Xem mẫu

  1. THU THẬP TÀI LIỆU VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN SUY THOÁI CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: 1. Biến đổi khí hậu là gì? “Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo”. 2. Biểu hiện của thay đổi khí hậu: - Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung. - Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất. - Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển. - Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người. - Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác. - Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển. - Các quốc gia trên thế giới đã họp tại New York ngày 9/5/1992 và đã thông qua Công ước Khung về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc. Công ước này đặt ra mục tiêu ổn định các nồng độ khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp của con người đối với hệ thống khí hậu. Mức phải đạt nằm trong một khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với sự thay đổi khí hậu, bảo đảm việc sản xuất lương thực không bị đe doạ và tạo khả năng cho sự phát triển kinh tế tiến triển một cách bền vững. 3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu: Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng (khoảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 -200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.
  2. Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển. Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác. Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ. Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước Biến đổi khí hậu. Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn). Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song
  3. vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn cầu; các nước châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto. Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH là: “Các bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống BĐKH và những ảnh hưởng có hại của chúng”. Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% khối lượng, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon, hêli, hyđrô, ôzôn,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí CO2, CH4, NOx, và CFCs - một loại khí mới chỉ có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì các chất khí nói trên hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất. Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí nhà kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của
  4. chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất sẽ khoảng 18oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng nhà kính”. Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành một lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và thông qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10.000 năm, nồng độ các chất khí nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ lệ từ 6,4 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 – 2005. Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (bụi, cacbon hữu cơ, sulphat, nitrat…) gây ra hiệu ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng trực tiếp là 0,5W/m2 và gián tiếp phản xạ của mây là 0,7W/m2; thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng 0,02W/m2; trái lại, sự gia tăng khí ôzôn trong tầng đối lưu do sản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi trong hoạt động của mặt trời trong thời kỳ từ năm 1750 đến nay được xác định là tạo ra hiệu ứng dương đối với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m2. Như vậy, tác động tổng cộng của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức âm. Vì thế, trên thực tế, sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với những gì đã quan trắc được, và điều đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là do các hoạt động của con người chứ không phải do quá trình tự nhiên. Nguyên nhân của nước biển dâng Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của
