Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005
  2. Lời nói đầu Lênin từng nói: “Không có thị trường bên ngoài thì một số nước tư bản chủ nghĩa không thể sống được”. Như vậy, vấn đề thị trường là một vấn đề quan trọng để phát triển sản xuất - kinh doanh và để phát triển nền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy, không một quốc gia nào thực hiện được mục tiêu đầy tham vọng là “độc lập kinh tế và xây dựng hoàn chỉnh nền kinh tế tự cung, tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài”. Bởi vì, không có một quốc gia nào dù là giàu mạnh đến đâu lại xây dựng một nền kinh tế vô cùng tốn kém về cả vật chất và thời gian như vậy. Xu hướng phát triển của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược từ đóng cửa sang mở cửa từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu. ở Việt Nam , xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc mở rộng xuất khẩu là phương tiện thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ để tạo tiền đề cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật cho nền kinh tế, khuyến khích sản xuất trong nước từ đó giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng nhanh chóng và hiệu quả trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để khắc phục các nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ngay từ Đại hội Đảng VI, Đảng ta đã khẳng định “xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội.... không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là điều kiện ban đầu không thể thiếu để triển khai công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” và trong Đại hội Đảng VIII đã khuyến khích và nhất quán thực hiện “Chiến lược hướng về xuất khẩu từ nay đếna năm 2005”. Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề và nhằm cung cấp những yếu tố chung nhất, nổi bật nhất đồng thời cố gắng tiếp cận vấn đề một cách toàn diện tôi đã lựa chọn đề tài: “Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam từ nay đến năm 2005”
  3. Đây là một đề tài rất rộng và có nhiều vấn đề rất phức tạp, do khả năng có hạn nên không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và những ai quan tâm tới đề tài. Nhân đây em cũng xin cảm ơn thầy giáo PGS - TS Nguyễn Duy Bột và các thầy, cô đã giúp em hoàn thành được đề tài này.
  4. Nội dung I. Tổng quan về chiến lược hướng xuất khẩu 1. Một số chiến lược phát triển kinh tế của các nước Các nước muốn thủ tiêu nền sản xuất lạc hậu và để khai thác tối ưu các nguồn lực, lợi thế... của mình, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thì phải xây dựng cho mình một chính sách kinh tế - xã hội hợp lý. ở Việt Nam, quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá. Quá trình công nghiệp hoá đã được các nước phát triển và các nước công nghiệp mới (NICs) thực hiện từ rất lâu và vào các giai đoạn khác nhau. Quá trình công nghiệp hoá đã được thực hiện thành công ở nhiều nước mà thanh công ở các nước đang phát triển là một ví dụ. Người đã khái quát thành hai mô hình chiến lược công nghiệp hoá và nội dung trọng tâm của mỗi mô hình có sự khác nhau và do đó kết quả cũng vì thế mà có sự tham gia. 1.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu Chiến lược thay thế nhập khẩu được thực hiện vào khoảng cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Các nước để bảo vệ nền sản xuất trong nước và chống lại sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập đã thực hiện việc lập nên các hàng rào bảo hộ. Với mục đích nhằm phát triển mạnh mẽ việc sản xuất hàng hoá, đặc biệt là hàng tiêu dùng, thay thế hàng hoá phải nhập khẩu xưa nay. Chiến lược này đã đem lại tác dụng về nhiều mặt. + Khai thác được các nguồn lực sẵn có + Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động + Mở rộng thị trường, phát triển sản xuất hàng hoá + Tiết kiệm đồng ngoại tệ Bên cạnh đó nó có những nhược điểm và hạn chế sau: Thứ nhất: việc sản xuất là nhằm tiêu dùng trong nước các nhà sản xuất không được tiếp xúc với thị trường bên ngoài nên việc nâng coa trình độ tay nghề cho công nhân cũng như cải tiến kỹ thuật, công nghệ và công tác quản lý không được
  5. quan tâm, chú trọng. Do đó, cả quy mô lẫn trình độ sản xuất không có động lực để mở rộng và phát triển. Thứ hai: chiến lược thay thế nhập khẩu chỉ chú trọng tới đầu tư chiều rộng mà không quan tâm tới chiều sâu. Tức là chỉ quan tâm mở rộng quy mô mà không chú trọng tới một ngành nghề cụ thể. Do vậy, không tập trung được nhân tài và vật lực vào những ngành nghề mà trong nước có điều kiện phát huy lợi thế. Thị trường trong nước đã dần trở nên chật hẹp so với khả năng sản xuất. Thứ ba: mục tiêu thay thế hàng nhập khẩu bằng bất cứ giá nào nhằm hạn chế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ đã dẫn tới tình trạng lãng phis lao động sống và lao động vật hoá. Do đó, nếu tính ra chi phí sản xuất trong nước sẽ tốn kém rất nhiều khi thực hiện nhập khẩu. Thứ tư: việc lập hàng rào bảo hộ và thực hiện các chính sách trợ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất đã dẫn tới tình trạng ỷ lại, chờ đợi và dẫn tới độc quyền trong buôn bán. Thứ năm: với chính sách này, hàng hoá trong nước khó có thể cạnh tranh với hàng hoá bên ngoài nên nguồn thu ngoại tệ ngày một giảm làm ảnh hưởng tới nhu cầu về ngoại tệ để thực hiện công nghiệp hoá. Với những nhược điểm và hạn chế như vậy đã đặt ra cho các nước một câu hỏi liệu chính sách này có phù hợp không? Chính sách mới phải được xây dựng như thế nào và họ đã tìm ra một chiến lược mới phù hợp hơn với sự nghiệp công nghiệp hoá của mình. Đó là chiến lược “hướng về xuất khẩu”. 