Xem mẫu
- Thương mại điện tử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
M ục lục
[ẩn]
• 1 Định nghĩa
o 1.1 Các khái niệm khác nhau
o 1.2 Hiểu theo nghĩa hẹp
o 1.3 Hiểu theo nghĩa rộng
• 2 Phương tiện của thương mại điện tử
• 3 Hình thức giao dịch
o 3.1 Cách giao tiếp
o 3.2 Cách giao dịch
• 4 Tiêu chuẩn kỹ thuật
• 5 Lợi ích của thương mại điện tử
• 6 Các loại thị trường điện tử
o 6.1 Phân loại thương mại điện tử
• 7 Các đòi hỏi của thương mại điện tử
o 7.1 Hạ tầng cơ sở công nghệ
o 7.2 Hạ tầng cơ sở nhân lực
o 7.3 Bảo mật, an toàn
o 7.4 Hệ thống thanh toán tự động
o 7.5 Bảo vệ sở hữu trí tuệ
o 7.6 Bảo vệ người tiêu dùng
o 7.7 Môi trường kinh tế và pháp lý
o 7.8 Tác động văn hoá xã hội
o 7.9 Lệ thuộc công nghệ
• 8 Quy định pháp luật của một số quốc
gia
o 8.1 Quy định của Áo
o 8.2 Quy định của Đức
o 8.3 Quy định của Việt Nam
o 8.4 Phương diện xuyên biên giới
• 9 Tham khảo
• 10 Xem thêm
• 11 Liên kết ngoài
- Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới; ngay tên gọi cũng có nhiều; có
thể gọi là "thương mại trực tuyến" (online trade), "thương mại điều khiển học"
(cybertrade), "kinh doanh điện tử" (electronic business), "thương mại không có giấy tờ"
(paperless commerce, hoặc paper trade); gần đây, tên gọi "thương mại điện tử"
(electronic commerce) được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung, đưa vào văn
bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể dùng và được hiểu với
cùng một nội dung.
[sửa] Định nghĩa
Thương mại điện tử (còn gọi là E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua bán
thông qua việc truyền dữ liệu giữa các thiết bị truyền tin trong chính sách phân phối
của tiếp thị. Tại đây một mối quan hệ thương mại hay dịch vụ trực tiếp giữa người
cung cấp và khách hàng được tiến hành thông qua việc truyền tin. Hiểu theo nghĩa
rộng, thương mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thương mại mà trong đó
các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào mời, thảo
thuận hay cung cấp dịch vụ. Thông qua một chiến dịch quảng cáo của IBM trong thập
niên 1990, khái niệm Electronic Business, thường được dùng trong các tài liệu, bắt đầu
thông dụng.
Thương mại điện tử (Electronic Commerce), một yếu tố hợp thành của nền "Kinh tế
số hóa", là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao
đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung
là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên
còn gọi là "Thương mại không có giấy tờ"). [1]
"Thông tin" trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ
thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các
bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn
hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu mẫu, hình ảnh động, âm
thanh, v.v...
"Thương mại" (commerce) trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu (như
quy định trong "Đạo luật mẫu về thương mại điện tử" của Liên hiệp quốc) là mọi vấn
đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại (commercial), dù có
hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm bất cứ giao
dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thoả thuận phân
phối, đại diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn; xây dựng
các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm;
thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển,
đường không, đường sắt, đường bộ; và v.v... Như vậy, phạm vi của thương mại
điện tử (E-commerce) rất rộng, bao quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế, mà
không chỉ bao gồm buôn bán hàng hóa và dịch vụ; buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là
một trong hàng nghìn lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử.
- [sửa] Các khái niệm khác nhau
Khó có thể tìm một định nghĩa có ranh giới rõ rệt cho khái niệm này. Khái niệm thị
trường điện tử được biết đến lần đầu tiên qua các công trình của Malone, Yates và
Benjamin nhưng lại không được định nghĩa cụ thể. Các công trình này nhắc đến sự
tồn tại của các thị trường điện tử và các hệ thống điện tử thông qua sử dụng công
nghệ thông tin và công nghệ truyền thông. Chiến dịch quảng cáo của IBM trong năm
1998 dựa trên khái niệm "E-Commerce" được sử dụng từ khoảng năm 1995, khái niệm
mà ngày nay được xem là một lãnh vực nằm trong kinh doanh điện tử (E-Business).