  5. đại dương và các yếu tố khác. Mực nước biển được đo thông qua hệ thống thiết bị đo triều ký đặt tại các trạm hải văn hoặc các máy đo độ cao vệ tinh. Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu. Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt của các đại dương, các sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền. Các kết quả nghiên cứu gần đây đưa ra dự báo mực nước biển sẽ cao hơn từ 0,5 – 1,4m vào cuối thế kỷ XXI. Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khôn lường. Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc triệu tập tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng của bầu khí quyển Trái đất, vốn được coi là nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005. Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, hội nghị lần thứ 12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về khí hậu, phiên họp thứ 2 của các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên hiệp quốc tổ chức tại Nairobi, thủ đô Kenya. 4. Hiện tượng và bản chất tăng nhiệt độ bề mặt trái đất: Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đầu trên thế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin và dự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Mới đây, ông Mark Lowcok, quan chức của Bộ Phát triển Quốc
  6. tế Anh đã đến thăm Việt Nam và có buổi thuyết trình về “Báo cáo Stern” do các nhà khoa học Anh xây dựng, được chính phủ Anh công bố về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu. Báo cáo cho rằng nếu không thực hiện được chương trình hành động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto, đến năm 2035 nhiệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% khả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C. Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên với tốc độ như vậy với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Vậy, nguyên nhân nào đã gây ra hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ? Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra từ các công trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế. Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó là việc tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này chiếm 90, thậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo động. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất đã được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập kỷ gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt trời và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt của một hàm lượng khí CO 2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh mông lạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa cho sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển dao động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm. Số liệu quan trắc trong 4 thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính do khí CO2 gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí
  7. quyển (trên 30% tổng khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto. Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của Trái đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO 2 làm tăng hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con người gây ra trong mấy trăm năm gần đây. Vì vậy, theo tôi cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và chúng cùng tác động gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất thường như hiện nay. Do đó, cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay bằng quan điểm biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính. 5. Hiện tượng và bản chất dâng cao mực nước đại dương: Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô lớn như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990). Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ
  8. tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard Alley ở Đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở Greenland bị tan cũng tạo ra một khối nước mới trong các đại dương đủ để làm ngập tiểu bang Florida của Hoa Kỳ và nhiều vùng duyên hải khác trên thế giới. II. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI VIỆT NAM Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu. Riêng năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra trên toàn quốc ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. 73% dân số bị ảnh hưởng. Tại hội thảo liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận định: 73% dân số, chủ yếu là người nghèo (liên quan đến 6 lĩnh vực chính trong ngành NN&PTNT là: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản thuỷ lợi và phát triển nông), là đối tượng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất. Hiện tượng El Nino đã gây ra hạn hán nghiêm trọng tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ với thiệt hại 312 triệu USD. Ở Trung Bộ, những năm có La Nina, số lượng trận lũ tăng 1,4 lần, hạn hán đông xuân thường xảy ra nghiêm trọng. Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng liên tục phải đối phó với hạn hán gay gắt do mực nước sông Hồng liên tục xuống thấp đến mức lịch sử. 10 năm qua, nhiều đợt hạn hán đã hoành hành gây thiệt hại nặng nề đối với sản xuất nông lâm nghiệp. Trong khi đó, bão lũ lại liên tiếp xảy ra ở các địa phương khác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng trong năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra ở 50 tỉnh thành phố trên cả nước ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. Cùng với đó là gần 440 người chết, mất tích; hàng trăm nghìn ha lúa bị hư hại; hàng chục nghìn công trình dân sinh, thủy lợi bị phá hủy; tình trạng thiếu đói xảy ra liên miên;... Trận lụt lịch sử ở nước ta năm vừa qua. (Ảnh: Việt Hưng)
  9. Bộ Tài nguyên - Môi trường chính thức thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%. TS Nguyễn Hữu Ninh cảnh báo: Việt Nam có hai thành phố ven biển lớn nhất là Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu trong vòng 20-50 năm tới. Như những trận triều cường lịch sử ở TPHCM cuối năm qua, chủ yếu là do ảnh hưởng của nước biển dâng và gia tăng nhiệt độ toàn cầu. 1. Biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng đến đời sống của con người: Khí hậu là yếu tố sống còn cho sự sinh tồn trên trái đất vì nó ảnh hưởng đến sự an toàn thực phẩm, cuộc sống, tài sản, nguồn nước và sự phát triển bền vững. Ngoài ra, trong một phạm vi nhất định, khí hậu còn có tác động đến tâm trạng, tính cách, thậm chí cả tư duy và văn hóa của con người. Tuy nhiên, đã có những bằng chứng ngày càng rõ nét là con người đã và đang làm thay đổi những đặc tính của lớp khí quyển mỏng manh bao quanh trái đất có liên quan đến khí hậu mà nó tạo ra. Chúng ta đã biết đến những biến đổi khí hậu đã xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, những biến đổi đó là do những nguyên nhân tự nhiên. Những biến đổi gần đây theo số liệu đo đạc được trong hơn một thế kỷ qua cho thấy nhiệt độ trên toàn cầu tăng lên 0,60C. Sự nóng lên này được ghi nhận có mối liên quan với sự tăng nồng độ khí CO2 lên 32% về thể tích tính từ năm 1750 đến cuối năm 2001. Cùng thời gian đó nồng độ khí Mê-tan trong khí quyển tăng 151%, Ô-xít-ni-tơ tăng 170%. Kết quả là độ dày lớp băng ở Bắc Băng Dương và ở Nam Cực giảm 40% làm cho mực nước biển trên toàn cầu được nâng lên 10-20 cm. Hơn 30 năm qua, những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt, hạn hán,... đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới mà điển hình là thập niên 90 của thế kỷ 20, đe dọa nghiêm trọng đến đời sống của 1,2 tỉ người dân sống dựa vào đất đai, kèm theo đó là những biến đổi nghiêm trọng của hệ động, thực vật trên khắp hành tinh của chúng ta. Sự biến đổi khí hậu cũng làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người bằng nhiều đường bởi các loại truyền bệnh trung gian (vi trùng, côn trùng), các tác nhân gây bệnh, chất lượng nước và không khí,... Các nhà khoa học đã tính được rằng, trong tương lai nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu sẽ tăng 1,4 – 5,80C, mực nước biển sẽ dâng từ 9 – 88 cm trong thời kỳ từ năm 1990-2100, làm ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, xã hội ở những vùng đất thấp duyên hải, các hải cảng, một số vùng đất nông nghiệp, nguồn nước ngọt và các khu du lịch. Cũng trong thế kỷ 21 mưa sẽ tăng mạnh mẽ hơn ở vùng vĩ độ vừa và cao, ngược lại ở vùng có vĩ độ thấp mưa sẽ giảm ở một số khu vực này nhưng lại tăng mạnh ở một số khu vực khác, làm cho tình hình hạn hán, lũ lụt ngày càng trở nên phức tạp hơn. Tỉnh Bình Định cũng nằm trong xu thế biến đổi khí hậu như trên. Theo các tài liệu thống kê có được ở Bình Định từ những năm 60 của thế kỷ trước trở lại đây đã cho thấy sự tăng trưởng nhiệt độ trung bình tháng giêng là 0,50C, trong tháng 7 là 0,70C. Những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt, hạn hán, diễn biến phức tạp và khốc liệt hơn, mức độ thảm họa gây ra cho nhân