1.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu Ngày nay, các nước tham gia một cách tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế và tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Nhưng với các nước đang phát triển và kém phát triển gặp phải một số vấn đề khó khăn lớn là: + Trình độ kinh tế - kỹ thuật thấp kém + Sự thiếu hụt về vốn lớn + Trình độ quản lý thấp kém + Kinh nghiệm về thương mại quốc tế còn ít ỏi... Để thực hiện việc hướng ngoại, tức là phát triển sản xuất trong nước với thị trường quốc tế là trọng tâm, quốc gia đó phải phát huy được các lợi thế tương đối
  6. của mình. Lý thuyết lợi thế tương đối của D.Ricardo phải được coi là cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu mà các nước đang và kém phát triển thực hiện rộng rãi từ đầu những năm 60 của thế kỷ này. Tư tưởng cốt lõi của chiến lược này là phát triển các ngành sản xuất sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu, trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của đất nước. Để phát huy lợi thế về tài nguyên và lực lượng lao động dồi dào, rẻ các nước thường tập trung vào các ngành khai thác và sản xuất sản phẩm thô nhằm xuất sang các nước phát triển. Nó đã tạo ra những thành công nhất định trong thời gian đầu khi các nước áp dụng như sự phát triển kinh tế xã hội, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết của đất nước. Nhưng việc phát triển các ngành này còn gặp phải các trở ngại. + Cầu về sản phẩm thô tăng chậm + Giá sản phẩm thô giảm hoặc tăng chậm + Sự phát triển này phụ thuộc vào sự đầu tư của các nước công nghiệp phát triển + Với việc chú trọng đầu tư phát triển một số ngành dẫn tới sự phụ thuộc của cả nền kinh tế vào ngành đó. + Các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động sống (dệt may lắp ráp các sản phẩm cơ khí, điện tử...) cũng được chú ý phát triển và đã giải quyết tốt vấn đề công ăn việc làm nhưng lao động chưa đáp ứng được “tác phong công nghiệp” do vậy còn xảy ra sự lãng phí giờ công lao động. Nhưng với sự phát triển của các ngành này đã tạo ra sự phát triển của các ngành kinh tế khác có liên quan của đất nước và giải quyết được những khó khăn, bức xúc của nền kinh tế. Để đất nước chuyển dần sang một giai đoạn công nghiệp hoá đó là hiện đại hoá nền kinh tế bằng cách chú trọng phát triển các ngành chế biến giảm tỷ trọng hàng thô trong cơ cấu xuất khẩu. Và khi nền kinh tế phát triển đến một giai đoạn (thời kỳ) nhất định đất nước sẽ chuyển sang thành một nước công nghiệp hiện đại với sự chiếm ưu thế của các ngành đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao, đầu tư nhiều chất xám. Để thực hiện được chiến lược này thì Nhà nước phải có những chính sách vĩ mô chủ yếu.
  7. + Chính sách về ngoại hối: Lựa chọn cho mình nên áp dụng chính sách đa tỷ giá hay đơn tỷ giá? Thực hiện việc áp dụng tỷ giá cố định hay tỷ giá thả hồi? Để sao cho hàng hoá trong nước có tính cạnh tranh hơn so với các nước khác cùng điều kiện. + Chính sách về tài chính, tín dụng: Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu và để hạn chế các rủi ro doanh nghiệp có thể gặp phải. + Chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài, bằng việc Nhà nước thể chế hoá trong Luật đầu tư nước ngoài. + Xây dựng lên các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kỹ thuật cao nhằm mục tiêu xuất khẩu và thu hút được vốn, kỹ thuật và cung cách quản lý hiện đại. + Ngoài ra, Nhà nước còn giúp các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu về đào tạo, về khuyếch trương sản phẩm.... Chiến lược này đã đem lại tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định cho nền kinh tế, giúp cho việc nâng cao địa vị kinh tế của quốc gia trên trường quốc tế. Do đó, nó có sức hấp dẫn cao đối với các nước đang và kém phát triển trong đó có Việt Nam trong việc áp dụng. 2. Mục tiêu của chiến lược hướng về xuất khẩu Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là nhằm thực hiện một mục tiêu quan trọng đó là quá trình chuyển dịch nền kinh tế từ cơ cấu nông nghiệp sang cơ cấu công nghiệp , từ công nghiệp chế biến dựa trên lao động thủ công là chủ yếu đến công nghiệp chế tạo dựa trên yêu cầu về vốn cao, kỹ thuật hiện đại. ở Việt Nam, chiến lược hướng về xuất khẩu đã được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội Đảng. Trong văn kiện đại hội VIII của Đảng đã khẳng định “Xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu” và trong đường lối của văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ ra “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta thành nước công nghiệp” và trong trước mắt là nhằm đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ mới.
