Xem mẫu
- Thuốc trừ sâu
Thuốc trừ sâu là một loại chất được sử dụng để chống côn
trùng. Chúng bao gồm các thuốc diệt trứng và thuốc diệt ấu
trùng để diệt trứng và ấu trùng của côn trùng. Các loại thuốc trừ
sâu được sử dụng trong nông nghiệp, y tế, công nghiệp và gia
đình. Việc sử dụng thuốc trừ sâu được cho là một trong các yếu
tố chính dẫn tới sự gia tăng sản lượng nông nghiệp trong thế kỷ
20[1]. Gần như tất cả các loại thuốc trừ sâu đều có nguy cơ làm
tham đổi lớn các hệ sinh thái; nhiều loại thuốc trừ sâu độc hại
với con người; và các loại khác tích tụ lại trong chuỗi thức ăn.
Các loại thuốc trừ sâu nông nghiệp
Việc xếp loại các thuốc trừ sâu được thực hiện theo nhiều cách:
Các loại thuốc trừ sâu ngấm vào cơ thể được kết hợp vào
trong các loại cây được xử lý. Các loại côn trùng ăn vào
thuốc trừ sâu khi ăn cây.
Các loại thuốc trừ sâu tiếp xúc độc hại với côn trùng có
tiếp xúc trực tiếp với chúng. Tính hiệu quả thường liên quan
tới số lượng sử dụng, với các giọt nhỏ (như sương) thường
cải thiện tính năng[2].
Các loại thuốc trừ sâu tự nhiên, như các chiết
xuất nicotine, pyrethrum và neem do các loại cây tạo ra để
bảo vệ chống lại côn trùng. Các loại thuốc trừ sâu dựa trên
nicotine đã bị cấm tại Hoa Kỳ từ năm 2001 để ngăn chặn dư
lượng làm nhiễm độc thực phẩm.[3]
Các loại thuốc trừ sâu vô cơ dược sản xuất bằng các kim
loại bao gồm các hợp chất arsenate đồng- và fluorine, hiện ít
được sử dụng, và sulfur, thường được sử dụng.
Các loại thuốc trừ sâu hữu cơ là các hoá chất tổng hợp
chiếm phần lớn lượng thuốc trừ sâu sử dụng ngày nay.
Phương pháp hành động – cách thuốc trừ sâu tiêu diệt hay
làm tê liệt một loại sâu hại – là một cách khác để xếp loại các
thuốc trừ sâu. Phương pháp hành động quan trọng trong tiên
đoán liệu một loại thuốc trừ sâu có độc hại với những giống
loài khác không, như cá, chim và các loài thú có vú.
- Các kim loại nặng, ví dụ arsen đã được sử dụng trong thuốc trừ
sâu; chúng rất độc và hiện hiếm khi được các nông dân sử dụng.
Các hợp chất organochlorine
Các tính chất diệt côn trùng nổi bật nhất của hạng thuốc trừ sâu
này, DDT, được thực hiện bởi Nhà khoa học người Thuỵ Sĩ Paul
Műller. Vì phát minh này, ông đã được trao Giải Nobel Sinh học
và Y tế năm 1948. DDT được đưa ra thị trường năm 1944. Với
sự xuất hiện của ngành công nghiệp hoá chất hiện đại, đã có thể
chế tạo các chlorinated hydrocarbon. DDT hoạt động bằng cách
mở các kênh natri trong các tế báo thần kinh của côn trùng.
Organophosphates
Hạng lớn tiếp sau được phát triển là các loại thuốc trừ
sâu organophosphate, kết hợp các acetylcholinesterase và các
cholinesterases khác. Hỗn hợp này làm vỡ các xung thần kinh,
giết hại côn trung hay cản trở khả năng thực hiện các chức năng
thông thường của nó. Các loại thuốc trừ sâu organophosphate và
các chất độc thần kinh hoá học trong chiến tranh
(như sarin, tabun, soman và VX) hoạt động theo cùng cách. Các
organophosphate có một tác động độc hại phụ tới động vật
hoang dã, vì thế việc tiếp xúc nhiều với nó làm tăng khả năng
nhiễm độc.[4]
Carbamates
Các loại thuốc trừ sâu carbamate có các cơ cấu độc hại tương tự
organophosphates, nhưng có giai đoạn hoạt động ngắn hơn và vì
thế ít độc hại hơn.
Pyrethroids
Để bắt chước hoạt động chống côn trùng của hợp chất tự
nhiên pyrethrum một hạng thuốc trừ sâu khác, thuốc trừ
sâu pyrethroid, đã được phát triển. Chúng không có tác động dai
dẳng và ít độc hơn loại organophosphates và carbamates. Các
hợp chất trong nhóm này thường được dùng chống lại các loại
côn trùng sống trong nhà.
