- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận: Bằng lý luận và thực tiễn phat́ triên̉ của nông nghiệp Viêṭ Nam. Hãy chứng minh “hợp tać là nhu cầu tât́ yếu của mọi thời ki,̀ nhưng mức độ và hiêụ quả của hơp̣ tác laị phụ thuộc vào triǹ h độ và sự phát triển của lưc̣ lượng sản xuât́ ”
Xem mẫu
- ------
Tiểu luận
Bằng lý luận và thực tiễn phat́ triên̉
của nông nghiệp Viêṭ Nam. Hãy
chứng minh “hợp tać là nhu cầu tât́
yếu của mọi thời ki,̀ nhưng mức độ và
hiêụ quả của hơp̣ tác laị phụ thuộc vào
triǹ h độ và sự phát triển của lưc̣
lượng sản xuât́ ”
- TIỂU LUẬN
KINH TẾ HỢP TÁC
Đề tài:
Bằng lý luận và thực tiễn phát triển của nông nghiệp Việt Nam.
Hãy chứng minh “hợp tác là nhu cầu tất yếu của mọi thời kì,
nhưng mức độ và hiệu quả của hợp tác lại phụ thuộc vào trình
độ và sự phát triển của lực lượng sản xuất”
- MỞ ĐẦU
* Hợp tác là sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân hoặc đơn vị để tạo nên
sức mạnh lớn hơn, nhằm thực hiện những công việc mà mỗi cá nhân, mỗi
đơn vị hoạt động riêng rẽ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không thực hiện được,
hoặc thực hiện kém hiệu quả so với hợp tác. Trong hoạt động xã hội hay
kinh tế có nhiều hình thức hợp tác khác nhau như hợp tác trong sản xuất
kinh doanh, hợp tác sinh hoạt cộng đồng, hợp tác trong văn hóa… Hợp tác
phát triển từ giản đơn đến phức tạp như trong sản xuất từ đổi công đến hợp
tác xã, tư một nhóm người đến công ty, tổng công ty … Nguyên tắc để hợp
tác là tự nguyện và cùng có lợi, trong đó cùng có lợi là động co quyết định
để hợp tác.
Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó là con
đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc điểm của
sản xuất của nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống chịu
ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh như thời tiết thủy văn, khí hậu và các
sinh vật khác. Cùng với các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp gặp
không ít khó khan, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các yếu tố
sâu bệnh, thú dữ phá hoại
- B. NỘI DUNG
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ
HIỆU QUẢ
1. Tầm quan trọng của hợp tác trong nông nghiệp
Hợp tác không phải là câu chuyện mới. Từ thuở xa xưa, tổ tiên của chúng
ta đã biết hợp sức, hợp lực, hợp trí để tránh thứ dữ, để khắc phụ hậu quả của
thiên tai, để vây bắt thú rừng làm thức ăn cho con người. Câu chuyện “bó
đũa” được lưu truyền trong dân gian thể hiện tầm quan trọng và sức mạnh
của hợp tác. Người ta có thể dễ dàng bẻ gãy một chiếc đũa nhưng cũng chiếc
đũa ấy, nếu được buộc chặt với những chiếc khác, thì khó có thể bẻ gãy cùng
một lúc được. Đó chính là triết lý của sự hợp tác. Xã hội càng phát triển thì
nhu cầu hợp tác càng cấp thiết hơn, hình thức hợp tác càng đa dạng hơn, nội
dung hợp tác trở nên phong phú hơn. Trong cuộc sống nói chung và trong
sản xuất nông nghiệp nói riêng, nông dân cần hợp tác để tiết kiệm chi phí, để
gia tăng giá trị nông sản và cuối cùng là để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trong thời gian qua, kinh tế hộ đã có đóng góp to lớn vào nền kinh tế quốc
dân nhưng kinh tế hộ ngày càng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong sản xuất
nông nghiệp. Một vài ví dụ sau đây chứng tỏ rằng hình thành các tổ hợp tác
của nông dân là việc làm cần thiết và góp phần cho kinh tế hộ phát triển.
Thứ nhất, trong sản xuất nông nghiệp, chắc hẳn người nông dân cần mua
vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc, thiết bị,...