Các quy trình kinh doanh điện tử có thể được nhìn từ phương diện trong nội bộ của
một doanh nghiệp (quản lý dây chuyền cung ứng – Supply Chain Management, thu mua
điện tử - E-Procurement) hay từ phương diện ngoài doanh nghiệp (thị trường điện tử,
E-Commerce,...) hay từ Hiệp hội ngành nghề là một site của Hiệp hội thương mại
điện tử Việt Nam [2].
Hiện nay định nghĩa thương mại điện tử được rất nhiều tổ chức quốc tế đưa ra song
chưa có một định nghĩa thống nhất về thương mại điện tử. Nhìn một cách tổng quát,
các định nghĩa thương mại điện tử được chia thành hai nhóm tùy thuộc vào quan điểm:
[sửa] Hiểu theo nghĩa hẹp
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện tử trong
việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua
Internet và các mạng liên thông khác.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên
mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận
cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet".
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), "Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông
qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số".
[sửa] Hiểu theo nghĩa rộng
Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch tài chính và thương mại
bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các
hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Theo quan điểm này, có hai định nghĩa khái quát được đầy đủ nhất phạm vi hoạt động
của Thương mại điện tử:
Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại
quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: "Thuật ngữ thương mại [commerce] cần được diễn
giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất
- thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại
commercial bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao
dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing);
xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn,
ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình
thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách
bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ".
Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng,
bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa
và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động
kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu
điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh".
Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó: hoạt động mua
bán hàng hóa; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền
điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác
thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu
dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá (như hàng tiêu dùng,
thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông tin,
dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo
dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo)
Theo quan điểm thứ hai nêu trên, "thương mại" (commerce) trong "thương mại điện
tử" không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) theo các hiểu thông thường, mà
bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ
làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế. Theo ước tính đến nay,
thương mại điện tử có tới trên 1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá
và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
Các điểm đặc biệt của thương mại điện tử so với các kênh phân phối truyền thống là
tính linh hoạt cao độ về mặt cung ứng và giảm thiểu lớn phí tổn vận tải với các đối
tác kinh doanh. Các phí tổn khác thí dụ như phí tổn điện thoại và đi lại để thu nhập
khác hàng hay phí tổn trình bày giới thiệu cũng được giảm xuống. Mặc dầu vậy, tại
các dịch vụ vật chất cụ thể, khoảng cách không gian vẫn còn phải được khắc phục và
vì thế đòi hỏi một khả năng tiếp vận phù hợp nhất định.
Ngày nay người ta hiểu khái niệm thương mại điện tử thông thường là tất cả các
phương pháp tiến hành kinh doanh và các quy trình quản trị thông qua các kênh điện tử
mà trong đó Internet hay ít nhất là các kỹ thuật và giao thức được sử dụng trong
Internet đóng một vai trò cơ bản và công nghệ thông tin được coi là điều kiện tiên
quyết. Một khía cạnh quan trọng khác là không còn phải thay đổi phương tiện truyền
thông, một đặc trưng cho việc tiến hành kinh doanh truyền thống. Thêm vào đó là tác
- động của con người vào quy trình kinh doanh được giảm xuống đến mức tối thiểu.
Trong trường hợp này người ta gọi đó là Thẳng đến gia công (Straight Through
Processing). Để làm được điều này đòi hỏi phải tích hợp rộng lớn các các tính năng
kinh doanh.
Nếu liên kết các hệ thống ứng dụng từ các lãnh vực có tính năng khác nhau hay liên
kết vượt qua ranh giới của doanh nghiệp cho mục đích này thì đây là một lĩnh vực ứng
dụng truyền thống của tích hợp ứng dụng doanh nghiệp. Quản lý nội dung doanh
nghiệp (Enterprise Content Management – ECM) được xem như là một trong những
công nghệ cơ bản cho kinh doanh điện tử.