  8. Thực chất của chiến lược hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế của quốc gia trong mối quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để phấn đấu tới mục tiêu cuối cùng là đáp ứng nhanh nhu cầu của thị trường kể cả trong và ngoài nước với mức giá phù hợp. Hướng về xuất khẩu không chỉ chú trọng tới thị trường quốc tế và xem nhẹ thị trường nội địa, không chú trọng tới thay thế hàng nhập khẩu. Mà ta phải hiểu rằng hướng về xuất khẩu không chỉ có sản phẩm sản xuất nhằm phục vụ xuất khẩu có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà phải bao gồm cả các sản phẩm sản xuất trong nước, để từ đó điều chỉnh cơ cấu kinh tế một cách hợp ký và có hiệu quả. Một nền kinh tế hướng ngoại sẽ giúp cho sự hoà nhập kinh tế giữa một nước với nền kinh tế thế giới. Nó không chỉ tạo ra ngoại tệ phục vụ cho nhập khẩu mà còn có các tác dụng sau: - Phát huy được lợi thế nhờ quy mô - Buộc các doanh nghiệp phải luôn đầu tư kỹ thuật cán bộ, ứng dụng các thành tựu mới nhất vào sản xuất, nâng cao tay nghề cho người lao động Mục tiêu của chiến lược hướng về xuất khẩu là có thể thực hiện được và nó phù hợp với các nước đang phát triển. Do vậy, việc lựa chọn chiến lược này ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là một tất yếu. II. Chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam 1. Tính tất yếu của việc chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam Đã từ lâu Đảng ta đã xác định muốn đưa đất nước tiến lên thì phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hoá của nước ta vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trong khi đó các nước trong khu vực như Thái Lan, Mailaixia, Singapore... và một số nước Đông á khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc.... đã và đang đạt được một sự phát triển liên tục với mức tăng trưởng cao và ổn định (Trong số này đặc biệt phải kể tới Trung Quốc). Điều này cho thấy nếu cứ duy trì mãi chính sách, công cụ... cũ thì nguy cơ tụt hậy so với các nước là không thể tránh khỏi.
  9. Để không tụt hậu thì nền kinh tế Việt Nam phải có một mức tăng trưởng thuộc loại cao nhất, liên tục trong một khoảng thời gian tương đối dài. Nói cách khác nền kinh tế Việt Nam phải tạo ra sự tăng trưởng “thần kỳ” mới hơn cả sự “thần kỳ” mà các nước Đông á đã làm được trong 3 - 4 thập niên trước đây. Từ thực tiễn hiện nay cho thấy, muốn tăng trưởng nhanh và lâu bền cần phải quan tâm tới lĩnh vực xuất khẩu mà cụ thể là tạo ra sự tăng trưởng xuất khẩu. Nhưng không phải bất cứ sản phẩm xuất khẩu nào cũng được mà các sản phẩm xuất khẩu ở đây phải là các sản phẩm chế tạo, các sản phẩm đòi hỏi đầu tư nhiều chất xám. Nhưng ta cũng phải căn cứ vào tình hình thực tại của đất nước để từ đó xây dựng nên một chiến lược sao cho phù hợp. Với các nước Đông á, tình hình thế giới lúc đó đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho họ trong việc nhận được nguồn vốn từ Mỹ - nước muốn lôi kéo về bên mình các đồng minh để tạo ra cục diện thế giới như ý muốn của Mỹ. Đồng thời, các nước Đông á được Mỹ bảo đảm về quốc phòng và an ninh, do đó các nước này chỉ tập trung vào một việc duy nhất là đầu tư phát triển kinh tế. Trong khi vào giai đoạn hiện nay, củng cố quốc phòng và an ninh xây dựng kinh tế, vừa phải dựa vào bản thân là chính. Chính vì vậy, lựa chọn đường lối, chiến lược để đạt được những tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phải làm sao cho phù hợp. Hay nói cách khác phải dựa vào tính quy luật, tức là phải xem xét tới yêu cầu và khả năng thực hiện, cụ thể là: Một là: nước ta thuộc diện các nước nghèo nhất thế giới muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu hiện tại thì dù còn một con đường là tăng trưởng xuất khẩu để tạo ra tiền đề, cơ sở vật chất, kỹ thuật để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Hai là: nước ta có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng cộng với nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ. Nếu tận dụng được các lợi thế này thì các sản phẩm của Việt Nam sẽ có những lợi thế nhất định so với các nước khác. có thể trước mắt các sản phẩm xuất khẩu chỉ là các sản phẩm thô nhưng khi đã có sự tăng trưởng nhất định thì chúng ta sẽ chuyển dần sang xuất khẩu các sản phẩm tinh để thu được lợi nhuận lớn hơn.
