Xem mẫu

  1. TỈ LỆ BỆNH DA VÀ NHỮNG YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN CÁC HỌC VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG QUÂN SỰ QUÂN ĐOÀN 4 TÓM TẮT Mở đầu: Bệnh da trong lực lượng quân đội rất phổ biến kể cả trong chiến tranh lẫn trong thời bình, nhưng vẫn có ít nghiên cứu về vấn đề này đặc biệt trong những năm gần đây ở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ bệnh da và những yếu tố liên quan đến bệnh da trên các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4. Phương pháp: Mô tả cắt ngang. Khám bệnh da và phát phiếu thu thập thông tin cho 400 học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4 được chọn mẫu ngẫu nhiên vào mẫu nghiên cứu. Kết quả: Có tổng số 400 học viên thỏa đủ các tiêu chí chọn mẫu được cho vào mẫu nghiên cứu. Tỉ lệ hiện mắc bệnh da của các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4 là 85,5% (342/400). Các nhóm bệnh da thường gặp theo thứ tự là nhóm trứng cá-nang lông (70,2%), nhóm nhiễm trùng (bao gồm cả nhiễm vi rút, vi trùng, nấm, ký sinh trùng) là 33%, nhóm rối loạn sắc tố da là 20,5%, nhóm dị ứng-miễn dịch chiếm 10,8%, nhóm bệnh da khác chiếm 15,2% trong tổng số các nhóm bệnh da. Trong đó, các bệnh da thường gặp là: mụn trứng cá (66,4%), lang ben (18,75%), tàn nhang -
  2. sạm da (6,7%), nấm da (6,4%), chàm (6,1%), chai tay chân (6,1%), dị ứng (5%), viêm da mủ (4,4%) trong tổng số các loại bệnh da. Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê (P
  3. Objective: To define the prevalence and related factors of skin diseases in military personnel at 4th army corps college. Methods: A cross-sectional study. We perfomed skin examination on 400 trainees at 4th army corps college and issued questionnaires to them. Results: 400 trainees satisfied the sample criteria were included in the study. The prevalence of trainees’s skin diseases at 4th army corps college was 85.5%. Four common group of skin diseases were acne-follicle (70.2%), infection (included virus, bacteria, parasite, fungus) 33%, skin pigment disorder (20.5%), allergy-immune (10.8%); others (15.2%). And common skin diseases were acne (66.4%), pityriasis versicolor (18.75%), freckle-melasma (6.7%), fungus infection (6.4%), eczema (6.1%), corn on sole of foot/hand (6.1%), allergy (5%), pyoderma (4.4%). Some acquired skin diseases were satistically related to some factors (P
  4. Conclusion: The prevalence of trainees skin diseases at 4th army corps college was 85.5%. There are some factors associated with skin conditions as history of skin diseases, after studying at college and personal hygiene (especilally taking a bath).
  5. MỞ ĐẦU Bệnh da trong lực lượng quân đội rất phổ biến kể cả trong thời kỳ chiến tranh lẫn thời bình, mặc dù mô hình bệnh da đặc trưng có những thay đổi tùy vào từng thời điểm, từng quốc gia và từng vùng khí hậu với tỉ lệ thay đổi từ 16,3%-52,47 %. Ở Việt Nam, bệnh da trong lực lượng quân đội cũng đã được quan tâm từ rất lâu với một số nghiên cứu bệnh da trong quân đội miền Bắc Việt Nam trong thời kì chiến tranh đến khi hòa bình. Nhưng với sự khác biệt về khí hậu giữa hai miền Nam-Bắc Việt Nam và đã hơn 15 năm trong công cuộc công nghiệp hóa-xã hội hóa của đất nước, bệnh da trong quân đội hầu như đã ít còn được đề cập đến như trước trong khi mỗi mô hình bệnh da đều thay đổi theo từng thời điểm, và tùy từng đối tượng. Mặt khác, bệnh da trong quân đội gần đây trên thế giới cũng coi là bệnh da nghề nghiệp nên vấn đề bệnh