[sửa] Phương tiện của thương mại điện tử
Các phương tiện điện tử được sử dụng trong thương mại điện tử là:
1. Máy điện thoại;
2. Máy fax;
3. Truyền hình;
4. Các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử (Bao gồm cả mạng giá trị
gia tăng);
5. Các mạng nội bộ (Intranet) và Mạng ngoại bộ (Extranet);
6. Mạng toàn cầu Internet. Công cụ Internet và Website ngày càng phổ biến, giao
dịch thương mại điện tử với nước ngoài hầu như đều qua Internet, các mạng
nội bộ và ngoại bộ nay cũng thường sử dụng công nghệ Internet.
[sửa] Hình thức giao dịch
Các hình thức hoạt động chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử là:
1. Thư điện tử (email);
2. Thanh toán điện tử (electronic payment);
3. Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic date interchange - EDI);
4. Giao gửi số hóa các dữ liệu (digital delivery of content), tức việc mua bán, trao
đổi các sản phẩm mà người ta cần nội dung (chính nội dung là hàng hoá), mà
không cần tới vật mang hàng hoá (như: phim ảnh, âm nhạc, các chương trình
truyền hình, phần mềm máy tính, v.v...);
5. Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods).
Trong các hình thức trên, trao đổi dữ liệu điện tử (dưới dạng các dữ liệu có cấu trúc)
là hình thức chủ yếu.
[sửa] Cách giao tiếp
Thương mại điện tử bao gồm bốn loại giao tiếp:
- 1. Người với người (qua điện thoại, thư điện tử, fax);
2. Người với máy tính điện tử (qua các mẫu biểu điện tử, qua Website);
3. Máy tính điện tử với người (qua fax, thư điện tử);
4. Máy tính điện tử với máy tính điện tử (qua trao đổi dữ liệu có cấu trúc, thẻ
thông minh, mã vạch).
[sửa] Cách giao dịch
Giao dịch thương mại điện tử tiến hành:
1. Giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng;
2. Giữa các doanh nghiệp với nhau;
3. Giữa doanh nghiệp với Chính phủ;
4. Giữa người tiêu thụ với Chính phủ;
5. Giữa các cơ quan Chính phủ.
Trong các quan hệ giao dịch nói trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau là quan
hệ chủ yếu.
[sửa] Tiêu chuẩn kỹ thuật
• eBXML – XML cho quy trình kinh doanh điện tử
• XBEL – XML dùng trong kế toán
• BMECat – XML dùng trong trao đổi dữ liệu danh mục hàng hóa, thông tin giá
cả,...
• WClass – Hệ thống nhóm hàng hóa của công nghiệp điện
• UNSPSC - Tiêu chuẩn phân loại hàng hóa
• shopinfo.xml – Cung cấp dữ liệu sản phẩm và cửa hàng
[sửa] Lợi ích của thương mại điện tử
• Giúp cho các Doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về thị trường và đối
tác
• Giảm chi phí sản xuất
• Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
• Thông qua Internet giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời
gian và chí phí giao dịch
• Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành phần tham gia vào quá trình
thương mại.
• Tạo điều kiện sớm tiếp cận nền kinh tế số hóa. [1]
[sửa] Các loại thị trường điện tử
Tùy thuộc vào đối tác kinh doanh người ta gọi đó là thị trường B2B, B2C, C2B hay
C2C. Thị trường mở là những thị trường mà tất cả mọi người có thể đăng ký và tham
- gia. Tại một thị trường đóng chỉ có một số thành viên nhất định được mời hay cho
phép tham gia. Một thị trường ngang tập trung vào một quy trình kinh doanh riêng lẻ
nhất định, thí dụ như cung cấp: nhiều doanh nghiệp có thể từ các ngành khác nhau
tham gia như là người mua và liên hệ với một nhóm nhà cung cấp. Ngược lại, thị
trường dọc mô phỏng nhiều quy trình kinh doanh khác nhau của một ngành duy nhất
hay một nhóm người dùng duy nhất.