  10. Ba là: các lao động ở nước ta rất cần cù, nhanh nhạy trong việc nắm bắt những kiến thức mới. Do đó, mục tiêu học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu khoa học, công nghệ của các nước tư bản phát triển sẽ trở thành hiện thực. Như vậy, vào lúc này ta có thể khẳng định chiến lược hướng về xuất khẩu là một lựa chọn tất yếu của Việt Nam. 2. Những thuận lợi và thách thức của Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu * Mỗi một chính sách, mỗi một đường lối, mỗi một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội khi được xây dựng thì đều phải được xem xét, nhìn nhận nó về tính khả thi và những khó khăn, vưỡng mắc có thể gặp phải khi thực hiện. 2.1. Thuận lợi Việc xem xét, đánh giá các thuận lợi là đúng đắn và cần thiết để biết được khả năng thành công của chiến lược đó. Để thấy được các thuận lợi ta xem xét các nguồn lực có lợi thế so sánh như nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. Đây là các nhân tố đầu tiên của một quốc gia khi xem xét có lợi thế hay không. a. Về nhân lực: Với số dân hiện nay vào khoảng 80 triệu người trong đó lực lượng lao động chiếm khoảng 50% và hàng năm trên 1 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động thì Việt Nam hiện có một lực lượng lao động đông đảo. Người lao động Việt Nam rất cần cù, có tinh thần vượt khó, thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học - kỹ thuật hiện đại cộng với giá rẻ đã tạo nên một lợi thế lớn so với các nước. b. Về tài nguyên: Tài nguyên của nước ta đa dạng, phong phú nhiều chủng loại; khí hậu rất thuận lợi cho việc tạo ra các nguồn năng lượng phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân. Ta có thể nói rằng tài nguyên thiên nhiên cũng là một thế mạnh của Việt Nam cần được khai thác và phát huy. c. Về địa lý: Việt Nam có vị trí thuận lợi, là cầu nối của nhiều nút giao thông về hàng hải cũng như hàng không quốc tế. Hệ thống giao thông đường bộ cũng đang dần được
  11. xây dựng và cải tạo để nâng cao vai trò và vị thế quan trọng của Việt Nam trong các tuyến giao thông quốc tế. d. Về chuyển giao công nghệ: Với việc kiện toàn Luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã và đang thi hành các chính sách nhằm thu hút vốn, công nghệ, khoa học - kỹ thuật, phương thức quản lý... của các nước tư bản phát triển để từ đó nâng cao nền sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh cho các sản phẩm của mình trên trường quốc tế. Từ chỗ các sản phẩm máy móc, thiết bị phải nhập khẩu hoàn toàn thì cho tới nay Việt Nam có thể sản xuất các sản phẩm cho riêng mình và đang mở rộng thị trường tới các nước (tivi, thiết bị điện tử...). Ngoài ra, ta còn phải kể đến các thuận lợi về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, các chủ trương chính sách của Đảng. Tình hình chính trị của Việt Nam tương đối ổn định đã tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội cộng với chính sách mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế - xã hội của khu vực và trên thế giới với mong muốn làm bạn với các nước đã tạo ra một thị trường rộng khắp cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội xâm nhập và khẳng định chỗ đứng của mình. 2.2. Thách thức Trên con đường đưa nền kinh tế nước ta đạt tới sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định ngoài những thuận lợi đã nêu thì chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong đó phải kể tới những thách thức sau: a. Xuất phát điểm của Việt Nam là thấp. + Dân số đông, tỷ lệ tăng dân số cao, tác phong lao động vẫn còn mang tác phong nông nghiệp. + Thu nhập bình quân đầu người rất thấp 400USD/người/năm và có khoảng trên 15% người sống trong tình trạng nghèo khổ + Công nghệ bị lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. + Nền kinh tế phát triển không đồng đều, các khu công nghiệp chủ yếi tập trung ở các thành thị và thành phố lớn. Chính vì vậy gây ra sự di dân từ các vùng nông thôn ra các thành thị và gây ra sự thất nghiệp lớn ở thành thị.
