Xem mẫu

  1. Tiểu luận: Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
  2. I. Đặt vấn đề Hồ Chí Minh là mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam ở thế kỷ XX. Người đó để lại những dấu ấn đặc biệt sâu đậm trong tiến trỡnh phỏt triển của cỏch mạng Việt Nam, trong hệ thống quan điểm của Người, cần đặc biệt nhấn mạnh tới tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội. Như trong báo cáo chính tr ị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IV (1976) đó nhấn mạnh: "Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của cách mạng Việt Nam" (1). Với đường lối cơ bản ấy, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược và sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi nói về tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hội đồng xuất bản bộ Hồ Chí Minh toàn tập đã viết:"Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩ a xã hội là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam... Chân lý độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời n hau trong tư tưởng Hồ Chí Minh được cách mạng Việt Nam vận dụng thành công đã khẳng định đó cũng là chân lý của thời đại. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một đóng góp của cách mạng Việt Nam vào kho tàng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại hiện nay"(2). Từ đó, chúng ta thấy rằng đây là bài học, kinh nghiệm thuộc lĩnh vực lý luận, tư tưởng. Nó là cơ sở để xác định đường lối cách mạng đúng đắn, là nguồn gốc tạo ra sức mạnh chiến thắng và thực sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Vậy để hiểu rõ Đảng ta - đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh - đã xác định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội xuất phát từ những c ơ sở nào và Đảng ta đã thực hiện mục tiêu này trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào. (1) Bỏo cỏo chớnh trị tại Đại hội Đảng lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.183. (2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.11.
  3. Tôi chọn vấn đề: Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội trong quỏ trỡnh lónh đạo cách mạng Việt Nam để làm nội dung nghiên cứu. II. Nội dung 1. Những cơ sở để Đảng ta xác định mục tiêu đ ộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Tư tưởng độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc bằng cách mạng theo con đường cách mạng vô sản, hướng tới mục tiêu, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đã được hình thành ở Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm 20 của thế kỷ XX khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp cận ảnh hưởng của cách mạng Tháng Mười và thời đại mới. Trước hết dựa vào lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đã nêu bật vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, trong đó nhấn mạnh giai cấp vô sản phải làm cách mạng để đánh đổ giai cấp tư sản; giai cấp vô sản không chỉ giải phóng giai cấp mình mà còn giải phóng dân tộc, giải phóng toà n thể nhân loại ra khỏi áp bức bóc lột. Sau đó, Lênin đã tiếp tục kế thừa và phát triển quan điểm của Mác và Ăngghen. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công để có đời sống hạnh phúc trọn vẹn. Lợi ích cơ bản đó là cơ sở để thực hiện khẩu hiệu: "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Giai cấp công nhân luôn luôn có hai nghĩa vụ là giải phóng dân tộc mình và giải phóng thế giới. Hai cuộc giải phóng ấy có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau, nhưng giải phóng dân tộc phải đặt lên trên hết. Độc lập dân tộc thực chất là vấn đề dân tộc, chủ nghĩa xã hội thực chất là vấn đề giai cấp của giai cấp công nhân. Chính lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã phát hiện hai nhiệm vụ giải phóng này vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Qua quá trình khảo nghiệm thực tiễn, Người đã ối "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta
  4. muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"(1). Cũng như vậy, cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính quốc và thuộc địa giống như hai cánh của một con chim, một cánh vỗ ở thuộc địa, một cánh vỗ ở chính quốc. Đây là những luận điểm tỏ rõ trực tiếp nhất quan điểm chính trị của Người trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Cơ sở thứ hai xác định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội xuất phát từ tính chất, nội dung và xu thế của thời đại. Từ sự thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng M ười Nga vĩ đại đã mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Lênin và tiếp thu t ư tưởng cách mạng Tháng Mười, từ đó ở Người đã hình thành con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa, đó là con đường cách mạng vô sản. "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Người còn nói: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới... và muốn cứu n ước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Cơ sở thứ ba để xác định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được dựa trên lý thuyết về cách mạng không ngừng của Lê nin. Đặc biệt, Lênin bàn sâu về cách mạng ở các nước chậm phát triển. Các nước này phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến hành những nhiệm vụ dân chủ cần thiết để chuyển lên chủ nghĩa xã hội. Khi nói về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Lênin cũng khẳng định: từ những điểm xuất phát khác nhau và bằng những con đường khác nhau, các dân tộc tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên con đường ấy không phải con đường phẳng, mà quanh co rồi cuối cùng tất yếu đi đến chủ nghĩa xã hội. Trong cuốn "dưới lá cờ vẻ vang của Đảng" cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã viết: Sự kết thúc của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh điều đó. (1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, tr.416.
