Xem mẫu
- NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
THÖÏC TRAÏNG HOAÏT ÑOÄNG KHOA HOÏC
VAØ COÂNG NGHEÄ ÔÛ NÖÔÙC TA HIEÄN NAY
Đặng Thị Tố Tâm*
K
hoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Vai trò của khoa học và công nghệ luôn được Đảng và Nhà nước xem
là nhân tố động lực trong phát triển kinh tế xã hội, nền tảng và nhân tố quyết định thắng
lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này
đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW Khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Trong những năm qua, việc triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, ứng dụng kết quả nghiên
cứu đã góp phần tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Tuy nhiên, một vấn đề lớn đang được đặt ra hiện nay là
làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ. Để góp phần giải quyết
vấn đề này, bài viết đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ ở Việt Nam qua một
số nội dung: Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước; Thực trạng đội
ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học; Thực trạng công trình khoa học được công bố
Từ khóa: Khoa học và công nghệ.
Current situation of science and technology activities of Vietnam
Science and technology serve as the foundation and driving force for the country’s industrialization
and modernization process. The role of science and technology is always considered by the Party and the
State to be the driving force in socio-economic development, the foundation and the decisive factor for
the success of industrialization, modernization and international integration of the country. This is clearly
shown in Resolution No.20-NQ/TW of the XI Congress of the Central Committee of the Communist Party
of Vietnam, Law on Science and Technology 2013 and Strategy for Science and Technology Development of
Vietnam period 2011-2020.
Over the past years, the implementation of scientific and technological tasks and the application of
research results have contributed to a marked change in productivity, quality and efficiency in production,
and competitive capacity improvement. However, a big problem now being raised is how to improve the
quality of scientific and technological research activities. This is a big deal and in order to contribute to solving
this problem, the article evaluates the current situation of scientific and technological research activities in
Vietnam through a number of contents: Current situation of investment in science and technology activities
from the state budget; actual status of scientific researchers; actual status of published scientific works.
Keywords: Science and technology.
Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học bằng 1,52% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng
công nghệ từ ngân sách nhà nước mạnh so với mức 1,36% trong năm 2014, song
Năm 2015, đầu tư cho khoa học công nghệ từ giảm mạnh so với mức 1,85% năm 2006. Tính theo
ngân sách nhà nước đạt khoảng 17.390 tỷ đồng, tỷ trọng đầu tư cho khoa học công nghệ/GDP từ
*Học viện Chính trị Khu vực I
6 Số 145 - tháng 11/2019 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
- ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2015 thì cũng đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học
giảm từ mức 0,51% xuống mức 0,41%. Như vậy, và công nghệ với mức kinh phí vào khoảng 1,4 -
tổng đầu tư của Việt Nam cho khoa học công nghệ 1,85% tổng chi ngân sách nhà nước, chiếm từ 0,4
hàng năm vẫn dưới 1% GDP. đến 0,6% GDP.
Hiện nay, hoạt động khoa học và công nghệ Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và
phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước. công nghệ từ năm 2006 đến năm 2015 đều có xu
Điều này đã được cụ thể hóa rõ nét ở Nghị định số hướng tăng: Năm 2006 là 5.429 tỷ đồng, đến năm
95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ 2015 đạt 17.390 tỷ đồng, qua đó cho thấy sự quan
quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động khoa
động khoa học và công nghệ. Bình quân hàng năm, học và công nghệ. (1)
Trong đó, tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu tăng cường xã hội hóa trong nghiên cứu khoa học
và phát triển khoa học và công nghệ là 13.390,6 tỷ và công nghệ.
đồng thì đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm hơn
Riêng về chi sự nghiệp cho khoa học và công
một nửa: 7.591,6 tỷ đồng (tương đương 56,7%),
nghệ, trong giai đoạn 2016 - 2019, mặc dù điều
trong khi nguồn đầu tư từ doanh nghiệp là
kiện ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn,
5.597,3 tỷ đồng đạt 41,8%, còn lại chỉ có 201,7 tỷ
nhưng bố trí chi ngân sách nhà nước cho phát triển
đồng (tương đương 1,5%) là từ nguồn vốn nước
hoạt động khoa học và công nghệ luôn ưu tiên năm
ngoài. Nhìn chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước
sau tăng cao hơn so với năm trước. Theo báo cáo
cho khoa học và công nghệ đóng vai trò hết sức
của Bộ Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2016 -
quan trọng.