  12. b. Cạnh tranh quốc tế gay gắt Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam cũng không tránh khỏi xu thế ấy. Việc gia nhập các tổ chức kinh tế, chính trị đã đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa nền kinh tế và như vậy các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với nhiều sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. Kết quả của sự cạnh tranh này có thể dẫn tới sự sụp đổ của nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước và đòi hoỉ Nhà nước phải có sự quan tâm, tìm ra các phương thức giải quyết sao cho phù hợp, thoả đáng. c. Nguồn nhân lực bị hạn chế chất lượng lao động của ta không cao so với các nước trong khu vực (kỹ năng, tác phong, kiến thức). Hiện nay, nước ta đang lâm vào tình trạng thiếu những thợ tay nghề cao và có kiến thức trong khi đó đội ngũ cán bộ, kỹ sư... được đào tạo một cách tràn lan, không có sự hoạch định gây ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” và gây ra lực lượng thất nghiệp đông đảo là các sinh viên đã được đào tạo. Như vậy, đã gây ra sự lãng phí lớn trong đào tạo. d. Về vốn Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế của các nước đang có sự chững lại, cầu thị trường đang dần ổn định trong khoi đó cung thị trường tiếp thị tăng đã dẫn tới sự dư thừa các sản phẩm sản xuất ra. Như vậy, các nhà đầu tư có xu hướng thu hồi lại vốn đầu tư hoặc họ xoá bỏ các dự án đầu tư vì họ không thu được nhiều lợi nhuận từ việc đầu tư. Điều này đã dẫn tới sự khan hiếm về vốn ở các nước đang phát triển vì họ rất cần vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho công nghệ, thực hiện các phúc lợi... và Việt Nam cũng không nằm ngoài tác động này. Trên đây là một số thách thức mà khi xây dựng ra một chiến lược cụ thể chúng ta cần phải tính đến để chúng ta có thể hạn chế tới mức thấp nhất đến để chúng ta có thể hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng cuả các yếu tố này tới hiệu quả của chiến lược. 3. Kinh nghiệm của các nước đi trước Việc xem xét kinh nghiệm của các nước đi trước là cần thiết để từ đó ta có thể rút ra cho mình một cách đi phù hợp và đúng đắn nhất. ở đây xem xét việc
  13. thực hiện chiến lược công nghiệp hoá của một số nước mà đã thu được các thành công lớn. a. Kinh nghiệm của Nhật Bản Sau chiến tranh, số lượng thất nghiệp ở Nhật Bản tăng lên một cách nhanh chóng. Để thu hút hết số lao động thất nghiệp này, Chính phủ Nhật Bản đã phát triển một cơ cấu công nghiệp với công nghiệp nặng về hoá chất có đặc điểm hướng vào xuất khẩu và cần nhiều lao động làm chủ đạo, Chính phủ Nhật tiến hành hỗ trợ bằng các khoản tín dụng ưu đãi và các dịch vụ hỗ trợ đặc biệt, Chính phủ cũng chú trọng vào plt các xí nghiệp vừa và nhỏ. b. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Ngay từ khi lập kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 - 1966) Chính phủ Hàn Quốc đã chủ trương áp dụng chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Chính phủ đã thực hiện chiến lược của mình thông qua các biện pháp. - áp dụng tỷ giá linh hoạt - Tài trợ xuất khẩu - Đơn giản hoá các thủ tục hải quan - Tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà xuất khẩu trong việc nhập khẩu nguyên liệu - Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài c. Kinh nghiệm của Đài Loan Khác với Nhật Bản và Hàn Quốc, Đài Loan chủ yếu đầu tư khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó phù hợp với tình hình lúc đó và điều kiện của Đài Loan. Trước hết, người Hoa có kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý loại hình xí nghiệp này. Thứ hai, những nông dân có chút tiết kiệm cũng muốn và thực sự có khả năng đầu tư vào các ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp để tăng thu nhập cho gia đình, và nếu có sẽ mở doanh nghiệp riêng ở lĩnh vực sản xuất mới. Thứ ba, làn sóng các doanh nhân từ lục địa (Thượng Hải, Sơn Đông...) tràn sang sau biến động ở Trung Hoa lục địa đã mang theo vốn và kinh nghiệm của họ để lập nghiệp ở lãnh thổ này.