Chắc chắn rằng từng nông dân vẫn có thể đến các đại lý hoặc cửa hàng gần
nhà để mua. Tuy nhiên, với việc mua 1 vài bao phân NPK, ½ chai thuốc trừ
sâu… thì sẽ khó tránh khỏi trường hợp mua với giá cao, phân bón không đủ
số cân như ghi trên bao bì và chất lượng không đảm bảo như phân bón kém
chất lượng, thuốc trừ sâu giả. Vậy thì, thay vì mỗi hộ phải tự đi mua vật tư
nông nghiệp, không có hợp đồng mua bán bảo đảm chất lượng và chi phí
vận chuyển cao thì nông dân liên kết và thành lập tổ hợp tác. Đại diện tổ hợp
tác sẽ tập hợp nhu cầu và tìm nguồn cung cấp có uy tín, ký hợp đồng mua số
lượng lớn với giá bán sỉ và giảm chi phí vận chuyển. Sau đó họ c ùng phân
phối lại cho từng hộ để mỗi hộ chủ động sử dụng trên đồng ruộng của mình.
Giảm chi phí đầu vào là một trong những cách tăng thu nhập của nông dân.
Thứ hai, với quy mô canh tác nhỏ lẻ mỗi hộ vài công đất hay vài hécta
và khả năng đầu tư hạn hẹp thì từng hộ nông dân khó có thể tự mua sắm và
sử dụng hiệu quả các loại máy móc phục vụ trong nông nghiệp như: máy sạ
- hàng, máy gặt đập liên hợp, hệ thống sấy lúa… Giả dụ mỗi hộ có đủ khả
năng đầu tư thì cũng không nên trang bị các loại máy móc này vì sẽ không
sử dụng hết công suất của chúng trừ phi các hộ này mua để làm dịch vụ kinh
doanh. Nhưng nếu một vài hộ nông dân có cùng nhu cầu hùn vốn mua chung
chiếc máy gặt đập liên hợp, họ là người đồng sở hữu chiếc máy và họ sẽ
dùng chiếc máy trước hết và chủ yếu trên những thửa ruộng của mình. Như
vậy, mục đích tối thượng của hợp tác là để thoả mãn nhu cầu của chính
thành viên trong tổ, sau đó thì mới nghĩ đến việc làm dịch vụ cho nông dân
khác để kiếm thêm lợi, nhuận.
Thứ ba, ngày càng có nhiều công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật để
nâng cao chất lượng và năng suất cây trồng vật nuôi. Từng người nông dân
khó có thể tiếp cận các nhà khoa học, các trại thực nghiệm, các trung tâm
nghiên cứu, cán bộ khuyến nông để tìm hiểu và học hỏi những kiến thức và
kỹ năng canh tác và chăn nuôi mới. Một thí dụ từ thực tế, một nhóm 12 hộ
nông dân người Khơme ở ấp Trà Kháo, xã Hoà Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà
Vinh không phải có nhiều đất đai, thế mà họ hùn tiền “thuê” một thạc sĩ
nông học trả lương hàng tháng. Điều kiện hợp đồng là... dạy cách trồng rau
màu theo mùa vụ thích hợp, bán hàng ra chợ được giá. Liệu từng nông dân
với quy mô canh tác trung bình thì có thể làm được những việc trên hay
không? Câu trả lời là mỗi nông dân không thể và không nên làm những việc
như vừa kể trên.
Thứ tư, ngày nay một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng quan tâm đến
việc an toàn thực phẩm. Họ muốn mua thực phẩm có đăng ký nhãn hiệu
hang hoá và có thể truy tìm nguồn gốc. Nếu nông dân chúng ta mong muốn
nông sản của mình vượt qua khỏi phạm vi của chợ quê, đến các siêu thị
trong những thành phố lớn và thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài thì nông dân
cần thay đổi nếp nghĩ và thói quen canh tác. Tâm lý của người tiểu nông, sản
xuất tự phát và dựa vào kinh nghiệm…không còn phù hợp trong bối cảnh
hội nhập kinh tế thế giới. Với quy mô nhỏ lẻ, manh múm và sản xuất chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm bản than nên sản phẩm nông dân làm ra vừa ít về
số lượng, vừa không đồng nhất về chất lượng và màu sắc… thì làm sao có
thể đăng ký thương hiệu, làm sao đăng ký chứng nhận Global GAP hay
VietGap để tiêu thụ với giá cao? Để làm được điều này, nông dân rất cần
hợp tác với nhau. Các thành viên tổ hợp tác bàn bạc và thống nhất về giống,
quy trình canh tác, thời điểm gieo trồng…thì khi thu hoạch họ sẽ có lượng
nông sản hàng hoá nhiều về số lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và
đồng nhất về chất lượng. Lúc này tổ hợp tác sẽ có năng lực đàm phán tiêu
thụ sản phẩm ổn định với các doanh nghiệp hay các thương lái. Hợp đồng
tiêu thụ sản phẩm sẽ quy định rõ: số lượng, chất lượng, quy cách, thời điểm