  10. dân trong tỉnh nhiều hơn; điển hình là các trận lụt trong các năm 1996, 1999, các trận bão ở các năm 1995, 2001 đã gây thiệt hại cho nền kinh tế của tỉnh hàng nghìn tỉ đồng và hàng trăm người thiệt mạng. Tình trạng ít mưa kéo dài trong những năm 1993, 1997, 1998, 2001 gây hạn hán, ảnh hưởng lớn đến nền sản xuất của nhân dân. Sự ô nhiễm nguồn nước đưa đến sự biến đổi hệ sinh thái của vật nuôi, cây trồng và sức khỏe của nhân dân ngày càng thể hiện rõ nét ở Bình Định. Trong tương lai, tốc độ phát triển công nghệ tiên tiến sẽ dẫn đến giảm độ bất định của khí hậu và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của chúng ta. Các nhà khoa học đang nghiên cứu các giải pháp công nghệ để giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế của con người với các yếu tố môi trường, ví dụ sử dụng năng lượng sạch trong đời sống. 2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp: Với mục tiêu phát triển kinh tế bằng mọi giá, từ hàng thế kỷ nay, loài người đã và đang khai thác kiệt quệ, tàn phá nguồn tài nguyên sinh thái dẫn đến hậu quả là môi trường sống của chính con người đang bị đe doạ nghiêm trọng và khí hậu đang ngày càng bị biến đổi nhanh. Đồng thời với các hành động tàn phá trực tiếp thiên nhiên, hàng ngày con người đã trực tiếp và gián tiếp thải vào môi trường hàng chục triệu tấn chất thải rắn, lỏng và khí, mà trong số đó có nhiều chất gây biến đổi hiệu ứng nhà kính. Bão tố, động đất, lũ lụt với sức tàn phá ghê gớm là hậu quả tất yếu do cách đối xử tàn bạo của con người đối với thiên nhiên. Theo dự báo của các nhà khoa học, hậu quả của biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ không dừng lại ở đó mà sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến nhiều lĩnh vực kinh tế và đời sống, trong đó có sản xuất nông nghiệp. BĐKH sẽ khiến nhiệt độ trái đất tăng và băng ở bắc cực tan dẫn đến n ước biển dâng cao và lúc đó một phần diện tích vùng đồng bằng của nước ta sẽ bị ngập trong nước biển. Dự báo diên tich rông lớn cua đông băng sông Mê Công, sông Hông ̣ ́ ̣ ̉ ̀ ̀ ̀ và ven biên Miên Trung sẽ bị ngâp lut. Trước hết là các khu vực rừng ngập mặn ̉ ̀ ̣ ̣ của Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định sẽ bị nhấn chìm trong nước biển. Thay đôi chế độ mưa có thể gây lũ nghiêm trong vao mua mưa và han han ̉ ̣ ̀ ̀ ̣ ́ vao mua khô; gia tăng về cường độ và tân suât cac cơn bao, giông tố gây lũ lớn và ̀ ̀ ̀ ́ ́ ̃ ngâp lut, lũ quet, trượt lở đât và xoi mon; gia tăng thiêu hut nước và tăng nhu câu ̣ ̣ ́ ́ ́ ̀ ́ ̣ ̀ dung nước, đoi hoi đap ứng câp nước và mâu thuân trong sử dung nước. Năng suất ̀ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ̣ và sản lượng cây trồng và vật nuôi có thể bị giảm do biên độ giao động của nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố ngoại cảnh khác tăng lên. Nguồn cung cấp thức ăn chăn nuôi giảm hạn chế phát triển chăn nuôi. Nhiệt độ tăng cùng với biến động về các yếu tố khí hậu và thời tiết khác có thể làm giảm sức đề kháng của vật nuôi, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển bùng phát, gây ra những đại dịch trên gia súc, gia cầm. Đa dạng sinh học bị ảnh hưởng mạnh mẽ của BĐKH, thành phần và phân bố địa lý của các hệ sinh thái sẽ thay đổi. Vùng khô hạn và bán khô hạn sẽ trở lên khắc nghiệt hơn. Hầu hết các vùng đất cát ven biển miền Trung sẽ trở lên nóng và khô hạn hơn làm tình trạng sa mạc hoá diễn ra trầm trọng. Đến năm 2070 các loại cây trồng có thể lên đến độ cao 550 m et và hướng lên phía ́ bắc 100-200 km so với hiện tại, cây á nhiệt đới giảm. Phân bố ranh giới các kiểu