  14. Cuối cùng, do nhu cầu tiêu thụ hàng hoá trong nội địa tăng trong khi thị trường nội địa còn nhỏ hẹp, nguồn vốn của nội địa không đáp ứng được nhu cầu về vốn của những xí nghiệp lớn, điều hành các doanh nghiệp lớn. Với các chính sách đúng đắn của mình, Đài Loan đã thu được nhiều thành công cho mục tiêu hướng ngoại nền kinh tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần to lớn vào việc chuyển dịch ưu thế sang các sản phẩm công nghiệp chiếm ưu thế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có ưu thế trong xuất khẩu hơn là các doanh nghiệp lớn. Trong không đầy ba thập kỷ, Đài Loan chuyển dịch từ chỗ 90% cơ cấu hàng xuất khẩu là nông sản sang hơn 90% là các sản phẩm công nghiệp . Năm 1993, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 70% giá trị xuất khẩu của toàn ngành chế tạo. Như vậy, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng: Thứ nhất: trong giai đoạn đầu của chiến lược, các nước thường sử dụng các lợi thế về nhân công. Nó vừa giải quyết được các vấn đề bức xúc xã hội vừa tạo ra những bước tiến ban đầu vững chắc. Thứ hai: các nước đã biết xác định cho mình một chính sách phù hợp bằng cách phát huy các tiềm năng có khả năng khai thác để xuất khẩu. - Lựa chọn các tiềm năng có lợi thế so sánh với nước ngoài - Khai thác lợi thế so sanh để xuất khẩu với mục tiêu toàn diện là: tạo việc làm, tích luỹ vốn, tiếp thu công nghệ, nâng cao tay nghề - trình độ quản lý, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.... - Ưu tiên cho xuất khẩu không đi lệch hướng với cơ cấu kinh tế quốc dân đã lựa chọn. Thứ ba: các sản phẩm phải có chỗ đứng trên thị trường hay nói cách khác là các sản phẩm phải có tính cạnh tranh hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước. 4. Nội dung “chiến lược hướng về xuất khẩu” của Việt Nam 4.1. Định hướng chung
  15. Trong phần định hướng chung, chúng tra đã đưa ra các định hướng cơ bản sau: Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao và khu chế xuất có thể tạo thành các vùng trọng điểm có nền sản xuất và khối lượng rất lớn một số sản phẩm xuất khẩu chính. - Trong giai đoạn công nghiệp hoá, khu vực kinh tế Nhà nước có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng trưởng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, khu vực này phải tạo ra các loại dịch vụ công cộng cho kinh tế - xã hội. - Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả được xem là yếu tố có tính chiến lược then chốt. - Để phát triển sản xuất các ngành hàng gắn chặt với thị trường xuất khẩu phải xây dựng một “chiến lược kẽ hở” của thị trường trong và ngoài nước nhằm tổ chức sắp xếp lại nền sản xuất và thương mại trên bình diện cả nước. 4.2. Đổi mới, hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và các hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Do đó, tạo một nhịp độ phát triển xuất khẩu cao và bền vững là ưu tiên hàng đầu của việc đổi mới. Nội dung của đổi mới, hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu gồm các vấn đề cơ bản: - Tạo dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả. Với Việt Nam cần tập trung trọng tâm vào hàng công nghiệp chế biến (nông - lâm - thủy sản) công nghiệp lắp ráp... - Mở rộng thị trường đúng đắn và linh hoạt bằng việc tham gia các hiệp định chung khu vực và trên thế giới cũng như việc tham gia vào các tổ chức, khu vực mậu dịch tự do như AFTA, APEC, WTO... - Các chính sách về quản lý ngoại hối, mà cụ thể là sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt để giữ cho kim ngạch xuất khẩu luôn cân bằng với kim ngạch nhập khẩu cho dù giá cả trên thị trường trong và ngoài nước có sự biến động.