- giao hàng, giá cả và điều kiện thanh toán. Việc kế tiếp là tổ hợp tác cần bàn
bạc và thống nhất kế hoạch tổ chức sản xuất. Sau đó mỗi thành viên trong tổ
sẽ tự chủ canh tác thửa ruộng của mình theo quy trình kỹ thuật nhất định, sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật theo 4 đúng, bảo đảm an toàn cho người sản
xuất, người sử dụng nông sản và bảo vệ môi trường cho chính gia đình, hàng
xóm của họ. Điều này có nghĩa rằng nông dân “BÁN” (ký hợp đồng) trước
khi “SẢN XUẤT”. Hẳn nhiên, một nông dân sản xuất trên quy mô trang trại
lớn thì có thể tự mình tìm đối tác và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Nhưng đa số nông dân Việt Nam sản xuất với quy mô nhỏ, cần c ù, chăm chỉ
và sản xuất giỏi nhưng thiếu khả năng đàm phán, thương lượng trong buôn
bán. Chính vì vậy, nông dân cần hợp tác lại để sản xuất, cùng xây dựng và
nuôi dưỡng thương hiệu cho nông sản của mình. Đây là sức mạnh của hợp
tác. Sự hợp tác sẽ làm được những điều mà từng cá thể đơn lẻ không thể làm
được.
Thứ năm, tổ chức hợp tác của nông dân cũng là mong muốn của những
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản. Việc ký hợp đồng với từng
nông dân với lượng hàng hoá ít ỏi sẽ tạo ra chi phí rất lớn. Thay vào đó các
doanh nghiệp mong muốn ký một hợp đồng với tổ hợp tác thì họ sẽ giảm
đầu mối và giảm chi phí ký kết và giám sát thực hiện hợp đồng. Tức là
doanh nghiệp có thể giảm được chi phí giao dịch.
2. Hiệu quả của sự hợp tác: ở vùng đồng bằng sông cửu long:
xuất nông hộ theo điều tra năm 2006 của vùng đồng bằng sông cửu long
bình quân thu nhập của người nông dân là 506 nghìn đồng/tháng. Hiệu quả
sản xuất nông hộ manh mún, nhỏ lẻ, tự phát. Bình quân mỗi hộ( 4 người)
canh tác 1 ha, mỗi năm cho thu nhập 8,4 triệu đồng.
Theo hình thức trang trại: khai thác hiệu quả đất đai vào sản xuất nông
nghiệp, bình quân mỗi trang trại sử dụng 0,5 ha đất, thu nhập từ 0,8 – 1,2
triệu đồng/người/tháng.
Theo hình thức HTX: đáp ứng nhu cầu về các yếu tố đầu vào, đầu ra cho
nông sản, xây dựng được nhiều công trình thủy lợi, kết hợp được phát triển
giữa nghề nuôi trồng thủy sản và trồng trọt. Chuyển giao khoa học kĩ thuật
cho nông dân.
Nghiên cứu ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cho thấy, một hộ trồng
lúa với diện tích trên 3 ha sẽ đạt hiệu quả cao gấp 5-6 lần các hộ sản xuất có
quy mô nhỏ hơn 1 ha. Một nghiên cứu khác của Ngân hàng Thế giới (WB)
cho thấy, năng suất lao động trong các hộ nông dâ n có dưới 1/4ha đất, thấp
hơn các hộ có trên 2 ha đất, là 2,5 lần. Trong khi đó, phần lớn hộ nông dân ở
- đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có diện tích canh tác trung b ình dưới
0,3ha/hộ, tức là dưới 600 m2/người, chỉ luẩn quẩn trong vòng tự cung tự
cấp. Trên phạm vi cả nước, có đến 1/3 hộ nông dân sản xuất nhỏ, không có
khả năng tái sản xuất mở rộng. Vấn đề đặt ra không đơn thuần là quy mô sản
xuất mà là sự khác biệt của 2 hệ thống công nghệ, một bên là lao động thủ
công và bên kia là khả năng áp dụng cơ giới hoá, công nghệ và phương thức
quản lý ở trình độ cao hơn. Trong khi thuỷ sản đang chuyển mạnh sang áp
dụng các hệ thống thâm canh, bán thâm canh theo kiểu công nghiệp và đạt
kết quả khích lệ thì không ít nông dân, diêm dân vẫn chủ yếu áp dụng các hệ
thống sản xuất quảng canh, quy mô nhỏ, lạc hậu; không ít nơi tuy trồng
giống lúa mới nhưng vẫn theo kiểu “con trâu đi trước cái cày theo sau”, tát
nước bằng gầu, cuốc đất tay, gánh phân vai; tuy nuôi lợn lai nhưng vẫn cho
ăn bèo tây, cây chuối như nhiều chục năm trước. Điều tra của Viện Chính
sách và Chiến lược phát triển NN&PTNT (IPSARD) cho thấy, từ năm 2002,
mức tích luỹ trung bình một người ở nông thôn tăng lên rõ rệt, nhưng cũng
chỉ đạt chưa đầy 800.000 đồng/năm, rất thấp để có thể đầu t ư một cách có
hiệu quả. Tỷ lệ hộ có tài sản cố định nhiều nhất là chuồng trại chăn nuôi
cũng chỉ chiếm gần 30%. Còn lại, các tài sản cố định khác như: vườn cây,
trâu bò, lợn nái, lợn đực giống, bình bơm thuốc trừ sâu chỉ trên dưới 15%.