2018 chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công
Năm 2016, trong cơ cấu chi cho khoa học và nghệ được đảm bảo ở mức 2% tổng chi ngân sách
công nghệ, ngân sách nhà nước chiếm 52%, nguồn nhà nước. Cơ cấu kinh phí đầu tư phát triển/kinh
từ doanh nghiệp đã tăng lên 48%. Sự chuyển biến phí sự nghiệp khoa học và công nghệ liên tục được
tích cực này có được nhờ doanh nghiệp đã quan đảm bảo theo tỷ lệ 40/60. Tổng dự toán chi ngân
tâm nhiều hơn tới khoa học và công nghệ và sự đầu sách nhà nước sự nghiệp khoa học và công nghệ
tư trọng điểm của một số doanh nghiệp lớn như: giai đoạn 2016 - 2019 đã được Quốc hội thông qua
Tập đoàn Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Dầu khí tại các nghị quyết về về phân bổ ngân sách hàng
quốc gia. Đây là dấu hiệu cho thấy hiệu quả trong năm là 46.729 tỷ đồng. Nguồn lực tài chính cho
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 145 - tháng 11/2019 7
- NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
phát triển khoa học và công nghệ đã được bố trí phủ (Nghị định, Quyết định), 88 văn bản cấp Bộ
tăng dần trong những năm gần đây. Theo đó, trong (Thông tư, Thông tư liên tịch).
năm 2019, tổng chi sự nghiệp cho khoa học và công
Tuy nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho
nghệ đạt 12.825 tỷ đồng, tăng khoảng 22% so với
phát triển khoa học và công nghệ thời gian qua đã
năm 2016. (3)
có được những kết quả nhất định, nhưng bên cạnh
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt đó vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
động khoa học và công nghệ
Một là, hàng năm, mặc dù đầu tư ngân sách nhà
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động nước cho khoa học và công nghệ đã có tăng nhưng
khoa học và công nghệ đã đạt được những kết vẫn chưa đáp ứng đủ với nhu cầu phát triển, đẩy
quả sau: mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới khoa học
Thứ nhất, luôn là nguồn đầu tư chủ yếu, cơ bản công nghệ như hiện nay. So với các nước, nguồn
cho hoạt động nghiên cứu khoa học; góp phần lực tài chính từ ngân sách nhà nước để đầu tư cho
quan trọng vào quá trình thúc đẩy phát triển đào khoa học và công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế. Ở
đạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ (bình Việt Nam, ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học
quân hàng năm chi ngân sách nhà nước cho hoạt và công nghệ chỉ chiếm 0,6% GDP, còn châu Âu
động khoa học công nghệ chiếm khoảng 2% tổng năm 2013 là 2,01%, Nhật Bản năm 2013 là 3,47%,
chi của ngân sách nhà nước, tương đương 0,6% Mỹ năm 2012 là 2,81%...
GDP và tăng bình quân mỗi năm là 19%).
Hai là, việc phân bổ ngân sách nhà nước để phát
Thứ hai, đã có sự thay đổi về cơ cấu, phân cấp để triển khoa học và công nghệ còn phân tán, dàn trải,
phù hợp với nhu cầu nguồn lực đầu tư hiện tại, từ thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên, chưa đảm
đó góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và công bảo theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu cơ chế minh
nghệ phát triển bền vững. bạch (Chủ yếu tập trung chi cho bộ máy; Chi cho
Thứ ba, cơ sở pháp lý về đầu tư ngân sách nhà đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ còn ở mức
nước cho khoa học và công nghệ ngày càng hoàn thấp; Chi lương cho cán bộ nghiên cứu khoa học
thiện hơn, chi tiết và cụ thể hóa rõ nét hơn. Cụ thể, và công nghệ cũng còn thấp)... do đó dẫn đến hiệu
gồm 38 văn bản cấp Chính phủ, Thủ tướng Chính quả đầu tư còn thấp.