da trong lực lượng quân đội càng đáng quan tâm hơn. Và hơn nữa, bệnh da ở đối tượng học viên quân đội nhất là ở miền Nam Việt Nam cũng như các thói quen vệ sinh cá nhân liên quan như thế nào đến sự khởi phát các bệnh da vẫn chưa được khảo sát. Trong những trường đào tạo học viên quân đội thì trường cao đẳng quân dự quân đoàn 4 là một trường lớn tuyển quân cho tất cả các tỉnh phía Nam. Tất cả những lí do trên đã thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài “Tỉ lệ bệnh da và những yếu tố liên quan trên các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4”. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát
  6. Xác định tỉ lệ bệnh da và những yếu tố liên quan đến bệnh da trên các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4. Mục tiêu chuyên biệt 1. Xác định tỉ lệ bệnh da chung, tỉ lệ các nhóm bệnh da và tỉ lệ các loại bệnh da trên các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4. 2. Mô tả tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng của các sang thương da, tỉ lệ phân bố số lượng bệnh da trên từng học viên, và sự ảnh hưởng của bệnh da lên khả năng học tập tại trường. 3. Xác định mối liên quan giữa bệnh da và một số yếu tố như: trình độ học vấn, tiền căn bệnh da, tiền căn dị ứng, thói quen hút thuốc, thời gian tham gia học tập tại trường, thói quen vệ sinh cá nhân của các học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 400 học viên được chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống trong số 1200 học viên của trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4 đủ các tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn đưa vào -Đồng ý tham gia nghiên cứu và trả lời đầy đủ bảng thu thập thông tin Tiêu chuẩn loại trừ
  7. Không đồng ý tham gia nghiên cứu và không đồng ý trả lời đầy đủ bảng thu thập thông tin. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang Nội dung nghiên cứu -Khám bệnh da và chẩn đoán bệnh da theo tiêu chuẩn chẩn đoán qui định của ngành da liễu Việt Nam hoặc dựa trên các tính chất lâm sàng đặc trưng được mô tả từ y văn. Hội chẩn với Bộ môn Da liễu ĐHYD TPHCM để chẩn đoán những trường hợp khó hoặc không rõ ràng. -Phát phiếu thu thập thông tin cho tất cả các đối tượng nghiên cứu bao gồm cả phần hành chánh và phần ghi nhận các yếu tố liên quan. -Chụp một số hình bệnh da tiêu biểu trên các học viên có bệnh da. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành khám và phát phiếu thu thập thông tin cho 400 học viên và tất cả đều đồng ý tham gia nghiên cứu và điền đầy đủ vào bảng thu thập thông tin. Trong số 400 học viên được khám, chúng tôi ghi nhận có 342 học viên bị bệnh da chiếm 85,5% (342/400). Tỉ lệ phân bố các nhóm bệnh da và các bệnh da Bảng 1. Tỉ lệ phân bố các nhóm bệnh da
  8. Tỉ lệ % Tỉ lệ %trong Tên nhóm bệnhTổng trong TS mẫu da số bệnh nghiên (n=342) cứu (n=400) nhiễm Nhóm 113 33% 28,3% trùng dị ứng, Nhóm 37 10,8% 9,3% miễn dịch Nhóm rối loạn sắc 70 20,5% 17,5% tố Nhóm trứng cá, 240 70,2% 60% nang lông Nhóm khác 52 15,2% 13% Bảng 2.Tỉ lệ phân bố các bệnh da thường gặp Bệnh da Tỉ lệ (%) Mụn trứng cá 66,4
  9. Lang ben 18,7 Tàn nhang, sạm da 6,7 Nấm da 6,4 Chai tay, chân 6,1 Chàm 6,1 Dị ứng 5 Viêm da mủ 4,6 Tiêu sừng điểm lòng bàn 4,4 chân Bệnh da khác 0,9-3,5 Bảng 3. Mối liên quan giữa tiền căn bệnh da và bệnh da Tiền căn bệnh da Giá OR 2 trị P (CI=95%) Không Có (n=281) (n=119) Bệnh 229 113 12,22 0,000 4,277 da (67%) (33%) chung Bảng 4. Mối liên quan giữa tiền căn dị ứng và bệnh da chung.