  11. rừng nguyên sinh, thứ sinh có thể dịch chuyển, tăng nguy cơ tiệt chủng của động thực vật, nguồn gien quí hiếm. Nhiệt độ tăng làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá cận nhiệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm, trữ lượng các loài hải sản kinh tế bị giảm sút. BĐKH tăng một số nguy cơ đối với sức khoẻ con người làm thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Sẽ xuất hiện nhiều bệnh mới lạ và đang "toàn cầu hóa" nhiều loại bệnh trước đây chỉ khu trú trong một khu vực địa lý nhỏ. Thế giới đã ghi nhận 30 căn bệnh mới xuất hiện trong 3 thập kỷ qua, sự bùng nổ bệnh mới chưa từng thấy kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp đưa con người sống tập trung các đô thị. Theo WHO, trái đất nóng lên có thể sẽ làm hơn 150.000 người chết và 5 triệu người bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số trên có thể sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030. Trước nguy cơ tiềm ẩn của BĐKH, loài người phải có các hành động thiết thực, cụ thể và khẩn trương để cứu lấy môi trường sống của chính mình. Các hoạt động giảm thiểu và thích ứng với BĐKH của ngành NN&PTNT sẽ là bộ phận quan trọng của Chiến lược quốc gia về thích ứng và giảm thiểu tác động BĐKH. Để phát triển bền vững ngành NN&PTNT trong bối cảnh BĐKH, vấn đề xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình Hành động thích ứng và giảm thiểu BĐKH của ngành NN&PTNT là hết sức cần thiết. Đối với ngành chăn nuôi, đồng thời với sự phát triển ồ ạt các loại vật nuôi, cần phải có chiến lược giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bởi vì chất thải chăn nuôi không được xử lý là một trong những “thủ phạm” gây biến đổi hiệu ứng nhà kính do các loại khí CO2, NH4… có trong phân và nước tiểu của động vật phát tán vào bầu khí quyển. Theo dự báo của Trung tâm Quốc tế về Quản lý Môi trường (ICEM), nhiều vùng như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... của Việt Nam sẽ ngập chìm từ 2- 4m trong vòng 100 năm tới. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP): Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất đối với biến đổi khí hậu và khi mực nước biển tăng 1 mét ở VN sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp (tương đương 5 triệu tấn thóc) và 10% thu nhập quốc nội GDP. Để xây dựng một chương trình hành động chuẩn xác và đi đúng hướng, hầu hết các chuyên gia về môi trường cho rằng: Cần phải xây dựng một kịch bản cho Việt Nam, bởi kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới về lĩnh vực này còn có nhiều sự khác biệt. Cụ thể, Ngân hàng Thế giới (WB) tính toán mực nước biển sẽ dâng là 1m, nhưng kết quả nghiên cứu của Ủy ban liên chính phủ về Thay đổi khí hậu (IPCC) mực nước biển dâng là 69cm kèm theo trong điều kiện băng tan không đột biến; sự tan băng ở các vùng cực của trái đất cũng khác nhau và vấn đề khí hậu và biến đổi khí hậu ở mỗi quốc gia cũng có những diễn biến khác nhau. Hơn nữa, vấn đề biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là của ngành nông nghiệp mà nó còn liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nữa. Do vậy, các nhà khoa học phải chỉ rõ vùng nào của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của băng tan, phân tích cụ thể diện tích vùng bị ngập, vùng phải di chuyển và ảnh hưởng đến các vùng khác chưa được đề cập tới. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã xây dựng chương trình hành động với cả hai kịch bản dự báo của WB và IPCC. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đào Xuân Học: Cho dù là kịch bản nào thì vấn đề biến đổi khí hậu đã xảy ra và sẽ tác động mạnh mẽ đến nước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Bởi vì, Việt Nam có 74% diện tích đất nông