8 Số 145 - tháng 11/2019 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
- Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư từ Theo kết quả điều tra, thống kê năm 2015 do Bộ
ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ Nội vụ tiến hành đối với 25 cơ quan Trung ương và
còn thấp. Bởi hiện nay chưa xây dựng được một cơ 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả
chế thực sự phù hợp, từ đó để gắn kết phân bổ ngân nước thì tổng số viên chức khoa học và công nghệ
sách nhà nước cho các tổ chức khoa học và công (theo 08 chức danh nghề nghiệp) là 43.849, trong
nghệ với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể về các sản đó, khối các cơ quan Trung ương là 32.881 và các
phẩm khoa học và công nghệ mà các đơn vị nghiên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 10.968.
cứu cần thực hiện. Số lượng viên chức khoa học và công nghệ là
Kinh phí ngân sách nhà nước cấp để thực hiện nam giới chiếm 78.03% tổng số lượng viên chức
nhiệm vụ khoa học công nghệ có nhiều bất cập, cơ khoa học và công nghệ đã thống kê được. Tỷ lệ
cấu chi chưa thực sự phù hợp (ước tính có khoảng này ở khối các cơ quan trung ương là 80%, và khối
20% tiền dành cho khoa học công nghệ thực chất địa phương là 71.3%. Đây là kết quả cho thấy có
đầu tư cho hoạt động sáng tạo của các nhà nghiên sự chênh lệch rất lớn về giới tính, nếu như không
cứu, còn 80% nằm ở khâu đầu tư gián tiếp). phải những lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất
thiết (chỉ có thể do nam giới thực hiện) thì rất cần
Thực trạng đội ngũ cán bộ nghiên cứu
có sự điều chỉnh về tiêu chí bình đẳng giới khi đề
khoa học
xuất với các cơ quan có thẩm quyền về những quan
Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, điểm, định hướng và giải pháp phát triển đội ngũ
đến năm 2016, nước ta đã có hơn 24.300 Tiến sĩ, viên chức khoa học và công nghệ ở cả khối trung
101.000 Thạc sỹ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng ương và khối địa phương trong thời gian tới.
trung bình 11,6%/năm, trong đó Tiến sỹ tăng 7%/
Về độ tuổi của viên chức khoa học và công nghệ:
năm, Thạc sỹ tăng 14%/năm. Hiện cả nước có hơn
Số lượng viên chức khoa học và công nghệ có độ
10.774 Giáo sư, Phó Giáo sư, tuổi trung bình của
tuổi từ 31 đến 40 chiếm tỷ lệ lớn nhất (39.9%),
cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
tiếp đến là độ tuổi từ 41 đến 50 (25.8%) và 30 trở
quân chung là 57,2 tuổi. Số cán bộ học vị, học hàm
xuống (22.6%). Độ tuổi từ 51 trở lên chiếm tỷ lệ
cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ
thấp nhất (11.7%). Nếu tính độ tuổi từ 41 trở lên
56 trở lên là 65,7%, riêng Giáo sư chiếm tới 77,4%
là đã có khả năng tư duy độc lập trong nghiên cứu
và Phó Giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa
khoa học thì tỷ lệ này ở khối trung ương là 41.4%
tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm
và địa phương là 37.5%. Đây là tỷ lệ khá hợp lý
thì phần đông Giáo sư có tuổi trên 60 và Phó Giáo
trong cơ cấu tuổi và khả năng cung ứng sản phẩm
sư có tuổi từ 56 đến 60. Trong số các Giáo sư và
khoa học công nghệ đối với viên chức khoa học và
Phó Giáo sư thì nam là 83,5%, nữ 16,5% (3). Khi
công nghệ. Tuy nhiên, tỷ lệ độ tuổi từ 40 trở xuống
một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt
chiếm lớn nhất (62.5%), cũng cho thấy điểm chưa
đang về già và sẽ không có khả năng làm việc thì
hợp lý là lực lượng nghiên cứu chính chưa đủ đáp
đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị
ứng yêu cầu rất cao của sự nghiệp công nghiệp
bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa
hóa, hiện đại hóa. Tình trạng thiếu hụt nhà khoa
học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra trong tương
học giỏi, nhà khoa học đầu ngành hơn lúc nào hết
lai rất gần.
