàn độ tín cậy cao nhắm tạo ra những điều kiện thuận lợi về tín dụng và thanh toán cho khách hàng, thực hiện tốt chiến lược Marketing ngân hàng về lãi suất hợp lý và mang tính cạnh tranh cao. Từ đó, ta thấy rằng chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng NHTM. Do vậy, bất cứ một NHTM nào muốn có chất lượng tín dụng thì phải xác lập cho mình một chính sách tín dụng rõ ràng, hợp lý phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế. c) Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng là những công đoạn mà Ngân hàng liên tục thực hiện trong quá trình cho vay, phải tiến hành từ khi bắt tiếp nhận hồ sơ vay vốn, giải ngân, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay cho đến khi thu hồi được nợ Trong đó tất cả các công đoạn thuộc chức năng trách nhiệm của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan phải thực hiện. Quy trình tín dụng là một yếu tố quan trọng để thực hiện chính sách tín dụng của một tổ chức tín dụng, là sản phẩm của chuyển môn hoạt động Ngân hàng. Trong quy trình tín dụng thì công tác thẩm định là khâu quan trọng nhất giúp cho người có thẩm quyền đưa quyết định đầu tư một cách chuẩn xác hơn. Quá trình này đòi hỏi cán bộ phải có sự hiểu biết và vận đụng một cách toàn diện các điều kiến thức về kinh tế xã hội, phải áp dụng các biện pháp tính toán kỹ thuật và so sánh,thời phải nắm bắt cả diện biến kinh tế, xã hội, chính trị của khu vực và thế giới. Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế ở từng địa phương, từng khách hàng và từng dư án. Để đảm bảo cho một khoản tín dụng, việc kiểm tra trước hay kiểm tra sau khi cho vay giúp Ngân hàng nắm được diễn biến của khoản tín dụng đã cung cấp, từ đó có những can thiếp, điều chỉnh hay ngăn ngừa những rủi ro có thể xẩy ra. Như vậy, chất lượng tín dụng có đảm bảo hay không là tùy thuộc vào việc thực hiện tốt không những quy định ở từng bước và sự phối hợp giữa các bước trong quy trình. d) Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đừa ra những quyết định cần thiết để cho vay, quản lý, theo dõi và thu nợ. Các thông tin được thu nhập từ nhiều phía. - Từ nguồn có sắn ở ngân hàng: Hồ sơ vay vốn, thông tin từ ngân hàng Nhà nước giữa các NHTM, các tổ chức tín dụng khác …
  20. - Từ nguồn bên ngoài: từ khách hàng, từ các cơ quan thông tin trong trong và ngoài … Số lượng và chất lượng thông tin thu nhập được có liên quan đến mức độ chính xác của việc phân tích, xem xét thị trường, khách hàng …, để đừa ra những quyết định đúng. Do vậy, thông tin càng đẩy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn diện thì khả năng phòng ngừa rửi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. e) Kiểm tra kiểm toán nội bộ: Kiểm toán, kiểm tra nội bộ là một biện pháp giúp cho ban lãnh đạo Ngân hàng có những thông tin về thực trạng kinh doanh đang vận hành phù hợp với các chính sách, đạt được những mục tiêu đề ra. Trong lĩnh vực tín dụng công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ Ngân hàng được thực hiện: - Kiểm soát chính sách tín dụng: Hồ sơ, thủ tục cho vay, quyền phán quyết quản lý và giảm sát các khoản vay. - Kiểm tra định kỳ hoặc thường xuyên do kiểm tra viên nội bộ thực hiện báo cáo những vi phạm chính sách, hồ sơ hay kiểm soát hạch toán kế toán và các nghiệp vụ có liên quan đến tình hành cho vay và thu nợ. Việc phát hiện kịp thời những nguyên nhân sai sót, vi phịm quy trình thực hiện những khoản tín dụng có biện pháp khắc phục kịp thời, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Do vậy trong hoạt động tín dụng các NHTM cần phải quan tâm đến công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ, đồng thời cũng phải có sự bố trí hợp lý bộ máy làm việc cán bộ phải thành thạo về nghiệp vụ, trung thực, có chính sách thưởng phát nghiêm minh cả về hành chính và vât chất. g) Công tác tổ chức, chất lượng cán bộ của ngân hàng: Chẳng khác gì với quá trình sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác, con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại, trong quản lý vốn tín dụng và hoạt động của Ngân hàng. Vì vậy, công tác tổ chức của Ngân hàng phải được sắp xếp một cách khoa học rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng
nguon tai.lieu . vn