Sau khi làn sóng lạc quan về thương mại điện tử của những năm 1990 qua đi, thời
gian mà đã xuất hiện nhiều thị trường điện tử, người ta cho rằng sau một quá trình tập
trung chỉ có một số ít thị trường lớn là sẽ tiếp tục tồn tại. Thế nhưng bên cạnh đó là
ngày càng nhiều những thị trường chuyên môn nhỏ.
Ngày nay tình hình đã khác hẳn đi: công nghệ để thực hiện một thị trường điện tử đã
rẻ đi rất nhiều. Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau
thông qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật
độ chào hàng cao. Ngoài ra các thị trường độc lập trước đây còn được tích hợp ngày
càng nhiều bằng các giải pháp phần mềm cho một cổng Web toàn diện.
[sửa] Phân loại thương mại điện tử
Thương mại điện tử có thể được phân loại theo tính cách của người tham gia:
• Người tiêu dùng
o C2C (Consumer-To-Comsumer) Người tiêu dùng với người tiêu dùng
o C2B (Consumer-To-Business) Người tiêu dùng với doanh nghiệp
o C2G (Consumer-To-Government) Người tiêu dùng với chính phủ
• Doanh nghiệp
o B2C (Business-To-Consumer) Doanh nghiệp với người tiêu dùng
o B2B (Business-To-Business) Doanh nghiệp với doanh nghiệp
o B2G (Business-To-Government) Doanh nghiệp với chính phủ
o B2E (Business-To-Employee) Doanh nghiệp với nhân viên
• Chính phủ
o G2C (Government-To-Consumer) Chính phủ với người tiêu dùng
o G2B (Government-To-Business) Chính phủ với doanh nghiệp
o G2G (Government-To-Government) Chính phủ với chính phủ
[sửa] Các đòi hỏi của thương mại điện tử
Song song với các lợi ích rõ rệt, trước mắt cũng như lâu dài; Thương mại điện tử đã,
đang, và còn tiếp tục đặt ra hàng loạt các đòi hỏi phải đáp ứng, và các vấn đề cần
phải giải quyết, trên tất cả các bình diện bao gồm: doanh nghiệp, quốc gia và quốc tế.
Những đòi hỏi của thương mại điện tử là một tổng thể của hàng chục vấn đề phức
tạp đan xen vào nhau trong một mối quan hệ hữu cơ; và bao gồm:
[sửa] Hạ tầng cơ sở công nghệ
- Chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách có hiệu quả thương mại điện tử khi đã có
một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực, bao gồm hai nhánh: tính toán
(computing) và truyền thông (communications), hai nhánh này ngoài công nghệ thiết bị
còn cần phải có một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền; và hiện nay đang
có xu hướng đưa cả công nghệ bảo mật và an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ của
thương mại điện tử. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm hai mặt: một là
tính tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ
tiền để đông đảo con người có thể thực tế tiếp cận được).
[sửa] Hạ tầng cơ sở nhân lực
Hoạt động thương mại, theo đúng nghĩa của chữ "thương mại" trong "thương mại
điện tử", liên quan tới mọi người, từ người tiêu dùng đến doanh nghiệp, phân phối,
Chính phủ, các nhà công nghệ, nên việc áp dụng thương mại điện tử tất yếu đòi hỏi
đa số con người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có
hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính, và cần phải có một
đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh.
[sửa] Bảo mật, an toàn
Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ
ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh
mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v... là các rủi ro ngày một
lớn, không chỉ với người buôn bán, mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các
hệ thống điện tử có thể bị kẻ xấu (thường gọi là "hacker") xâm nhập, đòi hỏi phải có
các hệ thống bảo mật, an toàn được thiết kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa hiện đại, và
một cơ chế an ninh hữu hiệu (nhất là đối với các hệ thống có liên quan tới an ninh
quốc gia). Ngoài ra, còn có nhu cầu ngày càng tăng vì giữ gìn bí mật riêng tư.
[sửa] Hệ thống thanh toán tự động
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một
hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh
toán tự động (trong đó "thẻ thông minh") có vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh
doanh bán lẻ; khi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ giới hạn trong
khâu trao đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng
trả tiền trực tiếp hoặc qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu quả sẽ thấp,
rất có thể không đủ bù đắp chi phí trang bị phương tiện thương mại điện tử.