  5. Cơ sở thứ tư để xác định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã trở thành thuộc địa của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp. Lúc này vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc ở Việt Nam đã trở thành một vấn đề có tính chất sống còn đối với vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Kẻ thù của dân tộc lúc này là thực dân đế quốc xâm lược, dân tộc Việt Nam phải đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục chủ quyền quốc gia. Thực tế lịch sử lúc đó, xã hội Việt Nam đã rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, tình hình đen tối như không có đường ra. Trong bối cảnh ấy, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc rất khâm phục các bậc tiền bối nh ư Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng Người không hoàn toàn tán thành nh ững chủ trương cứu nước của họ. Bởi vì, đường lối cứu nước của cụ Phan Bội Châu muốn cầu viện và dựa vào Nhật để đánh Pháp. Còn cụ Phan Chu Trinh với đường lối cải lương, ảo tưởng muốn dựa vào Pháp để chấn hưng kinh tế và dân trí để làm cho dân tộc phú cường và độc lập. Vượt qua tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu n ước cùng thời, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đ úng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản. Người nhấn mạnh: muốn có độc lập dân tộc thì phải giải phó ng dân tộc bằng cách mạng vô sản. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam vấn đề nổi bật nhất là giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giai cấp với dân tộc. Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ này phù hợp vớ i hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Điều đó được thể hiện những điểm sau đây: Thứ nhất, Người đặt vấn đề giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc trong mối quan hệ khăng khít không tách rời nhau và cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội là để giải phóng con người, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân các dân tộc trên thế giới. Thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc để tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện độc lập dân tộc để tiến tới chủ nghĩa xã hội.
  6. Thứ hai, trong hoàn cảnh nước ta là thuộc địa của thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc thực dân trở nên gay gắt, nên nhiệm vụ hàng đầu là phải giải quyết mâu thuẫn dân tộc. Có giành được độc lập cho dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc để đi tới giải phóng giai cấp. Chính vì vậy, trong chính cương vắt tắt, sách lược vắt tắt (năm 1930) lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc - dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). 2. Quá trình thực hiện mục tiêu đ ộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam a) Thời kỳ 1930-1945: Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ vận động thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngay từ kh i mới ra đời, Đảng ta đã xác định đường lối giương cao hai ngọn cờ trong luận cương chính trị là: cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn, trước hết là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó chuyển thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và nhằm mục đích cuối cùng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong thời kỳ cả nước tiến hành chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tr ước hết là sự thực hiện đúng đắn mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách mạng đó. ở thời kỳ này, nhiệm vụ trực tiếp là nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ mà mục tiêu chủ yếu là độc lập dân tộc, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa là ph ương hướng tiến lên, mục tiêu chủ nghĩa xã hội là định hướng. Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử lúc đó nước ta có cả mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc. Đảng ta đã từng bước nhận thức được mâu thuẫn dân tộc
  7. là chủ yếu, lợi ích giai cấp đặt dưới lợi ích dân tộc. Kẻ thù chủ yếu của dân tộc ta lúc này là đế quốc thực dân Pháp. Đến năm 1940 khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương thì dân tộc ta chịu cảnh "một cổ hai tròng", nhân dân ta phải đối đầu với hai kẻ thù là đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Còn mâu thuẫn giai cấp ở nước ta lúc đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến đối với quần chúng nông dân, địa chủ phong kiến là đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. ở đây kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp, tức đế quốc và phong kiến cấu kết với nhau để duy trì ách thống trị. Do vậy cách mạng dân tộc dân chủ phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ đó là chống đế quốc để giành độc lập dân tộc và chống phong kiến để giành ruộng đất cho dân cày. Đó là hai nhiệm vụ cơ bản, không tách rời nhau của chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ. Xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước công nghiệp, nông dân chiếm h ơn 90% số dân. Chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân ta, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện vọng thống nhất của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Nhiệm vụ của cách mạng vừa phải đánh đổ địa chủ, vừa phải đánh đổ đế quốc thực dân, giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân là nội dung c ơ bản của cách mạng dân chủ, đồng thời cũng là yêu cầu của chính sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng", Đảng ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai c ấp công nhân, động viên được các tầng lớp nhân dân khác cùng với công nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến. Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến l ược đó đã được cụ thể hóa bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả năng phân hóa hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hiểm trong từng thời điểm nhất định. Song dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng ta đề ra, về cơ bản đã bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, đều đã gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
  8. Từ năm 1930 đến năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã diễn ra liên tiếp với các sự kiện tiêu biểu nh ư cao trào cách mạng 1930-1931, cao trào dân chủ 1936-1939 và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 -1945. Trải qua các phong trào đấu tranh đó, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh với đường lối chiến lược đúng đắn và có những sách lược cụ thể, phù hợp để phục vụ cho việc thực hiện chiến lược cách mạng thắng lợi. Với sự kiện ngày 2 -9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã là một bằng chứng hùng hồn minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta trong việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở n ước ta. b. Thời kỳ 1945-1954: Sau khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, dân tộc ta hân hoan đón độc lập tự do và hạnh phúc nhưng niềm vui đó đã bị thực dân Pháp vì chúng quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để ngăn chặn cuộc chiến tranh do thực dân Pháp gây ra nh ưng nhân dân ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới. Thấy rõ dã tâm của thực dân Pháp Đảng ta đã từng bước tranh thủ thời gian hòa hoãn để hoàn tất các công việc chuẩn bị về mọi mặt, trọng tâm là chuẩn bị đường lối kháng chiến và tăng cường thực lực cách mạng. Mục tiêu của cách mạng lúc này vẫn là giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, vì thế khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta lần thứ hai toàn thể dân tộc ta đã nhất tề đứng lên tiếp tục làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ này mặc dù toàn Đảng, toàn dân cùng dốc sức để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, nhưng mục tiêu chủ nghĩa xã hội cũng đã từng bước được đặt ra. Lúc đó Đảng ta chưa nói thẳng là thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội nh ưng ý tưởng về chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện. Ngay sau cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm vô cùng quan trọng để hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nói: "Nếu nước độc lập rồi mà dân không h ưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì", "Nước độc lập mà dân cứ chết đói chết rét thì độc lập mà làm
  9. gì"... Chỉ bằng những câu nói rất mộc mạc nh ưng Người đã nêu bật được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người còn nói "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có ba điều kiện: đất kỹ nghệ phát triển, đất nông nghiệp phát triển và con người được phát triển đầy đủ tài năng của mình"... Đến năm 1951 cùng với những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên các chiến trường cả nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập. Trong báo cáo chính trị của Đại hội đã thể hiện sự hoàn chỉnh nhận thức lý luận và tên gọi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thay cho tên gọilà cuộc cách mạng t ư sản dân quyền hay cách mạng giải phóng dân tộc. Đây cũng là lần đầu tiên Đảng ta nhận rõ và trở lại đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhận thức mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, coi nhiệm vụ chống phong kiến là đồng thời nhưng không nhất loạt ngang nhiệm vụ chống đế quốc. Chống phong kiến phải rải ra và phục tùng yêu cầu tập hợp lực lượng chống đế quốc. Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, Đảng ta cũng đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ dân chủ, bởi vì kháng chiến và kiến quốc là t ư tưởng xuyên suốt của Đảng, vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước, bồi dưỡng sức dân. Khi cuộc kháng chiến càng phát triển tiến đến giai đoạn tiến công và phản công, Đảng và Chính phủ đã từng bước tiến hành cải cách ruộng đất, tiếp tục thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng ngay trong chiến tranh. Chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất đã đáp ứng nguyện vọng của nông dân. Với các chủ tr ương giảm tô 25%, giảm tức, vận động những địa chủ, phú nông có nhiều ruộng hiến điền và tiến tới đánh thuếệnn theo lối lũy tiến. Từ n ăm 1952, Đảng ta đã từng bước đánh vào kinh tế, làm giảm uy thế bóc lột, mang lại quyền lợi kinh tế cho nông dân, nâng cao uy thế chính trị của giai cấp nông dân ở nông thôn. Đây là một chủ trương độc lập, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã nhìn rõ mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến trong cách mạng Việt Nam. Trên thực tế, kinh tế trong kháng chiến chống Pháp đã có những mầm mống của kinh tế xã hội chủ nghĩa.