Những hộ gia đình có tài sản cố định giá trị cao, như: nhà xưởng, ô tô, máy
kéo… chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Khả năng tích luỹ thấp, lại hạn chế về vốn cho
nên chỉ có khoảng 28% số hộ dự kiến đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn
khoảng 3 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, các hộ nông dân có quy mô sản xuất
nhỏ còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường, khoa học và công nghệ. Hệ
quả là, trong suốt 10 năm qua, kinh tế nông thôn Việt Nam vẫn nặng về
nông nghiệp, tới 79% cơ cấu kinh tế hộ, trong đó 50% từ trồng trọt. Ngoài
ra, các số liệu thống kê cho thấy, trong 5 năm qua, năng suất lúa đã chững
lại ở mức 5,4 tấn/ha, trong khi đó, giá vật tư đầu vào và chi phí sản xuất tăng
cao. Ví dụ, chỉ trong 3 năm gần đây, giá thành sản xuất lúa, trung bình tăng
1,5 lần
Hình thức nông trường quốc doanh: trên diện tích 4,160 ha ruộng nông
trường sông hậu đã trồng được 2 vụ lúa mỗi năm với năng suất 10 tấn/năm.
Kết hợp nuôi cá ruộng được 2 vụ lúa mỗi năm thu hoạch được 300 kg cá/ha.
Cao hơn đáng kể so với bình quân trong vùng.
II.TÁC ĐỘNG CỦA WTO TỚI NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỐI
QUAN TÂM CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI WTO
Việt Nam là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm gần 80% dân số, lao
động nông nghiệp chiếm trên 70% lao động xã hội. Hội Nông dân Việt Nam
là một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn đại diện cho giai cấp nông dân Việt
- Nam, với trên 8 triệu hội viên. Hội đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của nông dân, động viên, tổ chức, hỗ trợ các phong trào nông dân phát
triển kinh tế - xã hội góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nông
dân, đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở địa bàn nông thôn. Từ năm
1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới
kinh tế, lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, lấy nông thôn làm địa bàn trọng
điểm. Sau 17 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu
rất quan trọng, nhất là trong nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực
không nhữn đáp ứng được nhu cầu trong nước, đảm bảo dự trữ quốc gia mà
còn liên tục xuất khẩu gạo, cao nhất là 4,5 triệu tấn năm 1999, các năm khác
đều xuất khẩu từ 3 – 3,7 triệu tấn; tỉ lệ nghèo đói giảm mạnh từ trên 70%
vào thập kỷ 80 xuống còn 29% năm 2002 (theo báo cáo về phát triển con
người của UNDP công bố ngày 08/7/2003); cơ sở hạ tầng về giao thông,
thuỷ lợi, văn hoá, giáo dục ở nông thôn đã được cải thiện đáng kể; đời sống
vật chất, tinh thần của nông dân đã được nâng lên một bước,... Đạt được
những thành tựu đó một phần có sự đóng góp to lớn của giai cấp nông dân
và Hội Nông dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế trên phạm vi rộng, yêu cầu nâng
cao khả năng cạnh tranh ngày càng quyết liệt, thực hiện các cam kết về hội
nhập quốc tế ngày càng gay gắt trong khi nền nông nghiệp Việt Nam dù đã
đạt được những thành tựu rất quan trọng song nhìn chung trong thời gian
qua, phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp mới chú trọng nhiều đến tổ
chức sản xuất, ít chú ý đến định hướng thị trường, chủ yếu là chăm lo cho
sản xuất nhằm kích cung chứ chưa chú trọng đến kích cầu. Sản xuất được
nhiều sản phẩm nhưng các khâu lưu thông, bảo quản, chế biến, tiêu thụ lại
bất cập, chất lượng hang hóa chưa cao, khả năng cạnh tranh thấp. Trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, nền kinh tế Việt Nam nói chung,
ngành nông nghiệp, nông dân và Hội Nông dân Việt Nam nói riêng không
chỉ có các cơ hội thuận lợi hơn về thị trường, công nghệ, tiền vốn mà còn
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách, đó là:
1- Thách thức đối với nông nghiệp:
+ Về tổng quát, trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của lợi thế cạnh
tranh
truyền thống như tài nguyên thiên nhiên, chi phí lao động rẻ đang giảm sút,
thay vào đó là tri thức, công nghệ và kỹ năng lao động giỏi trở thành yếu tố
quyết định thắng lợi trong cạnh tranh thị trường hàng hóa. Tiếp cận theo
hướng đó cho thấy các yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh trị
- trường hàng hóa, trong đó có hàng hóa nông sản thì sức cạnh tranh của nền
kinh tế Việt Nam nhìn chung còn rất yếu và nhiều điểm đáng lo ngại.