[sửa] Bảo vệ sở hữu trí tuệ
Giá trị của sản phẩm ngày nay tập trung ở "chất xám"; tài sản của con người, của
quốc gia, đang quy dần về "tài sản chất xám", thông tin trở thành tài sản, và bảo vệ tài
sản cuối cùng sẽ trở thành bảo vệ sở hữu trí tuệ. Vì thế trong việc truyền gửi các dữ
liệu qua mạng nổi lên vấn đề bảo vệ sở hữu chất xám và bản quyền của các thông tin
(hình thức quảng cáo, nhãn hiệu thương mại, cấu trúc cơ sở dữ liệu, các nội dung
- truyền gửi), ở các khía cạnh phức tạp hơn nhiều so với việc bảo vệ sở hữu trí tuệ
trong nền kinh tế vật thể.
[sửa] Bảo vệ người tiêu dùng
Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng được đề cao trong thương mại. Quy
cách phẩm chất hàng hóa, và các thông tin liên quan trong thương mại điện tử đều ở
dạng số hóa, nên người mua chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể;
để bổ cứu, phải có cơ chế trung gian đảm bảo chất lượng, là một khía cạnh đang nổi
lên trước thực tiễn rủi ro đang ngày càng gia tăng trong giao dịch thương mại điện tử,
xâm phạm vào quyền lợi của người tiêu dùng.
[sửa] Môi trường kinh tế và pháp lý
Mỗi một quốc gia, thương mại điện tử chỉ có thể tiến hành khi tính pháp lý của nó
được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch
điện tử, chữ ký điện tử, chữ ký số hóa, các thanh toán điện tử, các dữ liệu có xuất xứ
từ các cơ quan nhà nước, sở hữu trí tuệ hàm chứa trong thông tin trên Website, bí mật
đời tư, và bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin chống tội phạm xâm nhập), và có các
cơ quan xác thực hoặc chứng nhận chữ ký điện tử, v.v...; Ngoài ra, còn đòi hỏi mọi
doanh nghiệp, hàng hóa và dịch vụ đều đã được mã hóa thống nhất; một hệ thống
thuế thích hợp để xử lý các dữ liệu và các dịch vụ mua bán qua mạng; nói cách khác,
đòi hỏi phải có một môi trường kinh tế đã tiêu chuẩn hóa ở mức cao, với các khía
cạnh của thương mại điện tử được phản ánh đầy đủ trong quan hệ nội luật. Trên bình
diện quốc tế, vấn đề môi trường pháp lý còn phức tạp hơn nữa, vì các trao đổi là
xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự hài hòa giữa các hệ thống pháp luật và hệ thống
chính trị khác nhau.
[sửa] Tác động văn hoá xã hội
Tác động văn hóa xã hội của thương mại điện tử xuất hiện khi sử dụng Internet làm
công cụ giao tiếp, như khi tiến hành thương mại điện tử qua biên giới (với nước
khác), hoặc nếu trong một quốc gia nhưng sử dụng Iternet, Web làm công cụ mạng.
Internet có thể trở thành "hộp thư" giao dịch mua bán dâm, ma tuý, và buôn lậu; các lực
lượng phản xã hội đưa lên Internet phim con heo, các tuyên truyền kích dục có mục
đích đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, các loại tuyên
truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, v.v...; Internet cũng có
thể trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để
tuyên truyền, kích động lật đổ Chính phủ và hoặc gây rối làm loạn trật tự xã hội;
ngoài ra phải tính tới tác động về cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp
với bản sắc văn hoá dân tộc (nếu chỉ làm thương mại điện tử trong nước, thông qua
nối mạng các doanh nghiệp, sử dụng mạng quốc gia, mà không dùng Internet, thì
không cần tính tới tác động tiêu cực này; nhưng nếu không lợi dụng Internet làm công
cụ giao tiếp chung, mà thiết lập các mạng riêng thì không có tính kinh tế, và việc làm
thương mại điện tử với nước ngoài sẽ bị hạn chế).