  10. Tiền căn dị ứng Giá OR 2 trị P (CI=95%) Không Có (=3) (n=397) Bệnh 339 3 1,000* 0,513 da (99,1%) (0,9%) chung Bệnh 15 2 29,938* 0,000 0,019 da dị (88,2%) (11,8%) ứng (*)phép kiểm chính xác Fisher Bảng 5. Mối liên quan giữa bệnh da chung và thời gian tham gia học tập tại trường Bệnh Giá OR 2 da trị P (CI=95%) chung Khoảng
  11. tháng (n=311) ≤3 272 tháng (n=312) 3,277 0,072 >3 70 tháng (n=88) 1-3 tháng 202 (n=223) 10,502 0,001 2,542 3 140 tháng (n=177)
  12. (n=223) >3 tháng 70 (n=88) Bảng 6. Mối liên quan giữa bệnh da và tình trạng tắm ngay sau luyện tập. Tình trạng tắm ngay sau luyện Giá OR tập 2 trị P (CI=95%) Không Có (n=265) (n=135) Bệnh 234 108 da 4,972 0,026 0,53 (68,4%) (31,6%) chung Nhóm 85 28 nhiễm 5,669 0,017 0,554 (75,2%) (24,8%) trùng Nhóm 24 13 dị 0,035 0,852 ứng- (64,8%) (35,2%) miễn
  13. dịch Nhóm 37 33 rối 0,443 0,3 loạn (81,4%) (18,6%) sắc tố Nhóm trứng 162 78 cá- 0,419 0,517 (67,5%) (32,5%) nang lông Nhóm 32 20 0,593 0,441 khác (61,5%) (39,5%) Bảng 7. Mối liên quan giữa bệnh da và số lần tắm mỗi ngày Số lần tắm mỗi ngày Giá ≤1 lần ≥3 lần 2 2 lần trị P (n= (n=116) (n=5) 279) Bệnh da 244 93 5 4,346 0,113* chung (71,3%) (27,2%) (1,5%)
  14. Số lần tắm mỗi ngày Giá ≤1 lần ≥3 lần 2 2 lần trị P (n= (n=116) (n=5) 279) Nhóm 91 22 0 9,526 0,009* nhiễm (80,5%) (19,5%) (0%) trùng Nhóm dị 19 15 3 ứng- 1,192 0,09* miễn (51,3%) (40,5%) (8,2%) dịch Nhóm 50 16 4 rối loạn 1,666 0,1* (71,4%) (22,8%) (5,8%) sắc tố Nhóm trứng cá- 172 65 3 1,076 0,584* nang (71,7%) (27,1%) (1,2%) lông 38 14 0 Nhóm 0,931 0,628* khác (73%) (27%) (0%)
  15. Bảng 8. Bệnh da và số lần tắm mỗi ngày Số lần tắm mỗi ngày Giá OR 2 trị P (CI=95%) ≤ 1 lần ≥2 lần (n=279) (n=121) Bệnh da 244 98 2,844 0,092 chung (71,3%) (28,7%) Nhóm 91 22 8,676 0,003 2,178 nhiễm (80,5%) (19,5%) trùng Nhóm dị 19 18 ứng-miễn 1,541 0,11 (51,3%) (48,7%) dịch Nhóm rối 50 20 loạn sắc 0,113 0,736 (71,4%) (28,6%) tố Nhóm 172 68 1,045 0,307 trứng cá- (71,7%) (28,3%) nang lông
  16. Số lần tắm mỗi ngày Giá OR 2 trị P (CI=95%) ≤ 1 lần ≥2 lần (n=279) (n=121) Nhóm 38 14 0,314 0,576 khác (73%) (27%) 48 16 Lang ben 0,995 0,328 (75%) (25%) 17 5 Nấm 0,624 0,429 mông,bẹn (77,2%) (22,8%) BÀN LUẬN Tỉ lệ hiện mắc bệnh da Tỉ lệ hiện mắc bệnh da của học viên trường cao đẳng quân sự quân đoàn 4 là 85,5%, đây là một tỉ lệ khá cao, so với những nghiên cứu của E.M. Higgins, K.Ismail, K.Lant năm 2002 cho thấy tỉ lệ bệnh da chung của các cựu chiến binh vùng vịnh chiếm 42,7%, có lẽ đây là một nghiên cứu hồi cứu, sự hồi tưởng những vấn đề về da không quan trọng có lẽ đã không được đề cập đến. Và tỉ lệ chúng tôi tìm được hầu như cũng cao hơn những nghiên cứu khác về bệnh da trong quân đội trên thế giới như một ví dụ khác như một nghiên cứu bệnh da trên quân đội ở trạm xá Oslo thuộc Na-uy cũng chỉ thấy tỉ lệ 16,3%(Error! Reference source not found.). Có lẽ sự xuất hiện bệnh da chịu ảnh hưởng