+ Quy hoạch trong sản xuất nông nghiệp đã làm nhiều năm, có một số kết
quả, song quy hoạch sản xuất vẫn chưa thực sự gắn với chế biến, chưa gắn
với thị trường. Quy hoạch chung làm chậm chạp, quy hoạch cụ thể rất thấp,
còn nhiều mâu thuẫn. Sự chệch choạc trong quy hoạch giữa sản xuất và chế
biến nông sản hàng hóa đã làm cho tự phát gia tăng, khủng hoảng thừa, thiếu
diễn ra liên tục.
+ Thực hiện việc chuyển nông nghiệp sang nền nông nghiệp hàng hóa vẫn
còn rất chậm chạp, kinh tế nông thôn còn nặng về thuần nông. Trong nông
nghiệp, còn nặng về trồng trọt. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân
tán manh mún, mang nhiều yếu tố tự phát, các tỉnh miền núi, nhất là vùng
sâu, vùng xa còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Ngoài một số ít cây trồng đã
hình thành được vùng chuyên canh theo quy hoạch còn lại các cây trồng
khác đang trong quá trình xây dựng vùng chuyên canh, ít về số lượng, nhỏ
bé về quy mô và chưa ổn định. Chăn nuôi gia súc phát triển vẫn dựa trên cơ
sở các vùng truyền thống là chủ yếu.
2- Thách thức đối với nông dân:
+ Kinh tế hộ nông dân phần lớn còn rất nhỏ bé. Hiện có trên 13,0 triệu hộ ở
nông thôn trong đó hơn 12 triệu hộ làm nông nghiệp. Bình quân mỗi hộ có
2,5 lao động; 0,7 hecta đất nông nghiệp và có tới 70 triệu thửa đất nhỏ manh
mún. Sản xuất của các hộ phần lớn có quy mô kinh doanh nhỏ, phân tán,
đang là trở ngại lớn đối với sản xuất hàng hóa.
+ Kinh tế hộ nông dân không những còn rất nhỏ bé, phát triển sản xuất gần
như tự phát, không ít sản phẩm cung - cầu không cân đối, hậu quả là được
mùa, mất giá, sản phẩm dư thừa không tiêu thụ được hết, thua thiệt lại thuộc
về nông dân gánh chịu. Một bộ phận hộ nông dân đã phát triển trang trại,
đến năm 2002 cả nước đã có 60.758 trang trại, trong đó 80,5% là nông dân,
song sản xuất cũng gần như tự phát, thị trường không ổn định, 90% sản
phẩm bán ở dạng thô, 60% sản phẩm chỉ bán được giá thấp.
+ Trong sản xuất hàng hóa nông sản theo cơ chế thị trường và xúc tiến
thương mại, thì thông tin về thị trường, giá cả là rất quan trọng. Tuy nhiên
hiện nay, thông tin đến với nông dân còn quá ít và không kịp thời. Theo điều
tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn năm 2001-2002 thì chỉ có
khoảng 25% nông dân tiếp cận được các thông tin thị trường thông qua báo
chí và qua các phiên chợ, còn 75% nông dân không hề biết gì.
- + Khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phát triển
chậm.. Hiểu biết khoa học kỹ thuật và quy trình sản xuất hàng hóa theo cơ
chế thị trường của nông dân còn nhiều bất cập, chẳng hạn gieo sạ lúa quá
dầy, bón quá nhiều phân hoá học, đặc biệt đáng lưu ý là tình trạng dùng
thuốc bảo vệ thực vật với số lượng lớn và rất tuỳ tiện. Do vậy, cùng với các
loại kháng sinh khác cũng cao nên ảnh hưởng đến chất lượng xuất khẩu, khó
đảm bảo chữ tín trong thương mại.
+ Lao động nông thôn phổ biến là thủ công đã qua đào tạo chưa được 10%,
làm theo kinh nghiệm truyền thống, thiếu việc làm trầm trọng, thu nhập thấp
nên đời sống của các hộ chưa được cải thiện nhiều.
+ Tiền vốn để hộ nông dân phát triển sản xuất còn rất thiếu, nhất là vốn để
thâm canh và mở rộng qui mô sản xuất, thực trạng này ít nhất có 50% số hộ
nông dân đang thiếu vốn. Lao động nông thôn dôi dư dồn hết vào sản xuất
nông nghiệp, trong khi các ngành nghề phi nông nghiệp thu hút lao động từ
nông nghiệp còn rất thấp.
3- Thách thức đối với công nghiệp chế biến nông sản:
Hiện nay Việt Nam có hơn 600 ngàn cơ sở chế biến nông - lâm - thủy sản,
giá trị đạt khá so với tổng giá trị toàn ngành công nghiệp. Nông sản hàng
hóa qua khâu chế biến đã đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu và thị hiếu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Không ít mặt hàng nông sản qua chế biến
được thị trường nước ngoài chấp thuận.
Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, nhất là khi Việt Nam
tham gia WTO thì nông sản hàng hóa, đặc biệt là hàng nông sản chế biến
phải đương đầu với những thách thức gay gắt và cạnh tranh quyết liệt, thể
hiện như sau:
+ Mở cửa thị trường trong nước bao gồm đưa ra mức thuế trần ràng buộc đối
với tất cả các mặt hàng nông sản, bãi bỏ tất cả các biện pháp phi thuế quan;
+ Đối với trợ cấp xuất khẩu: liệt kê tất cả các biện pháp trợ cấp xuất khẩu
cam kết cắt giảm và tiến tới bãi bỏ các loại trợ cấp xuất khẩu trực tiếp;
+ Đối với hỗ trợ trong nước khi đã là thành viên của WTO, các chính sách
hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ đối với nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm
sẽ bị khống chế và cắt giảm dần. Ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối
mặt với những thách thức gay gắt, nhiều doanh nghiệp và nông dân buộc
phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu chất lượng cao, giá rẻ của
nước ngoài. Một số ngành hàng mà khả năng cạnh tranh hạn chế sẽ bị thu
hẹp sản xuất trong nước. Một số xí nghiệp, nhà máy chế biến bị thua lỗ triền
- miên, có thể phải đóng cửa, một số sản phẩm của nông dân có thể phải thu
hẹp.
+ Trên thương trường thế giới, Việt Nam còn rất yếu trong việc nắm bắt
nhanh nhạy thông tin thị trường giá cả và luật lệ buôn bán của nhiều nước.
Theo Phòng Thương mại Việt Nam quá trình gia nhập WTO thì 31% doanh
nghiệp chưa hề biết thông tin, 45% không có kế hoạch chuẩn bị cho việc
thực hiện gia nhập WTO, Hơn 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thiếu kinh
nghiệm về thương mại quốc tế và xa lạ với tập quán kinh doanh, hệ thống
pháp lý trong buôn bán của các nước.
+ Tỷ lệ nông sản chế biến so với tổng sản lượng còn rất thấp, như mía đường
68%, chè 35%, rau quả 5%, thịt 1%. Các cơ sở chế biến, đa phần sử dụng
công nghệ lạc hậu cách đây khoảng 20 năm nên năng suất chất lượng và
hiệu quả thấp.
+ Rất nhiều nông sản chế biến của Việt Nam vệ sinh an toàn nông sản, thực
phẩm chưa đảm bảo, dư lượng hóa chất, thuốc trừ sâu và các độc tố kháng
sinh còn cao nên ảnh hưởng đến chất lượng trong khi WTO quy định cho
phép các nước mua hàng sẽ lấy mẫu để kiểm tra trước khi nhập khẩu. Những
quy định này sẽ đánh mạnh vào điểm yếu của Việt Nam.