- [sửa] Lệ thuộc công nghệ
Hoa Kỳ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin trên thế giới, cả phần cứng cũng
như phần mềm (bao gồm phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng), chuẩn công
nghệ Internet, các phần mềm tìm kiếm và trình duyệt chủ yếu cũng là của Hoa Kỳ,
Hoa Kỳ đã đi đầu và có nhiều thực tiễn về kinh tế số hóa và thương mại điện tử. Một
khi thương mại được số hóa thì toàn thế giới sẽ chịu sự khống chế công nghệ Hoa Kỳ
và các nước tiên tiến gần với Hoa Kỳ, là điều có thể đưa tới nhiều hệ quả.
Thương mại điện tử bao trùm một phạm vị rộng lớn các hoạt động kinh tế xã hội,
và hạ tầng cơ sở của nó là một tổng hòa phức hợp của hàng chục mặt vấn đề; cho
nên, tuyệt đối không nên nhìn nhận thương mại điện tử đơn thuần chỉ là việc dùng
phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi buôn bán truyền thống, mà nên hiểu
rằng một khi chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử thì toàn bộ hình thái hoạt
động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc và
sinh hoạt hàng ngày.
[sửa] Quy định pháp luật của một số quốc gia
Wikipedia tiếng Việt hoàn toàn không chịu trách nhiệm về nội dung của
những bài viết được đăng tải, đặc biệt là về tính đúng đắn, tính thời sự và đầy
đủ của những thông tin được cung cấp. Những bài viết trong Wikipedia tiếng
Việt về luật pháp và các đề tài liên quan đều nhằm vào mục đích cung cấp
kiến thức phổ thông và không phải là một tư vấn về pháp luật.
[sửa] Quy định của Áo
Thương mại điện tử được điều chỉnh tại Áo trước tiên là bằng Luật Thương mại
điện tử (E-Commerce-Gesetz ECG), Luật bán hàng từ xa (Fernabsatzgesetz), Luật chữ
ký (Signaturgesetz), Luật kiểm soát nhập hàng (Zugangskontrollgesetz) cũng như bằng
Luật tiền điện tử (E-Geld-Gesetz), mà trong đó các quy định pháp luật về hợp đồng và
bồi thường của bộ Luật Dân sự Áo (Allgemeine bürgerliche Gesetzbuch - ABGB), nếu
như không được thay đổi bằng những quy định đặc biệt trên, vẫn có giá trị.
[sửa] Quy định của Đức
Nằm trong các điều 312b và sau đó của bộ Luật dân sự (Bürgerliche Gesetzbuch –
BGB) (trước đây là Luật bán hàng từ xa) là các quy định đặc biệt về những cái gọi là
các hợp đồng bán hàng từ xa. Ngoài những việc khác là quy định về trách nhiệm thông
tin cho người bán và quyền bãi bỏ hợp đồng cho người tiêu dùng.
Cũng trong quan hệ này, Luật dịch vụ từ xa (Teledienstgesetz) ấn định bên cạnh
nguyên tắc nước xuất xứ (điều 4) là toàn bộ các thông tin mà những người điều hành
các trang web có tính chất hành nghề, mặc dầu chỉ là doanh nghiệp nhỏ, có nhiệm vụ
- phải cung cấp (điều 6) và điều chỉnh các trách nhiệm này trong doanh nghiệp đó (điều
8 đến điều 11).
Ở những hợp đồng được ký kết trực tuyến thường hay không rõ ràng là luật nào được
sử dụng. Thí dụ như ở một hợp đồng mua được ký kết điện tử có thể là luật của
nước mà người mua đang cư ngụ, của nước mà người bán đặt trụ sở hay là nước mà
máy chủ được đặt. Luật pháp của kinh doanh điện tử vì thế còn được gọi là "luật cắt
ngang". Thế nhưng những điều không rõ ràng về luật pháp này hoàn toàn không có
nghĩa là lãnh vực kinh doanh điện tử là một vùng không có luật pháp. Hơn thế nữa, các
quy định của Luật dân sự quốc tế (tiếng Anh: private international law) được áp dụng
tại đây.