là vấn đề đáng lo ngại do số lượng nhà khoa học
Ngoài ra, còn có nhiều cán bộ nghiên cứu triển có trình độ cao và có kinh nghiệm ngày càng giảm
khai thuộc các viện nghiên cứu, trung tâm và nhiều do đến tuổi nghỉ hưu, đặc biệt là các nhà khoa học
nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong đầu ngành, các tổng công trình sư đủ năng lực
các trường đại học, cao đẳng, cơ sở đào tạo sau đại chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan
học. Đây thực sự là nguồn nhân lực nòng cốt cho trọng, quy mô quốc gia và quốc tế. Số lượng viên
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, được đào chức khoa học và công nghệ trẻ là lực lượng kế cận
tạo từ nhiều nguồn khác nhau. khá đông nhưng lại có khoảng cách quá xa (về độ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 145 - tháng 11/2019 9
- NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
tuổi, kinh nghiệm, năng lực, lòng say mê) với thế Các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á khác
hệ đi trước. như Hàn Quốc, Đài Loan cũng có bước tiến rất ấn
tượng. Nếu năm 1996 chỉ có Nhật Bản và Trung
Về trình độ học vấn, học vị: Tỷ lệ viên chức
khoa học và công nghệ có trình độ Thạc sĩ và Tiến Quốc lọt vào top 15 của thế giới về số ấn phẩm
sĩ chiếm 27.5% (ở địa phương, tỷ lệ này chỉ đạt 7%), khoa học thì năm 2011 đã có cả Hàn Quốc và Đài
trình độ Đại học là 60.7%. Tỷ lệ có trình độ Cao Loan lọt vào danh sách này.
đẳng và tỷ lệ có trình độ Trung cấp là 11.2%, tuy Trong thời gian 15 năm qua (2001-2015), các
nhiên, con số này ở địa phương là khoảng 28%. Tỷ nhà khoa học Việt Nam đã công bố được 18.076
lệ này nói chung khá phù hợp với thống kê về tỷ bài báo khoa học trên các tập san trong danh mục
lệ chức danh nghề nghiệp đã nêu trên. Tuy nhiên, ISI. So sánh với các nước Đông Nam Á trong cùng
viên chức khoa học và công nghệ có trình độ cao thời kỳ, số bài báo khoa học của Việt Nam đã vượt
(Tiến sỹ), viên chức khoa học và công nghệ giữ qua Indonesia và Philippines, nhưng vẫn còn thấp
chức danh khoa học chủ yếu tập trung ở các cơ hơn so với Thái Lan, Malaysia và Singapore. Số bài
quan trung ương và các trường đại học. Chính sự báo khoa học của Việt Nam chỉ mới bằng 28% của
phân bố không đồng đều đã dẫn tới hệ quả là thiếu Thái Lan, 25% của Malaysia và 15% của Singapore.
hụt một lực lượng lớn các nhà nghiên cứu đảm Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore,
nhiệm các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở các ba lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái Lan.
địa phương, đặc biệt là các địa bàn xa xôi, miền núi.
Số bài báo liên tục tăng nhanh, từ 362 bài
Có thể nói, sự phân bố lực lượng lao động khoa (2001) lên 2.906 bài (2015). Tính trung bình, tỷ lệ
học mất cân đối giữa các ngành, các khu vực, giữa tăng trưởng mỗi năm là 17%. Tỷ lệ tăng trưởng của
các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra Việt Nam có phần cao hơn so với Thái Lan (13%/
hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng làm năm), nhưng thấp hơn so với Malaysia (22%/năm).
sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các Malaysia xuất phát thấp hơn Thái Lan, nhưng có tỷ
vùng, các ngành. lệ tăng trưởng cao, đến nay đã vượt qua Thái Lan,
Thực trạng công trình khoa học được công bố và dự kiến sẽ vượt qua Singapore trong vài năm tới.
Mặc dù, có đội ngũ nhân lực khoa học và công Tuy số bài báo khoa học trên các tập san quốc tế
nghệ hùng hậu, nhưng trên thực tế Việt Nam chưa của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây
có nhiều công trình, sản phẩm nổi bật, mang tính (17%/năm), nhưng vì điểm xuất phát thấp nên vẫn
đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Số công trình còn một khoảng cách khá xa so với hai nước đang
khoa học được công bố quốc tế có tốc độ tăng trung lên là Thái Lan và Malaysia, cũng như Singapore.