+ Trong cạnh tranh tương đối về phân công lao động trên thế giới, nếu
không tự nhanh chóng vươn lên thì Việt Nam trở thành nước chỉ sản xuất và
cung cấp các sản phẩm thô, tiêu tốn nhiều tài nguyên, sức lao động, gây ô
nhiễm môi trường nhưng giá trị gia tăng và lợi nhuận thấp. Hậu quả sẽ là thu
nhập của người dân, nhất là nông dân đạt thấp, cải
thiện không đáng kể, và như vậy kinh tế Việt Nam sẽ đứng trước nguy cơ tụt
hậu, khó đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
+ Việc liên kết liên doanh, hợp tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông
sản hàng hóa đã có bước tiến bộ giữa các doanh nghiệp với nông dân. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nên giữa doanh nghiệp
và nông dân thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản chưa mấy suôn sẻ.
+ Các tổ hợp tác đã xuất hiện nhiều song do tự phát, quy mô nhỏ, không có
vốn quỹ nên hỗ trợ cho kinh tế hộ sản xuất hàng hóa không đáng kể. Các
hợp tác xã kể cả chuyển đổi và lập mới theo luật, hiệu quả hoạt động còn
thấp, nhất là việc giúp cho nông dân tiêu thụ nông sản thì hầu như HTX còn
đứng ngoài cuộc nên vai trò của HTX còn rất lu mờ.
Thực trạng hiện nay có thể thấy rõ thị trường giá cả nông sản, hàng tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn vẫn bị thả nổi cho hộ sản xuất tự lo liệu.
- Đây lại là một thách thức không nhỏ khi Việt Nam hội nhập kinh tế và gia
nhập WTO.
Thách thức đầu tiên đối với Nông nghiệp là thách thức đối với nông sản
hàng hoá do nông dân làm ra về số lượng, chất lượng, về vệ sinh thực phẩm,
giá thành... Bởi vậy, Hội Nông dân Việt Nam đặt mối quan tâm lớn trong
lĩnh vực này, xác định vai trò, vị trí của Hội, vừa là lương tâm, vừa là trách
nhiệm để giúp nông dân vượt qua thách thức thông qua việc thực hiện những
hoạt động cụ thể sau:
+ Tuyên truyền phổ biến sâu rộng cho Hội viên và nông dân nhận thức được
những cơ hội và thách thức đối với Nông nghiệp, nông dân khi Việt nam hội
nhập kinh tế và gia nhập tổ chức WTO, và từ nhận thức đó biết tận dụng thời
cơ, khắc phục khó khăn để vượt qua thách thức.
+ Vận động, tổ chức, tạo điều kiện giúp đỡ nông dân phát triển sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngay trong sản xuất của gia đình
mình trên cơ sở qui hoạch, kế hoạch của địa phương đã xác định. Chú trọng
thâm canh trong sản xuất để tăng khối lượng, nâng cao chất lượng và hạ giá
thành sản phẩm
+ Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi
(NDTĐSXKDG), coi đó là phong trào trung tâm, tạo nên nhiều nông dân
SXKDG và điển hình tiên tiến (ĐHTT). Cả hệ thống Hội từ Trung ương đến
cơ sở phải xông vào trận địa này, động viên mỗi hộ SXKDG, ĐHTT giúp đỡ
một số hộ nghèo. Mỗi chi Hội, tổ Hội ở cơ sở có kế hoạch và biện pháp giúp
một số hộ nghèo vươn lên.
+ Hội nông dân các cấp chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khoa
học kỹ thuật để chuyển giao kỹ thuật tiến bộ, khuyến nông, dạy nghề cho
nông dân để phát triển sản xuất làm ra sản phẩm có chất lượng cao, giá
thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như khuôn khổ
thương mại của WTO.
+ Hội tiếp tục phát huy sự liên kết với Ngân hàng nông nghiệp và Ngân hàng
Chính sách xã hội để cải tiến thủ tục, nâng cao mức vay, số người được vay,
nhất là nông dân nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đ ồng bào các dân tộc thiểu
số, gia đình chính sách để đẩy mạnh sản xuất.
+ Hội Nông dân Việt Nam rất quan tâm đến việc tiêu thụ nông sản hàng hóa
cho nông dân. Chính phủ đã có quyết định về vấn đề này, Hội sẽ chủ động
liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và Nhà nước để
tháo gỡ những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân bán được
nông sản hàng hóa.