  17. về di truyền, chủng tộc và điều kiện khí hậu đã một phần nào lí giải được sự khác biệt này. So với các công trình nghiên cứu bệnh da trong quân đội ở trong nước cũng cho thấy tỉ lệ bệnh ngoài da của chúng tôi cao hơn, ví dụ như nghiên cứu của tác giả Nguyễn Cảnh Cầu, Nguyễn Xuân Hiền năm 1987 cho biết tỉ lệ bệnh da ở các đơn vị bộ đội chiếm 30-40%. Hay nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Cầu năm 1992 qua khám ở 13 đơn vị với 4655 bộ đội cho thấy bệnh ngoài da chiếm đến 45,15%(Error! Reference source not found.) . Cũng như vậy, nghiên cứu gần đây hơn của Dương Văn Khiêm, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Ngọc Thụy (1993) về bệnh ngoài da ở 1698 bộ đội thuộc (Error! Reference source not nhiều đơn vị khác nhau cho thấy bệnh ngoài da chiếm 52,47% found.) , Nếu xét về khía cạnh bệnh da nghề nghiệp thì kết quả của chúng tôi cũng hầu như cao hơn những đối tượng trong những ngành nghề khác, ví dụ như nghiên cứu bệnh da trên công nhân xăng dầu của Khúc Xuyền năm 1998 cho thấy tỉ lệ bệnh da chiếm 32,43%, hay của Hoàng Thị Thu Hương năm 2007 cũng ghi nhận bệnh da trên công nhân xăng dầu chiếm 67,13%, hoặc nghiên cứu bệnh da trên công nhân ở nông trường sông Hậu năm 2002 của Huỳnh Văn Bá đã ghi nhận tỉ lệ bệnh da cũng chiếm đến 62,85%(Error! Reference source not found.) , hay nghiên cứu bệnh da nghề nghiệp ở lực lượng quân đội ở Singapore cũng chỉ ở 7,3%. Sự khác biệt này không phải là một điều khó lí giải vì mỗi đối tượng, mỗi độ tuổi trên các nghiên cứu khác nhau trên các vùng địa lí khác nhau có những mô hình bệnh lí khác nhau và sự đáp ứng khác nhau cho dù có cùng chịu những yếu tố môi trường giống nhau như ánh nắng, nhiệt độ cao, môi trường ẩm ướt… giống nhau.
  18. Nhưng vì sao khi tình hình kinh tế-xã hội, điều kiện sinh hoạt của các bộ đội cũng như các học viên quân đội đã được cải thiện đáng kể về nguồn nước, dinh dưỡng, điều kiện nhà ở, nơi lưu trú mà tỉ lệ hiện mắc bệnh da vẫn còn cao thậm chí còn cao hơn như vậy? Có thể do những lí do sau: Tuổi khảo sát trong nghiên cứu của chúng tôi là 16-25 tuổi, là độ tuổi chiếm tỉ lệ bệnh trứng cá-nang lông nhiều nhất, làm tăng tỉ lệ mắc bệnh ngoài da chung của chúng tôi so với những nghiên cứu khác. Nghiên cứu của chúng tôi đề cập đến nhiều trường hợp bệnh trứng cá nhẹ cũng nằm trong nhóm bệnh lí có thể đã làm tăng tỉ lệ mắc bệnh ngoài da của nghiên cứu chúng tôi cao hơn những những nghiên cứu khác mà có thể đã không đề cập đến. Do sự khác biệt về thời tiết, khí hậu hai miền Nam, Bắc Việt Nam cũng là nguyên nhân gây ra sự khác biệt này, vì khí hậu miền Nam Việt Nam đa số là nắng nóng và mưa nhiều khác với miền Bắc có khí hậu bốn mùa ôn hòa hơn. Tỉ lệ phân bố các nhóm bệnh da và các loại bệnh da Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh trứng cá nang lông chiếm tỉ lệ cao nhất (70,2%), nhóm bệnh nhiễm trùng đứng hàng thứ hai với 33%, nhóm rối loạn sắc tố da chiếm 20,5%, nhóm bệnh dị ứng-miễn dịch chiếm 10,8%, còn lại 15,2% là các bệnh khác trong tổng số các bệnh da, hay là chiếm tỉ lệ nhóm trứng cá-nang lông (60%), nhóm nhiễm trùng (28,3%), nhóm rối loạn sắc tố (17,4%), nhóm dị ứng-miễn dịch (9,3%), nhóm khác (13%) trong tổng số quân số khám.