  16. - Nâng cao vai trò của xuất khẩu dịch vụ bằng việc triệt để khai thác và khai thác có hiệu quả các lợi thế trong xuất khẩu dịch vụ cùng với sự đa dạng hoá các loại hình dịch vụ quốc tế. 4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương - Việc xây dựng đội ngũ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương là nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương mạnh trong đó độ ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời, phải nắm bắt được chính xác thông tin về sự thay đổi nhu cầu, giá cả thị trường và những nguyên nhân của sự thay đổi đó. - Mỗi doanh nghiệp ngoại thương cần có những cán bộ kế toán tài chính giỏi để tìm ra những phương án tối ưu nhất cho doanh nghiệp. - Các cá nhân trong doanh nghiệp ngoại thương phải biết đặt lợi ích của doanh nghiệp lên trên lợi ích của cá nhân mình. Do vậy, việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt là cần thiết và quan trọng. Ngoài ra, việc xây dựng đội ngũ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương cũng nhằm làm cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả về lâu, về dài. Bởi vì, với đội ngũ cán bộ giỏi, các doanh nghiệp sẽ có sự lựa chọn tốt về thị trường, về các biện pháp xúc tiến, về quản lý doanh nghiệp cũng như các lĩnh vực tài chính, lĩnh vực liên quan tới pháp luật. Từ đội ngũ cán bộ đó ta có thể lựa chọn ra được một người lãnh đạo phù hợp cho doanh nghiệp, dẫn dắt doanh nghiệp gặt hái được nhiều thành công và với đội ngũ cán bộ giỏi doanh nghiệp có thể ngăn ngừa các tai hoạ bất ngờ xảy ra với doanh nghiệp cũng như kiềm chế kiểm soát các rủi ro - đó chính là bảo hiểm kinh doanh cho một doanh nghiệp hoạt động ngoại thương. III. Các chính sách để thực hiện chiến lược hướng và xuất khẩu. Để hướng nền kinh tế theo những mục tiêu đã lựa chọn thì bên cạnh việc xây dựng chiến lược, mỗi nước cũng phải thi hành một số chính sách nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược cho mình đề ra. Vì vậy, để thi hành “chiến lược hướng về xuất khẩu” thì cần thực hiện các chính sách: 1. Chính sách cơ cấu lại xuất khẩu - quy hoạch xuất khẩu
  17. Trong xuất khẩu, nhân tố cơ cấy hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực là các nhân tố có tính quyết định tới quy mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá. Việc xác định cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một nội dung quan trọng của chính sách mặt hàng xuất khẩu. Khi cơ cấu lại xuất khẩu cần quan tâm tới các yếu tố như thị trường, khả năng và điều kiện sản xuất ở trong nước, hiệu quả đem lại. Trong đó, hiệu quả là yếu tố quan trọng đặc biệt. Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu chúng ta phát triển theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới và tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng (VA) cao trong kim ngạch xuất khẩu. Để thực hiện việc quy hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách đầu tư về vốn và công nghệ đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Nhà nước cũng cần có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất - kinh doanh các sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có những biện pháp nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có hạn như: - Đẩy mạnh việc gia công hàng hoá nhằm khai thác các nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước. - Tăng cường đầu tư cho mặt hàng thủ công mỹ nghệ (mây, tre đan...) mà nguồn nguyên liệu luôn sẵn có và dồi dào. - Đầu tư cho các ngành chế biến nông - lâm - thuỷ sản là các ngành mà Việt Nam có thế mạnh do điều kiện tự nhiên và do vị trí địa lý đem lại. Bên cạnh đó Nhà nước cũng cần xây dựng nên các mặt hàng chủ lực để tại ra kim ngạch lớn và tạo ra sự tăng trưởng ổn định, lâu dài. 2. Chính sách gắn sản xuất với xuất khẩu Ta thấy rằng, về lâu dài, lĩnhvực nông nghiệp vẫn đóng vai trò là cung cấp một khối lượng hàng hoá đáng kể cho xuất khẩu trực tiếp và nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Các mặt hàng nông nghiệp phục vụ cho xuất khẩu mà ta có thể kể đến là:
  18. - Mặt hàng gạo: đối với mặt hàng này cần xây dựng nên các vùng sản xuất lúa chuyên cho xuất khẩu đồng thời có các chính sách ưu tiên về vốn, đầu tư khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng... - Đối với các mặt hàng nông sản khác cần chuyển sang dạng chế biến sẵn thay vì xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc sơ chế. - Lĩnh vực trông cây công nghiệp cũng cần được quan tâm đầu tư và Chính phủ cần có những chiến tranh bảo đảm lợi ích cho người nông dân để họ có thể an tâm trong việc đầu tư cho khâu tạo nguồn. Các mặt hàng lâm sản, thuỷ sản cũng cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ cho khai thác và chế biến bởi trong tương lai không xa lâm - thuỷ sản sẽ là các ngành thu về cho nước ta nhiều ngoại tệ. Các sản phẩm công nghiệp và khai khoáng đã có tỷ trọng xuất khẩu lớn và khả năng xuất khẩu trong những năm tới còn lớn nhưng cũng đã đến lúc phải cải tiến công nghệ đầu tư thiết bị và kỹ thuật khai thác cũng như khâu xử lý nguyên liệu. Một lĩnh vực nữa cũng cần phải quan tâm đó là lĩnh vực dịch vụ. Đây là khu vực đã, đang và sẽ chiếm ưu thế lớn trong nền kinh tế với rất nhiều ưu điểm so với ngành công nghiệp và nông nghiệp. Chúng