Tại nước Đức các quy định luật lệ châu Âu về thương mại được tích hợp trong bộ
Luật dân sự, trong phần đại cương và trong các quy định về bảo vệ người tiêu dùng.
Mặt kỹ thuật của thương mại điện tử được điều chỉnh trong Hiệp định quốc gia về
dịch vụ trong các phương tiện truyền thông của các tiểu bang và trong Luật dịch vụ từ
xa của liên bang mà thật ra về nội dung thì hai bộ luật này không khác biệt nhau nhiều.
[sửa] Quy định của Việt Nam
Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam ra đời khá muộn
so với nhiều nước trên thế giới. Cuối năm 2005, Việt Nam mới có "Luật Giao dịch
điện tử" và năm 2006 mới ra đời Nghị định hướng dẫn thi hành luật này.
Tới đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày
23/02/2007 "Về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính", số 26/2007/NĐ-CP ngày
15/02/2007 "Quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ
chứng thực chữ ký số", số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 "Về giao dịch điện tử
trong hoạt động ngân hàng".
[sửa] Phương diện xuyên biên giới
Để đơn giản hóa thương mại điện tử xuyên biên giới và để bảo vệ người tiêu dùng
tham gia, Chỉ thị thương mại điện tử của EU (chỉ thị 2000/31/EG) được thỏa thuận
như là cơ sở luật pháp và các tiêu chuẩn tối thiểu cho cộng đồng châu Âu.
Để đơn giản hóa giao dịch, trong Liên minh châu Âu, ở những quan hệ nợ do hợp đồng
mang lại, về cơ bản là có sự tự do chọn lựa luật lệ của các phái tham gia. Hợp đồng
của người tiêu dùng, một trong những điều ngoại lệ, được quy định là không được
phép thông qua việc lựa chọn luật lệ mà vô hiệu hóa việc bảo vệ người tiêu dùng xuát
phát từ những quy định bắt buộc của quốc gia mà người tiêu dùng đó đang cư ngụ,
nếu khi trước ký kết hợp đồng có chào mời rõ rệt hay một quảng cáo trong quốc gia
người tiêu dùng đang cư ngụ và hoạt động.
Trong lãnh vực B2B thường là luật của người bán được thỏa thuận để đơn giản hóa.
Việc cùng đưa luật của quốc gia người mua vào sử dụng là phức tạp là vì nếu như thế
- người bán phải đối phó với 25 luật lệ khác nhau và phần lớn lại được viết bằng tiếng
nước ngoài. Thế nhưng nguyên tắc quốc gia xuất xứ cũng không phải là hoàn hảo:
Người mua thường không am hiểu luật lệ của nước khác và vì thế không dễ dàng đại
diện được cho quyền lợi của mình. Ngoài ra việc hành luật của từng nước thường
khác nhau và người bán từ một số quốc gia nhất định hay có nhiều lợi thế hơn so với
những người khác. Trên lý thuyết, mỗi nước đều có khả năng thay đổi luật lệ một
cách tương ứng để đẩy mạnh nền kinh tế quốc gia.
Tuy có những mặt bóng tối này, thương mại trong Internet xuyên quốc gia tất nhiên
cũng có nhiều ưu thế. Nhiều món hàng chỉ được bán trong một số nước nhất định.
Người muốn mua có thể tìm được sản phẩm cần dùng trong Internet với sự giúp đỡ
của các máy truy tìm đặc biệt và cũng có thể so sánh giá của những người bán trong
các nước khác nhau. Một phần thì không những là giá của từng nhóm sản phẩm khác
nhau mà thuế giá trị thặng dư cũng còn khác nhau, do đó mặc dù là tiền gửi hàng cao
hơn nhưng việc đặt mua ở nước ngoài có thể mang lại nhiều lợi ích hơn. Trong phạm
vi của EU người mua không phải đóng thuế nên phí tổn tổng cộng minh bạch cho
người mua.