  12. nghiệp, gần 80% người dân đang sinh sống ở vùng nông thôn và sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp. Song song với việc nghiên cứu, xây dựng chương trình hành động, Việt Nam vẫn cần tiếp tục tiến hành những việc liên quan đến giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu như: trồng rừng, sử dụng công nghệ sạch, vấn đề giảm khí thải vào không khí... Dự kiến, đến tháng 6/2008, Bộ NN & PTNT sẽ hoàn thành báo cáo trình lên Thủ tướng Chính phủ cùng với các vấn đề biến đổi khí hậu chung của cả nước. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ hình thành kinh phí và lộ trình thực hiện, trở thành chương trình hành động chung của cả nước. 3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các tỉnh ven biển Việt Nam: Biến đổi khí hậu là mối đe doạ thực sự đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt, các vùng ven biển Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều nhất do BĐKH gây ra như hạn hán, bão, lũ lụt , gây thiệt hại rất lớn về người và của. Đây là nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực kém, tỷ lệ nghèo gia tăng, làm giảm khả năng ứng phó đối với các thiên tai do BĐKH gây ra. Việt Nam có lịch sử lâu dài đối phó với thiên tai và có nhiều biện pháp ứng phó khi có thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, BĐKH khiến nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1C/ thập kỷ, mực nước biển dâng cao,lượng mưa tăng vào mùa mưa gây nên lũ lớn đặc biệt và giảm vào mùa khô gây nên hạn hán, tần suất thiên tai ngày càng cao đã gây nhiều thiệt hại cho nhiều vùng ở Việt Nam. Các vùng ven biển Việt Nam có dân số khỏang 18 triệu người, chiếm gần ¼ dân số cả nước trong đó diện tích đất sử dụng chỉ chiếm 16% tổng diện tích cả nước. 58% dân cư vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá. BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế ở các cùng ven biển Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển được coi là ngành có tăng trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao và cũng là ngành chịu nhiều thiệt hại nhất do BĐKH. Theo Bộ NN&PTNT, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản đạt 3,2 tỷ USD và tính đến hết tháng 11/2007, tổng sản lượng thuỷ, hải sản xuất khẩu ước đạt 3.684 nghìn tấn, đạt 96,93% kế hoạch năm và tăng 7,96% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, sản lượng khai thác tăng 0,6%, đạt 1.898 nghìn tấn; sản lượng nuôi trồng đạt 1.786 nghìn tấn, tăng 17%. ước giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 11 đạt 350 triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch XKTS 11 tháng năm 2007 đạt 3.427 triệu USD, bằng 95,19% kế hoạch và tăng 11,8% so với cùng kỳ 2006. Mặc dù, đạt những kết quả như vậy, nhưng do ảnh hưởng của BĐKH như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ở các vùng ven biển Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2006, hai cơn bão Chanchu và cơn bão Xangsane đã ảnh hưởng trực tiếp và gây thiệt hại nặng nề cho ngành chế biến thuỷ sản các tỉnh ven biển miền Trung: 3.974 ha đầm nuôi cá, tôm bị ngập kéo theo 494 tấn cá tôm bị phá huỷ, 951 tầu thuyền đánh cá bị chìm, ước tính thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tháng 11/2007, do ảnh
  13. hưởng của bão số 7, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông và ảnh hưởng của gió mùa đông bắc hoạt động mạnh đã làm hạn chế các hoạt động khai thác thuỷ sản. Tại các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Khánh Hoà, Phú Yên, đây là những nơi có sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá biển, nhuyễn thể, cua, ghẹ lớn …Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi trong thời gian vừa qua, mưa nhiều khiến cho dịch bệnh phát triển, nguồn nước thay đổi nhanh khiến cho các đối tượng nuôi khác như tôm hùm, rong sụn tại một số địa phương như Khánh Hoà, Phú Yên bị chết, khiến cho nhiều bà con nông, ngư dân bỗng chốc trắng tay. Ngoài việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nuôi trồng thuỷ sản của các vùng ven biển Việt Nam, BĐKH mà cụ thể là mực nước biển dâng cao còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nó đã trở thành một trong những vấn đề nan giải tại một số địa phương. Đồng bằng sông Cửu Long với 1,77 triệu ha đất nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích và đây là địa phương có diện tích đất nhiễm mặn lớn nhất. Nếu mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao lên 30cm theo kịch bản BĐKH năm 2050, tình trạng nước mặn kèm theo mất đất và xâm mặn ở đồng bằng