  19. Trong đó bệnh mụn trứng cá chiếm 66,4%, lang ben 18,7%, tàn nhang và sạm da chiếm 6,7%, nấm mông-bẹn chiếm 6,4%, chàm 6,1%, dị ứng 5%, viêm da mủ 4,6%, tiêu sừng điểm lòng bàn chân (pitted keratolysis) 4,4%. Ta có thể thấy mô hình bệnh da của các học viên quân đội có một sự khác biệt so với mô hình bệnh da chung của dân số, theo thống kê của các cơ sở khám chữa bệnh có các chuyên gia da liễu thì tỉ lệ bệnh da được phản ánh như sau: chàm và bệnh da dị ứng vẫn đứng đầu danh sách, kế đến là bệnh nấm cạn, bệnh lông tóc móng, bệnh da nhiễm khuẩn, vảy nến…. So với những nghiên cứu trong nước của tác giả Nguyễn Cảnh Cầu (1992) (Error! Reference source not found.) , qua khám 13 đơn vị bộ đội với 4655 người thuộc các quân binh chủng khác nhau, và qua các mùa nóng lạnh của hai năm 1991 và 1992 cho thấy cơ cấu bệnh da chiếm nhiều nhất vẫn là nhóm bệnh nhiễm trùng (34,31%) đặc biệt là nấm da 18,38%, lang ben 5,8%, ghẻ 4,38%, viêm da liên cầu 3,95%, viêm da mủ 1,8%, eczema 2,66%.... còn nhóm bệnh trứng cá-nang lông chỉ nằm trong nhóm những bệnh khác chiếm 8,16%. So với nghiên cứu của Dương Văn Khiêm, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Ngọc Thụy (1993)(Error! Reference source not found.) nghiên cứu về cơ cấu bệnh ngoài da ở 1698 người thuộc nhiều đơn vị bộ đội cho biết nấm da chiếm 18,25%, lang ben 5,71%, ghẻ 7,83%, viêm da liên cầu 6,89%, viêm da mủ 3,82%, eczema 2,3%, bệnh ngoài da khác 7,65% so với quân số khám. Hay nghiên cứu gần đây hơn nữa có nghiên cứu của Trần Việt Hùng (1995) (Error! Reference source not found.) trên 630 bộ đội cho thấy tỉ lệ bệnh ngoài da chiếm 46,85%, trong đó nấm da chiếm
  20. 40,74%, viêm da liên cầu 13,42%, ghẻ 16,44%, lang ben 8,56%, viêm da mủ 3,01%, eczema 2,25%, bệnh khác 15,28% so với tổng số các bệnh ngoài da thu thập được. So với cả những nghiên cứu ngoài nước như bệnh da ở lực lượng quân đội ở Pune, Ấn Độ năm 1997 trên 8123 người cho thấy tỉ lệ các bệnh da theo thứ tự sau: nấm da 17,2%, ký sinh trùng 7,8%, viêm da mủ 3,6%, chàm 11,7%, sẩn vảy 13,5%, mụn 8,7%, rụng tóc 6,2%..., hay nghiên cứu trên các cựu chiến binh vùng vịnh năm 2002 cho thấy mô hình bệnh da sau: nấm da 10%, viêm nang lông 2,05%, nhiễm trùng 1,2%, mụn 3,5%, dày sừng nang lông 1,8%, vảy nến 3,5%, chàm 18,2%, viêm da tiết bã 5,8%, dày sừng ánh sáng 2,6%, bệnh khác 9,3%... Qua đó chúng tôi nhận thấy rằng, cơ cấu bệnh ngoài da trong nghiên cứu của chúng tôi thu được có những sự khác biệt, bệnh nấm da trong nghiên cứu của chúng tôi đã không còn là bệnh chiếm đa số nữa, chỉ có 6,4% đứng hàng thứ tư sau những bệnh trứng cá, rối loạn sắc tố da, lang ben. Trong đó lang ben chiếm tỉ lệ 18,7% là tỉ lệ cao hơn những nghiên cứu trước đây, có thể do bệnh thường gặp ở giai đoạn hoạt động mạnh (dậy thì, thanh thiếu niên) là những đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Và đặc biệt bệnh mụn trứng cá chiếm đến 66,4%, gấp nhiều lần những nghiên cứu khác nhưng là một kết quả phù hợp vì lứa tuổi khảo sát trong nghiên cứu của chúng tôi là 16-25 tuổi là lứa tuổi chiếm tỉ lệ bệnh trứng cá cao nhất so với các bệnh lí da khác. Bệnh da do nhiễm vi khuẩn chúng tôi thống kê viêm da mủ chỉ có 6,4%, nhiều hơn nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Cầu chỉ có 3,04%, nhưng tác giả lại phân loại thêm viêm da liên cầu chiếm đến 13,42%, nếu tính chung thì tỉ lệ vẫn cao hơn của chúng
nguon tai.lieu . vn