ta cũng cần phải quan tâm, đầu tư vào khu vực này. 3. Chính sách mở cửa thị trường Ngày nay, thế giới đang trong giai đoạn diễn ra các hoạt động hợp tác toàn diện về mọi mặt. Việt Nam là một bộ phận của thế giới do đó cũng đã và đang thực hiện sự hội nhập của mình vào nền kinh tế - xã hội toàn cầu. Việt Nam đã gia nhập các tch khu vực như ASEAN , APEC... và sắp tới Việt Nam cũng mong muốn gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khi gia nhập các tổ chức này thì thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cũng được mở rộng nhưng đồng thời các doanh nghiệp này cũng gặp phải nhiều sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều phía của các doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, để chuẩn bị cho sự hội nhập sẽ diễn ra, trước mắt là CEPT/ AFTA (2006), Nhà nước phải thực hiện một số các biện pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của các doanh nghiệp trong nước như đầu tư vốn, kỹ thuật,
  19. công nghệ, tổ chức đào tạo... giúp cho doanh nghiệp bắt kịp nhịp độ phát triển chung của khu vực và thế giới. 4. Chính sách về đầu tư và thu hút đầu tư Việt Nam đã và đang kiện toàn bộ luật về đầu tư nước ngoài. Đây là cơ sở để cho các nhà đầu tư nước ngoài căn cứ vào đó và sau khi tiến hành việc tính toán và so sánh với các nước để đưa ra các quyết định đầu tư của mình. Chính vì vậy, để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp lớn trong khi các nước trong khu vực cũng có cùng điều kiện, cùng khí hậu và thậm chí cơ sở hạ tầng của một số nước còn tốt hơn ta, chính sách đầu tư của họ còn có nhiều điểm ưu việt hơn ta thì các chính sách ưu đãi dành cho các nhà đầu tư sẽ là một nhân tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các chính sách ưu đãi mà ta có thể sử dụng là miễn thuế thu nhập trong vài năm đầu hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầy tư nước ngoài và thực hiện thu thuế với giá trị thấp trong các năm tiếp theo hoặc là chính sách về việc tự do lưu chuyển số lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp loại này hoặc các chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cống, hệ thống thông tin liên lạc...). Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có một vai trò rất quan trọng, có đóng góp lớn vào lĩnh vực xuất khẩu, cụ thể là: Thứ nhất: Các doanh nghiệp này chủ yếu là xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến (khoảng 80%). Thứ hai: Các doanh nghiệp này đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu với tỷ trọng lớn (khoảng gần 30%). Thứ ba: Giải quyết được vấn đề tạo việc làm cho người dân địa phương, cũng như quá trình tiếp thu các công nghệ mới và phương thức quản lý khoa học. Như vậy, vai trò của đầu tư nước ngoài là không thể phủ nhận nhưng cũng cần phải lưu ý tới hậu quả của các dự án đem lại. Những hậu quả này có thể dẫn tới sự ô nhiễm về môi trường, nguồn nước... cũng có thể dẫn tới sự cạn kiệt về tài nguyên... Do đó, chúng ta cần phải chọn lựa các dự án cho phù hợp vừa có hiệu quả nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tác động xấu tới môi trường cũng như thiên nhiên. 5. Các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu
  20. 5.1. Chính sách về thuế. Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ chính để khuyến khích xuất khẩu, cụ thể như sau: - Nhà nước miễn thuế hầu hết các mặt hàng xuất khẩu hoặc áp dụng mức thuế suất thấp với các mặt hàng còn chịu thuế. - Sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt. - Các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu được giảm thuế lợi tức tối đa 50%. - Các doanh nghiệp gia công hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư sử dụng cho gia công hàng và vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp. 5.2. Chính sách về tỷ giá. Một công cụ cũng thường được sử dụng để khuyến khích xuất khẩu đó là chính sách về tỷ giá. Nhà nước áp dụng tỷ giá cao để nhằm khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu bởi vì họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận (bằng đồng nội tệ) hơn khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Nhưng cũng không lên quá lạm dụng chính sách này vì tỷ giá là một lĩnh vực rất nhạy cảm của nền kinh tế và rất có thể dẫn tới sự xụp đổ toàn bộ nền kinh tế quốc dân nếu Nhà nước không còn kiểm soát được. 5.3. Hạn ngạch xuất khẩu. Chính phủ mà cụ thể là Bộ thương mại và Bộ công nghiệp nước ta vẫn luôn tìm cơ hội đàm phán với các nước, các thị trường có yêu cầu, đòi hỏi cao về sản phẩm như EU, Canađa.... để được họ cấp cho các hạn ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản và các sản phẩm dệt may, da giày... Để rồi sau đó các Bộ, ngành nói trên cấp các giấy phép xuất khẩu cho các đơn vị sản xuất - kinh doanh. Hạn ngạch xuất khẩu đã giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu không phải tiến hành nghiên cứu thị trường do đó bớt đi được các chi phí có liên quan và làm giảm được giá thành sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng cũng chính vì vậy mà các doanh nghiệp này sẽ dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp này bỏ qua các thị trường quan trọng hoặc các sản phẩm chỉ đáp ứng được nhu cầu thị hieéu của một thị trường có phạm vi nhỏ hẹp.
nguon tai.lieu . vn