Neonicotinoids
- Các neonicotinoid là các hợp chất tương tự loại nicotine trừ sâu
tự nhiên (với độc tính thấp hơn nhiều với các loài có vú và khả
năng tồn tại lâu hơn ngoài đồng ruộng). Các loại thuốc trừ sâu
phổ rộng ngấm qua cơ thể với khả năng tác động nhanh (phút-
giờ). Chúng được sử dụng bằng cách phun, làm ướt, xử lý hạt
giống và đất – thường như các loại thay thế cho
organophosphates và carbamates. Các loài côn trùng đã bị xử lý
thuốc thường run chi, chuyển động cánh nhanh, stylet
withdrawal (aphids), di chuyển vô hướng, liệt và chết.
Các loại thuốc trừ sâu sinh vật
Những nỗ lực gần đây để làm giảm mức độc hại rộng tới môi
trường đã khiến các loại thuốc trừ sâu sinh học lại được đề cao.
Một ví dụ là sự phát triển và gia tăng sử dụng Bacillus
thuringiensis, một loại bệnh dịch vi khuẩn của
các Lepidoptera và một số loài côn trùng khác. Nó được dùng
như một thuốc diệt ấu trùng chống lại nhiều loại sâu bướm. Bởi
nó không có nhiều tác động tới các sinh vật khác, nó được coi
là thân thiện với môi trường hơn các loại thuốc trừ sâu tổng hợp.
Độc tính từ B. thuringiensis (Bt toxin) đã được tích hợp trực tiếp
vào cây trồng qua việc sử dụng kỹ thuật gene. Các loại thuốc trừ
sâu sinh vật khác gồm các sản phẩm dựa trên nấm hại sâu bọ (ví
dụ Metarhizium anisopliae), nematodes (ví dụ Steinernema
feltiae) và các loại vi rút (ví dụ Cydia pomonella granulovirus).
Antifeedants
Nhiều loại cây đã phát triển các chất như polygodial, ngăn côn
trùng ăn, nhưng không trực tiếp giết chúng. Côn trùng thường ở
lại bên cạnh, nơi chúng chết vì đói. Bởi các antifeedant không
độc hại chúng sẽ là lý tưởng để trở thành thuốc trừ sâu trong
nông nghiệp. Nhiều nghiên cứu hoá học nông nghiệp đang cố
gắng khiến chúng đủ rẻ để được sử dụng thương mại.
Các hiệu ứng môi trường
Các hiệu ứng trên các giống loài khác
Một số loại thuốc trừ sâu giết hại hay gây ảnh hưởng xấu tới các
loài khác ngoài những loài côn trùng chúng được sử dụng để
tiêu diệt. Ví dụ, chim có thể bị đầu độc khi ăn thức ăn mới bị
- phun thuốc trừ sâu hay khi chúng nhầm lẫn các hột thuốc trừ sâu
với thức ăn và ăn chúng.[4]
Các loại thuốc trừ sâu sử dụng bằng cách phun có thể bay ra bên
ngoài khu vực dự định sử dụng và rơi xuống các khu vực thiên
nhiên hoang dã, đặc biệt khi nó được phun từ máy bay.[4]
DDT
Bài chi tiết: DDT
Một trong những mục tiêu lớn nhất trong việc phát triển các
loại thuốc trừ sâu mới là thay thế các loại thuốc trừ sâu độc
hại và khó chịu. DDT được đưa ra như một thay thế an toàn
hơn cho các hợp chất chì và asen.
Một số loại thuốc trừ sâu đã bị cấm bởi thực tế rằng chúng là
những loại chất độc dai đẳng và có những hiệu ứng không
mong muốn lên các loài thú vật và/hay con người. Một
trường hợp thường được nhắc tới là của DDT, một ví dụ về
việc sử dụng trên diện rộng (và có thể là sử dụng sai) thuốc
trừ sâu, có thể thu hút sự chú ý của công chúng bởi cuốn
sách củaRachel Carson, Silent Spring. Một trong những tác
động được biết đến nhiều nhất của DDT là làm giảm độ dày
vỏ trứng của các loài chim săn mồi. Những vỏ trứng thỉnh
thoảng quá mỏng để có thể tồn tại, khiến làm giảm số lượng
chim. Điều này xảy ra với DDT và một số hợp chất liên
quan bởi quá trình tích tụ sinh học, trong đó hoá chất, vì tính
ổn định và tính tan trong mỡ của nó, tích tụ trong các mô
chất béo. Tương tự, DDT có thể phóng đại sinh học có thể
gây ra sự tập trung ngày càng lớn trong phần mỡ của các loài
thú phía trên dãy thức năm. Lệnh cấm hầu như toàn cầu với
việc sử dụng DDT và các hoá chất liên quan trong nông
nghiệp đã cho phép một số loài chim—như chim ưng--hồi
phục số lượng trong những năm gần đây. Một số loại thuốc
trừ sâu organochlorine đã bị cấm sử dụng tại hầu như toàn
bộ thế giới và chúng bị kiểm soát toàn cầu bởi Công ước
Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ dai dẳng. Chúng bao
gồm: aldrin, chlordane, DDT, dieldrin, endrin, heptachlor, m
irex và toxaphene.