- Một số kiến nghị của Hội Nông dân Việt Nam:
Để phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh của đất nước nói chung và của
nông nghiệp nông thôn nói riêng, đón các thời cơ, tận dụng các cơ hội, đồng
thời vượt qua các khó khăn, thách thức do hội nhập kinh tế và tham gia tổ
chức WTO đem lại, Hội Nông dân Việt Nam xin có một số kiến nghị sau:
+ Hội Nông dân Việt Nam kiến nghị với Chính phủ có chính sách tích cực
và đồng bộ hơn nữa nhằm thúc đẩy cho nông nghiệp phát triển và làm ra
nhiều nông sản hàng hoá đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài
nước. Những chính sách đó bao gồm: Chính phủ cần hỗ trợ cho nghiên cứu
phát triển, đẩy mạnh Chương trình khuyến nông và các Chương trình phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ Chương trình an ninh lương thực, hỗ
trợ người nghèo, hỗ trợ các Chương trình giảm nhẹ thiên tai, cứu trợ khẩn
cấp, trợ giá vật tư, trợ giá giống trong giới hạn cho phép.
+ Cần phải tăng cường công tác tuyên truyền qua các phương tiện thông tin
đại chúng, các hội nghị, hội thảo, tập huấn,… để cho cán bộ và nông dân
hiểu rõ hơn về tác động có thể có đối với nông thôn, nông nghiệp và nông
dân khi Việt Nam hội nhập kinh tế và gia nhập tổ chức WTO, từ đó có sự
chuẩn bị tốt hơn, thích ứng nhanh hơn, sản xuất và kinh doanh có hiệu quả
hơn.
+ Các ngành, các cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ,
các nhà doanh nghiệp, nông dân một mặt tích cực tiếp thu tiến bộ khoa học
và công nghệ mới, năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, một mặt
phải phát huy cao đội tính cộng đồng, tính văn hoá, tính xã hội trong phát
triển kinh tế.
+ Hội Nông dân Việt Nam mong muốn và kêu gọi các tổ chức quốc tế, các
tổ chức phi chính phủ, tổ chức nông dân các nước và khu vực giúp đỡ về
kinh nghiệm, vật chất, tài chính cho giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt
Nam nhiều hơn nữa so với sự giúp đỡ thiết thực trong thời gian qua.
Hội Nông dân Việt Nam tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, với đường lối đổi mới, mở cửa và hội nhập đúng đắn,
những nỗ lực của các ngành các cấp nói chung, của giai cấp nông dân và Hội
Nông dân Việt Nam nói riêng, Việt Nam sẽ tận dụng được các cơ hội, lợi thế
cạnh tranh, nội lực để vượt qua những khó khăn, thách thức do hội nhập
kinh tế đem lại, sẽ hội nhập hiệu quả và thực hiện thành công mục tiêu ‘dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’.
- C. KẾT LUẬN
Tóm lại, phần lớn nông dân, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, không
thể hoặc không đủ khả năng tham gia cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
đầy biến động. Chính vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển được, nông dân
chúng ta cần liên kết với nhau thành lập tổ hợp tác trên những nguyên tắc
hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng, tự chủ và cùng có lợi. Điều cốt yếu của tổ
chức hợp tác ngày nay không phải là đưa ruộng đất và tư liệu sản xuất riêng
thành tài sản chung mà mỗi nông dân vẫn làm chủ mảnh vườn, thửa ruộng
và tư liệu sản xuất của mình. Tổ hợp tác và hợp tác xã phát triển dựa trên
quyền tự chủ của các nông hộ và vì mục đích tiếp sức cho kinh tế hộ phát
triển.
Bản thân em là một cử nhân trong tương lai nguyện sẽ cống hiến cho sự
nghiệp đổi mới của đất nước sức khỏe và kiến thức của tuổi thanh xuân bất
kể khi nào đất nước cần. Bởi lẽ, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh không chỉ là khẩu hiệu mà là ước mơ của toàn đảng, toàn dân
mà còn là ước mơ cháy bỏng trong mỗi trái tim của mỗi sinh viên như chúng
em.
MỤC LỤC
TIỂU LUẬN .................................................................................................................. 2
KINH TẾ HỢP TÁC ..................................................................................................... 2
Đề tài: ............................................................................................................................. 2
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 4
1. Tầm quan trọng của hợp tác trong nông nghiệp ...................................................... 4
1- Thách thức đối với nông nghiệp: ................................................................................. 8
2- Thách thức đối với nông dân: ...................................................................................... 9
3- Thách thức đối với công nghiệp chế biến nông sản: .................................................. 10
Một số kiến nghị của Hội Nông dân Việt Nam: ........................................................... 13
nguon tai.lieu . vn