  10. Với đường lối lãnh đạo đúng đắn, với những sách lược phù hợp của Đảng ta đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn với chiến thắng lẫy lừng của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ - 1954. c. Thời kỳ 1954-1975: Từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai mi ền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên ch ủ nghĩa xã hội, miền Nam nằm d ưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng hai miền có tầm quan trọng đặc biệt. Sự kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện tập trung ở việc xác định nhiệm vụ mỗi miền và việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai miền h ướng tới mục tiêu chung của cách mạng cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (tháng 9 -1960) đã quyết định thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền B ăc,s cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai chiến l ược ấy có quan hệ mật thiết và tác động thúc đẩy lẫn nhau. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc có vị trí quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng cả nước, cách mạng miền Nam có vị trí quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam, cả hai miền đều nhằm mục tiêu chung là hoàn toàn độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Những hành động cách mạng của nhân dân miền Bắc có hai tác dụng: một mặt củng cố miền Bắc, đem lại cho nhân dân miền bắc đời sống ấm no, hạnh phúc; mặt khác tăng cường lực lượng, làm hậu thuẫn và chi viện cho cách mạng miền Nam. Những hành động cách mạng của nhân dân miền Nam cũng có hai tác dụng: đó là phá chính sách xâm lược và nô dịch của đế quốc Mỹ, làm suy yếu kẻ thù, giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai; đồng thời góp phần tích cực bảo vệ miền Bắc, bảo vệ căn cứ địa chung của cách mạn g cả nước, tạo điều kiện cho miền Bắc tiến hành thắng lợi sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do có sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam mà thế và lực cá ch mạng của nước
  11. ta nói chung và của miền Nam nói riêng không ngừng t ăng lên. Nhờ đó cách mạng miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả n ước để tiến công địch, sức mạnh đó ngày một nhân lên đủ sức đánh bại mọi chiến lược chiến tranh xâm lược của địch. Nắm vững mối quan hệ giữa hai chiến l ược cách mạng, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn nhiều mối quan hệ trong chiến tranh cách mạng, nh ư là quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa tiến công và bảo vệ... Từ thực tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã minh chứng cho vấn đề đó. Năm 1959, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Trước những hành động khủng dã man của đế quốc Mỹ và tay sai, nhân dân miền Nam thấy rõ, không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh một mất một còn với chúng. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 ra đời đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân miền Nam. Phong trào " Đồng khởi" ở Bến Tre và các nơi khác ở Nam Bộ đã tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược, cách mạng miền Na m đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang để tự vệ sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự. Còn ở miền bắc từ n ăm 1954 đến cuối năm 1960, đã tiến hành thắng lợi kế hoạch kh ôi phục và phát triển kinh tế. Từ n ăm 1961, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhân dân miền Bắc đã khắc phục được nhiều khó khăn, giành được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1961 đến năm 1965 Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ buộc chúng phải thay đổi chiến lược mới "chiến tranh cục bộ". Thực hiện chiến l ược này, chúng đưa quân viễn chinh và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến; đồng thời tiến hành phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Trước tình hình đó Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965) đã sáng suốt đánh giá đúng đắn so sánh lực lượng giữa ta và địch và chỉ ra những mâu thuẫn mới của chúng. Mặc dù chúng đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh thì lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Từ đó, Đảng quyết định giữ thế chủ động trên chiến trường, giữ vững thế chiến lược tiến công, kiên quyết tiến
  12. công, liên tục tiến công để làm thất bại chiến lược chiến tranh mới của địch. Trên thực tế cách mạng miền Nam đã liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ - Ngụy vào hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Đặc biệt ta đã nổi dậy đồng loạt tết Mậu Thân năm 1968, góp phần làm đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Còn ở miền Bắc, quân và dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ, bảo đảm huyết mạch giao thông từ Bắc vào Nam. Đến năm 1972, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom miền Bắc l ần thứ 2 và lại một lần nữa quân dân miền Bắc đập tan cuộc phản kích của địch. Cùng với thắng lợi của cuộc tiến công chiến l ược năm 1972 ở miền Nam đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa binh fở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Sau khi ký kết Hiệp định, nhưng đế quốc Mỹ vẫn lập ra nhiều kế hoạch chiến tranh hòng lấn chiếm vùng giải phóng. Tr ước tình hình đó, vào tháng 7 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã vạch ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cuối năm 1973, Hội nghị lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế và đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, ra sức chi viện miền Nam. Những thành tích khôi phục kinh tế miền bắc trong 2 năm 1973-1974 cộng với sự viện trợ quốc tế to lớn làm cho miền Bắc có khả năng chi viện ngày càng nhiều cho miền Nam, tạo điều kiện vật chất và tinh thần c ho quân dân ta hoàn toàn gi ải phóng miền Nam vào mùa Xuân năm 1975. Với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đ ã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ước, Đảng ta đã thể hiện thành công trong thực tiễn mối quan hệ mới rất phức tạp, đó là quan hệ giữa bảo vệ hòa bình và đấu tranh cách mạng. Thực tiễn chứng minh rằng hai mặt của quan hệ đó