sông cửu long và một số khu vực đồng bằng sông hồng, là những khu vực nông nghiệp quan trọng là nơi cung cấp một lượng gạo xuất khẩu lớn nhất cả nước. Nếu tình trạng này xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, nếu mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản phải di dời và xâm mặn, diện tích rừng ngập mặn giảm sẽ làm mất nơi cư trú của các sinh vật nứơc ngọt. BĐKH khiến cho thiên tai như lũ lụt, bão xuất hiện với tần suất nhiều hơn, xâm mặn, hạn hán và bão, cả nền nông nghiệp lẫn các hệ sinh thái thiên nhiên chắc chắn còn bị ảnh hưởng do nhiệt độ tăng tối thiểu, số ngày có nhiệt độ dưới 20 C giảm đi (0-50 ngày vào năm 2070) và số ngày có nhiệt độ trên 25C tăng lên (0-80 ngày vào năm 2070). Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng xấu đến các thời kỳ sinh trưởng, thời vụ và phân bố cây trồng, làm tăng hoạt động của sâu hại và vi- rút . Theo dự báo, BĐKH sẽ làm sản lượng lúa hè thu giảm từ 3 đến 6% vào năm 2070 so với giai đoạn 1960-1998, sản lượng vụ lúa đông xuân có thể giảm tới 17% vào năm 2070 đối với miền Bắc, giảm 8% vào năm 2070 đối với miền Nam, sản lượng ngô đông xuân có thể giảm 4% ở miền Trung và 9% ở miền Nam. BĐKH còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khảo của dân cư sống tai các vùng ven biển Việt Nam. Nhiệt độ tăng sẽ tạo điều kiện cho các vi rút, vật mang bệnh khác nhau sinh trưởng và phát triển làm cho tỷ lệ các bệnh truyền nhiễm như sốt rét, bệnh Denga cao hơn. Hơn nữa, thời tiết khắc nghiệt và tăng tần suất, tăng cường độ thiên tai như bão và lũ lụt, sẽ đe doạ tính mạng người dân và có thể dẫn đến nhiều tử vong hơn, nếu không áp dụng các biện pháp giảm thiểu và thích ứng quan trọng. Theo Báo cáo BĐKH và Phát triển con người ở Việt Nam, các vụ thiên tai lớn gần đây đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng kinh tế cũng như thiệt hại về con người. Cụ thể như tính từ năm 1996 đến năm 2005, các trận lũ ở Đồng bằng sông Hồng và ảnh hưởng của các cơn bão ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã làm chết gần 100 người, làm đổ và hư hỏng 197.696 căn nhà, gần 2,3 triệu ha lúa bị ngập úng, gần 67.000 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại, 830.000 ha tôm, cá nuôi trồng bị thiệt hại kéo theo gần 180 tấn cá, tôm bị thiệt hại. Ngoài ra, trong năm 2000-2001, các trận lũ ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm chết 874 người, làm sập và hư hỏng 1.240.737 căn nhà, 422.032 ha ruộng lúa bị ngập và phá huỷ, 87.106 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại, 20.795 ha đầm nuôi tôm, cá bị ngập thiệt hại 3.453 tấn cá tôm. Thiệt hại nặng nề nhất do thiên tai gây ra phải kể đến các tỉnh Miền Trung chịu ảnh hưởng
  14. của cơn bão Chanchu và bão Xangsane năm 2006. Hai cơn bão này đổ bộ vào miền Trung làm 91 người chết, 349.348 ngôi nhà bị đổ và ngập, 5263 lớp học bị huỷ hoại, 21.548 ha lúa bị nhập và thiệt hại, 3.974 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập, 494 tấn cá tôm bị phá huỷ và 951 tàu thuyền bị chìm… Việc nghiên cứu các tác động của BĐKH ở các vùng ven biển miền Trung và hai Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long gần đây đã được khởi xướng với nhiều dự án nghiên cứu bắt đầu triển khai. Các dự án thích ứng với BĐKH chủ yếu được áp dụng tại Miền Trung, nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại do thiên tai mang đến. Hầu hết các hoạt động của dự án tập trung ở cấp địa phương và được gắn kết hoặc lồng ghép với những dự án hỗ trợ đang được triển khai của các nhà tài trợ và các Tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế dành cho các thực thể quốc gia và các cộng đồng về lĩnh vực sẵn sàng và ứng phó với hạn hán, lũ lụt và bão. Gần đây, Uỷ ban châu Âu hỗ trợ, khuyến khích việc Việt Nam áp dụng các nguyên tắc chống chịu bão đối với các nhà ở hiện nay của nhân dân các vùng có nguy cao chịu ảnh hưởng của thiên tai ở miền Trung. Việt Nam từ lâu đã có hệ thống và các biện pháp để ứng phó với thiên tai như bão lụt, hạn hán. Các hoạt động quản lý rủi ro thiên tai chủ yếu do Ban Chống lụt bão Trung ương (CCFSC) điều phối