bình 22%/năm, nhưng giá trị tuyệt đối và chỉ số Cho đến nay, số bài báo khoa học của Việt Nam
trích dẫn còn thấp, nhất là khi so sánh với các nước vẫn chỉ bằng 15% của Singapore và thấp hơn 1/3
trong khu vực và thế giới. Tổng số công bố khoa học của Thái Lan và Malaysia. Với tốc độ tăng trưởng
và công nghệ của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu Web như hiện nay, có thể ước tính rằng đến năm 2030,
of Science giai đoạn 2010-2014 là 9.976 bài báo, xếp số bài báo khoa học của Việt Nam cũng chỉ bằng
thứ 59 trên thế giới; so với khu vực, Việt Nam đứng Singapore năm 2015, và đến năm 2025 Việt Nam
sau Singapore (xếp thứ 32), Malaysia (xếp thứ 38) cũng chỉ bằng Thái Lan của năm 2015. Nói cách
và Thái Lan (xếp thứ 43), cao hơn Indonesia (xếp khác, Việt Nam tụt hậu khoảng 10 năm so với Thái
thứ 62) và Philipinnes (xếp thứ 66). Lan và 15 năm so với Singapore.
Theo phân tích từ số liệu ISI, trong vòng 15 Nhà nước đã và đang tăng cường đầu tư cho
năm gần đây số lượng ấn phẩm khoa học mà các hoạt động khoa học và công nghệ, nhưng hiệu quả
nhà khoa học Trung Quốc công bố hàng năm tăng của đầu tư chưa được đánh giá một cách đầy đủ
gần 14 lần, từ 27.549 (hạng 9/147) năm 1996 đến và hệ thống vì một trong những “sản phẩm” quan
373.756 bài (hạng 2/147) năm 2011. trọng của nghiên cứu khoa học, bất kể là khoa học
10 Số 145 - tháng 11/2019 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
- cơ bản hay khoa học ứng dụng, là bài báo khoa tiếp, kể cả đối với người tốt nghiệp bằng giỏi hay
học trên các tập san quốc tế. Những phân tích trên Thạc sỹ, Tiến sĩ.
cho thấy trong thời gian 2001-2015, “bức tranh”
- Đối với đào tạo, bồi dưỡng: Ưu tiên đào tạo,
chung về sự tăng trưởng của hoạt động khoa học
bồi dưỡng viên chức khoa học và công nghệ theo
về lượng, nhưng chưa có một sự biến chuyển đáng
các lĩnh vực nghiên cứu ưu tiên mà Đảng và Nhà
kể về chất.
nước đã xác định, phù hợp với kế hoạch phát triển
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là của đơn vị, gắn liền với việc phân cấp các nhóm
trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh đối tượng viên chức khoa học và công nghệ và có
tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem chế độ đãi ngộ với các viên chức khoa học và công
nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nghệ hoàn thành xuất sắc chương trình đào tạo,
nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số bồi dưỡng.
năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa
- Đối với công tác sử dụng, bố trí cán bộ: Cần
học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền
sớm xem xét, điều chỉnh việc bố trí, sử dụng, điều
kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không
động, luân chuyển, biệt phái viên chức khoa học và
thể phát triển được. Trong khoa học, nếu chỉ coi
công nghệ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp
trọng những ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi
với năng lực, sở trường. Bố trí, đề bạt viên chức
nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến
khoa học và công nghệ đúng lúc, đúng người, đúng
chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm
việc; có cơ chế phân bổ, điều động, luân chuyển đội
chủ các lĩnh vực khoa học công nghệ mới.
ngũ cán bộ khoa học công nghệ phù hợp ở cả trung
Một số giải pháp đề xuất ương và địa phương.
Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học Về hoàn thiện chính sách đầu tư từ ngân sách
nhà nước cho khoa học và công nghệ
- Đối với công tác tuyển dụng: Để rút ngắn thời
gian có được đội ngũ viên chức khoa học và công - Tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư ngân
nghệ đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong tuyển dụng nghệ, nhằm phân bổ nguồn lực ngân sách nhà
viên chức khoa học và công nghệ, nên áp dụng nước tương xứng với nhu cầu phát triển khoa học
hình thức thi tuyển kết hợp với phỏng vấn trực và công nghệ hiện nay, từ đó đảm bảo sử dụng hiệu
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 145 - tháng 11/2019 11
- NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
quả nguồn lực ngân sách nhà nước cho khoa học một chiều đã trở nên xưa cũ. Sinh viên từ năm
và công nghệ. thứ ba trở đi cần được khuyến khích làm các đề tài
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ khoa học trong khuôn khổ đào tạo theo phương
chức trong quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách pháp “project-based learning”, vừa học vừa thực
nhà nước cho khoa học và công nghệ, từ đó tránh hành nghiên cứu và làm báo cáo khoa học dưới
sử dụng không đúng mục đích, lãng phí, làm thất sự hướng dẫn của các Giáo sư. Thông qua các đề
thoát ngân sách nhà nước. tài nghiên cứu như vậy mà sinh viên học được
phương pháp, tiếp cận thông tin mới, học cách
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với tranh luận khoa học và đủ tự tin sau khi ra trường
kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ; sớm tham gia vào các đề tài khoa học. Bên cạnh đào
xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn tạo chính quy, các trường, viện nghiên cứu và tạp
thành và chất lượng về thực hiện nhiệm vụ được chí khoa học nên mở các lớp tập huấn định kỳ
giao của các đơn vị khoa học và công nghệ; cần có hoặc thường xuyên về phương pháp nghiên cứu
quy định chặt chẽ, cụ thể, nâng cao trách nhiệm và kỹ năng viết bài theo chuẩn mực quốc tế cho
của các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập; tiếp cán bộ nghiên cứu. Các chuyên gia quốc tế có uy
tục hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác tín có thể được mời để chia sẻ thông tin và hướng
tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình kết quả dẫn các kỹ năng cần thiết.
nghiên cứu của các đơn vị cung cấp các dịch vụ về
khoa học và công nghệ. - Các tạp chí khoa học trong nước cần chuyển
mạnh sang hướng quốc tế hóa cả về nội dung bài
- Tiếp tục rà soát, sắp xếp, chuyển đổi các tổ vở, bình duyệt chuyên môn, kỹ năng biên tập và
chức nghiên cứu khoa học sang đơn vị sự nghiệp tự tăng cường trao đổi với quốc tế qua những kênh
trang trải kinh phí. Ngân sách nhà nước không cấp trao đổi học thuật khác nhau. Cách làm này sẽ giúp
kinh phí hoạt động quản lý bộ máy thường xuyên khắc phục tình trạng dễ dãi như vẫn thấy trong việc
mà thông qua nhiệm vụ các tổ chức khoa học và đăng bài khoa học, và tập cho các nhà nghiên cứu
công nghệ được thực hiện. viết bài có chuẩn mực, để họ không quá xa lạ với
Để phát triển thị trường khoa học và công nghệ các thông lệ quốc tế.
cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó có
TÀI LIỆU THAM KHẢO
liên quan đến nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà
nước. Ngoài ra, cũng cần đa dạng các kênh đầu tư, 1. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc
gia (2015), Báo cáo Kết quả điều tra tiềm
đặc biệt là huy động từ khu vực doanh nghiệp, thì
lực khoa học và công nghệ 2014;
các mục tiêu chiến lược mới có thể đạt được.
2. Dữ liệu trình bày trong bài này được trích
Về hỗ trợ, khuyến khích xã hội hóa các sản phẩm từ cơ sở dữ liệu Web of Science (WoS) của
nghiên cứu khoa học và công nghệ ISI Thomson. WoS bao gồm 11.762 tập san
khoa học có bình duyệt. Tất cả các bài báo
- Thực hiện chính sách khen thưởng bằng tiền nguyên thủy (original papers) công bố trong
mặt nhằm hỗ trợ thúc đẩy công bố quốc tế đã đưa thời gian 2001-2015 được tải về máy tính,
lại hiệu quả tích cực. Đối với các dự án nhận nguồn và phân tích bằng chương trình máy tính R;
hỗ trợ tài chính từ công quỹ, cần có chính sách cụ 3. Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ
thể, yêu cầu nhà nghiên cứu khi nhận tài trợ phải phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
cam kết công bố kết quả ở các tạp chí khoa học đại hóa và hội nhập quốc tế”;
quốc tế thay vì tổ chức nghiệm thu rồi cất vào tủ 4. Nguồn: World Bank, www.data.worldbank.
như đã và đang làm. org và OECD, Science, Technology and
Industry Outlook 2010, Tr. 116 và Tr.198
- Về lâu dài, cần thay đổi căn bản đào tạo ở (trích từ Đề án “Phát triển khoa học và
đại học theo hướng nghiên cứu thay vì vẫn duy công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp
trì hình thức giảng dạy kiểu truyền đạt tri thức hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”).
12 Số 145 - tháng 11/2019 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
nguon tai.lieu . vn