  13. không đối lập nhau mà thực sự hỗ trợ cho nhau. Giương cao ngọn cờ hòa bình, cách mạng sẽ có thêm lực lượng và cách mạng thắng lợi là biện pháp quan trọng để bảo vệ hòa bình. Như vậy, với việc giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc ta giành được thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước. d. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay: Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm, non sông đất nước ta thu về một mối, cả nước được thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chủ trương tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ cả n ước tiến hành chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1975 đến năm 1986 dân tộc ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế quan liêu, bao cấp. Cơ chế quản lý này đã không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm n ăng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Mặt khác sau năm 1975, đế quốc Mỹ đã tìm cách lôi kéo các thế lực thù địch gây "diễn biến hòa bình" nhằm chống phá cách mạng n ước ta. Từ năm 1975 đến năm 1979 dân tộc ta đã phải đối phó với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc. Như vậy, lúc này Đảng ta lại tiếp tục giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc, vừa thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xuắt phát từ tình hình kinh tế - xã hội trong 10 năm đầu (từ sau giải phóng đất nước) xây dựng chủ nghĩa xã hội của cả n ước đã đặt ra đòi hỏi cấp thiết đối với Đảng ta là phải định ra được đường lối phù hợp hơn nữa để phát triển đất nước. Vì thế tại Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó điểm nổi bật là xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  14. Vậy từ năm 1986 đến nay cả nước ta tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ Đại hội VI, Đảng ta đã đổi mới nhận thức về thời kỳ quá độ và chủ nghĩa xã hội. ở n ước ta phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài trong đó chứa đựng nhiều chặng đường khác nhau. Về mô hình của chủ nghĩa xã hội cũng đã từng bước được nhận thức. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1991) đã nêu những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Đó là chế độ do nhân dân lao động làm chủ; là chế độ không có người bóc lột người, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện khả năng cá nhân (tuy nhiên trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải chấp nhận có bóc lột). Trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; các dân tộc trên đất nước Việt Nam đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Từ khi cả nước tiến hành công cuộc đổi mới, về quan niệm, về nội dung và mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm mới. Một là, bảo vệ lãnh thổ quốc gia, cảnh giác và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thôn tính, xâm lược của các thế lực phản động từ bên ngoài. Chỉ có giữ vững độc lập dân tộc mới có điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, mở mang dân trí, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh. Phải bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia chống mọi sự gây rối, lũng đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội. Bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và thành quả cách mạng đã giành được. Hai là, độc lập về chính trị, kiên định đường lối đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, không dao động, giáo điều hoặc áp đặt trước bất cứ sự thay đổi nào. Chỉ có độc lập về chính trị, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn n ước ta, đồng thời kết hợp với việc nắm chắc xu thế phát triển của thời đại thì Đảng ta mới định ra được đường lối đúng đắn để đưa đất nước đi lên.
  15. Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ thuộc trên c ơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự c ường, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa, gắn nền kinh tế nước ta với quá trình quốc tế hóa. Nếu nh ư phát triển đất nước chỉ dựa vào bên ngoài sẽ dẫn đến lệ thuộc cả về kinh tế và cả về chính trị. Mặt khác nếu tách ra khỏi xu thế chung thì sẽ không tránh khỏi tụt hậu xa h ơn về kinh tế. ở đây vấn đề độc lập không có nghĩa là đóng cửa, khép kín mà phải mở cửa thực hiện hợp tác song phương, đa phương, bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Có một nền kinh tế giàu mạnh sẽ là điều kiện quan trọng cho việc ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm tránh được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ giữ đ ược độc lập chủ quyền lãnh thổ, đưa đất nước phát triển. Bốn là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi lĩnh vực. Nếu để mất nền văn hóa dân tộc thì cũng mất luôn độc lập dân tộc. Muốn xây dựng được nền văn hóa tiên tiến thì phải luôn tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhưng không đánh mất giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Cần có sự giao lưu hòa nhập với quốc tế nhưng không có sự hòa tan. Như vậy, với 4 nội dung nêu trên đã thể hiện được quan điểm của Đảng ta: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu đó được thực hiện có hiệu quả h ơn bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và bằng
nguon tai.lieu . vn