Giảm thụ phấn
- Các loại thuốc trừ sâu có thể giết ong và có thể gây ra một
sự suy giảm thụ phấn, sự giảm số lượng những chú ong thụ
phấn cho cây, và Rối loạn Sụp đổ Đàn[5], trong đó những
chú ong thợ từ một tổ ong hay đàn ong mật miền tây bất thần
biến mất. Sự mất mác tác nhân thụ phấn sẽ đồng nghĩa với
sự sụt giảm trong sản lượng thu hoạch.[5] Những liều thuốc
trừ sâu dưới mức gây chết (ví dụ imidacloprid và other
neonicotinoids) ảnh hưởng tới hành vi ăn của ong.[6]. Tuy
nhiên, nghiên cứu những nguyên nhân Rối loạn Sụp đổ Đàn
vẫn còn chưa có kết luận.[7]
Các loại thuốc trừ sâu cá nhân
Chlorinated hydrocarbons
Xem thêm: :Category:Các loại thuốc trừ sâu
organochloride
Aldrin
Chlordane
Chlordecone
DDT
Dieldrin
Endosulfan
Endrin
Heptachlor
Hexachlorobenzene
Lindane (gamma-Hexachlorocyclohexane)
Methoxychlor
Mirex
Pentachlorophenol
TDE
[sửa]Organophosphates
Xem thêm: :Category:Các loại thuốc trừ sâu
organophosphate
Acephate
Azinphos-methyl
Bensulide
- Chlorethoxyfos
Chlorpyrifos
Chlorpyriphos-methyl
Diazinon
Dichlorvos (DDVP)
Dicrotophos
Dimethoate
Disulfoton
Ethoprop
Fenamiphos
Fenitrothion
Fenthion
Fosthiazate
Malathion
Methamidophos
Methidathion
Mevinphos
Monocrotophos
Naled
Omethoate
Oxydemeton-methyl
Parathion
Parathion-methyl
Phorate
Phosalone
Phosmet
Phostebupirim
Phoxim
Pirimiphos-methyl
Profenofos
Terbufos
Tetrachlorvinphos
Tribufos
Trichlorfon
[sửa]Carbamates
- Aldicarb
Bendiocarb
Carbofuran
Carbaryl
Fenoxycarb
Methomyl
2-(1-Methylpropyl)phenyl methylcarbamate
[sửa]Pyrethroids
Allethrin
Bifenthrin
Cyhalothrin, Lambda-cyhalothrin
Cypermethrin
Cyfluthrin
Deltamethrin
Etofenprox
Fenvalerate
Permethrin
Phenothrin
Prallethrin
Resmethrin
Tetramethrin
Tralomethrin
Transfluthrin
Neonicotinoids
Acetamiprid
Clothianidin
Imidacloprid
Nitenpyram
Nithiazine
Thiacloprid
Thiamethoxam
Từ cây cối
Anabasine
- Anethole (ấu trùng muỗi)[8]
Annonin
Asimina (hạt cây Pawpaw) cho chấy
Azadirachtin
Caffeine
Carapa
Cinnamaldehyde (rất hiệu quả để diệt ấu trùng
muỗi)[9]
Cinnamon leaf oil (very effective for killing
mosquito larvae)[8]
Cinnamyl acetate (diệt ấu trùng muỗi)[8]
Deguelin
Derris
Derris (rotenone)
Desmodium caudatum (lá và rễ)
Eugenol (ấu trùng muỗi)[8]
Linalool
Myristicin
Neem (Azadirachtin)
Nicotiana rustica (Nicotine)
Peganum harmala, hạt (khói từ), rễ
Oregano dầu diệt bọ cánh cứng Rhizoppertha
dominica[10] (bọ trong ngũ cốc lưu trữ)
Polyketide
Pyrethrum
Quassia (giống cây Nam Mỹ)
Tetranortriterpenoid
Thymol (kiểm soát varroa mite trong các đàn
ong)[11]
nguon tai.lieu . vn