Nói tóm lại, thương mại điện tử xuyên biên giới mặc dầu bị ghìm lại do còn có điều
không chắc chắn trong pháp luật nhưng có tiềm năng phát triển lớn. Một bộ luật
thống nhất cho châu Âu quan tâm nhiều hơn nữa đến lợi ích của người tiêu dùng về
lâu dài chắc chắn sẽ mang lại thêm nhiều tăng trưởng.
[sửa] Tham khảo
1. ^ a b [1] THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀ GÌ - VNNetsoft Co., Ltd.
2. ^ [2] Hiệp hội Thương mại Điện tử Việt Nam - Website của Hiệp hội.
[sửa] Xem thêm
• [3] KIẾN THỨC THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, Tác giả: TS. Nguyễn Đăng Hậu -
(www.haiphong.gov.vn/hpnet/upload-file/KienthucTMDT.pdf).
• Tiền điện tử
• Schwarz, Peschel-Mehner (Hrsg.) Recht im Internet (Luật trong Internet). Kognos
Verlag, Augsburg
• Daniel Amor: Dynamic Commerce 1. Auflage. Galileo-Press, Bonn 2001
• Katja Richter, Holger Nohr: Elektronische Marktplätze. (Thị trường điện tử)
Shaker, Aachen 2000
• Knut Hildebrand (Hrsg.): Electronic Business dpunkt.verlag, Heidelberg 2000
(HMD 215)
• Chiến tranh tiền tệ
[sửa] Liên kết ngoài
• Hệ thống hỗ trợ thương mại điện tử
- • Những kỹ năng và kinh nghiệm về thương mại điện tử
• Chỉ thị về e-commerce của EU (2000/31/EG) (PDF)
• Leitfaden Hướng dẫn về bán hàng trong Internet (PDF)
• Tổng quan về các nghiên cứu chung quanh đề tài thương mại điện tử
• Một dạng hình mẫu cho website thương mại điện tử
• Công ty hoạt động về TMĐT
• Sổ tay thương mại điện tử dành cho doanh nghiệp
• dien dan mua ban là một site thương mại điện tử - Khái niệm cửa hàng trực
tuyến (Onlineshop) được dùng để diễn tả việc bán hàng thông qua trang Web
trong Internet của một thương nhân.
Wikimedia Commons có
thêm hình ảnh và tài liệu
về: Thương mại điện tử
Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng_m%E1%BA%A1i_
%C4%91i%E1%BB%87n_t%E1%BB%AD”
Thể loại: Hoàn toàn không có nguồn tham khảo | Thương mại điện tử | Công nghệ
thông tin | Tiếp thị | Hệ thống thông tin quản lý | Tin học kinh tế
Công cụ cá nhân
• Tính năng mới
• Đăng nhập / Mở tài khoản
Không gian tên
• Bài viết
• Thảo luận
Biến thể
Xem
• Đọc
• S ửa
• Xem lịch sử
Tác vụ
Tìm kiếm
Xem nhanh
• Trang Chính
- • Cộng đồng
• Thời sự
• Thay đổi gần đây
• Bài viết ngẫu nhiên
• Trợ giúp
• Quyên góp
In/xuất ra
• Tạo một quyển sách
• Tải về dưới dạng PDF
• Bản để in ra
Gõ tiếng Việt (?)
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]
Công cụ
• Các liên kết đến đây
• Thay đổi liên quan
• Các trang đặc biệt
• Liên kết thường trực
• Chú thích trang này
Ngôn ngữ khác
• العربية
• Azərbaycanca
• Bahasa Indonesia
• Български
• Česky
• Dansk
• Deutsch
• Eesti
• English
• Español
• Euskara
• فارسی
• Français
- • ⇓Ρ
•
• Hrvatski
• Italiano
• עברית
• •
a
• Latviešu
• Lëtzebuergesch
• Lietuvių
• Magyar
• Македонски
• Nederlands
• • d
• O'zbek
• Polski
• Português
• Română
• Русский
• Slovenčina
• Svenska
•
• e
• Türkçe
• Українська
• •
• •
• Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 04:59, ngày 13 tháng 8 năm 2010.
• Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons
Ghi công/Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều
khoản Sử dụng để biết thêm chi tiết.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ
chức phi lợi nhuận.
nguon tai.lieu . vn