và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT làm trưởng ban. Các thành viên trong Ban gồm các bộ ngành liên quan, Cục chống lụt bão và quản lý đê điều, Trung tâm Quản lý thiên tai, Trung tâm Khí tượng thuỷ văn và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC). Đối tác giảm thiểu thiên tai (NDM-P) được xây dựng với sự tham gia của Chính phủ, các tổ chức NGO và các nhà tài trợ để khuyến khích đối thoại và thống nhất các cách thức hoạt động, hỗ trợ điều phối việc thực hiện Chiến lược quốc gia lần thứ hai và Kế hoạch hành động giảm thiểu và quản lý thiên tai. III. Những việc làm cấp thiết để ngăn ngừa và đối phó với sự biến đổi khí hậu: Cần lưu ý rằng các hiện tượng như đã nêu trên xảy ra còn có tác động của nhiều yếu tố, như lượng nước và phù sa của các lưu vực sông; hoạt động nâng, hạ của kiến tạo địa chất hiện đại; tác động bất thuận chiều của các công trình nhân tạo, v.v... Vì vậy, càng rất cần được chú trọng nghiên cứu, xem xét. Việt Nam cần làm gì để ứng phó với hiểm họa đang được báo động ? Rất nhiều việc có tầm vóc và quy mô to lớn vừa trước mắt, vừa lâu dài cần được tính đến. Trước hết, Việt Nam cần tham gia một cách chủ động và tích cực vào các chương trình do Liên hiệp quốc chủ trì về biến đổi khí hậu toàn cầu. Các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và quy hoạch, chiến lược phát triển cần được tổ chức và huy động tham gia một chương trình nghiên cứu cấp quốc gia. Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho chương trình này. Chương trình cần được kết nối với các chương trình quốc tế và khu vực để có thể tiếp nhận thành quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu có uy tín trên thế giới, tiếp nhận sự viện trợ, giúp đỡ quốc tế. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu thực tế và thực tiễn, Việt Nam có thể đóng góp vào vấn đề đang được các tổ chức quốc tế bàn luận. Các vị lãnh đạo cao cấp nước ta cần dành thời gian, chủ động tham gia các hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc chủ trì về vấn đề này. Việc tham gia của chúng ta trong thời gian qua rõ ràng
  15. là còn thụ động. Tôi cho rằng các nhà khoa học Việt Nam có thể và cần được tổ chức tham gia nghiên cứu vấn đề hệ trọng này. Việt Nam, một nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, nằm trong nhóm nước dễ bị tổn thương bởi các vấn đề môi trường do biến đổi khí hậu gây ra, như lũ lụt, hạn hán, bão ... Bên cạnh đó, với đường bờ biển dài, vấn đề mực nước biển dâng cao có thể làm mất 12,2% diện tích của lãnh thổ và đe dọa tới chỗ sinh sống của 17 triệu người. Chương trình quốc gia về biến động khí hậu toàn cầu tác động vào Việt Nam cần được tổ chức nghiên cứu, rà soát, kiểm định lại những kết quả nghiên cứu đã có từ trước tới nay, thực hiện một số đề tài nghiên cứu có mục tiêu hướng tới những kết luận khoa học tin cậy, dự báo được chiều hướng biến động cả trước mắt cũng như ở tầm trung hạn, dài hạn (được hiểu theo nghĩa tính bằng thập kỷ và thế kỷ). Các kết luận khoa học phải trở thành cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược và chính sách vì sự nghiệp phát triển bền vững cho tương lai đất nước, đặc biệt là quy hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật quốc gia, xây dựng các đô thị và vùng tập trung dân cư, các khu, cụm công nghiệp ... Trọng tâm của chương trình cần: tăng cường đầu tư, tổ chức các công tác điều tra cơ bản và mạng quan trắc sự biến đổi nhiệt độ, những biến động về quy luật vận động của khí quyển và thủy quyển và về vận động kiến tạo hiện tại ở Việt Nam, áp dụng những thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện nay. Dự án VinaSat sắp tới cũng phải tính đến yêu cầu này. Tích cực tham gia Nghị định thư Montreal về giảm khí thải CFCs, Nghị định thư Kyoto về giảm khí thải CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trước hết là phát huy kết quả và thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện chương trình quốc gia đã được triển khai về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, hạn chế tối đa tệ nạn cháy rừng, phục hồi nhanh chóng hệ sinh thái rừng ngập mặn đã bị tàn phá nặng nề. Đặc biệt, Việt Nam cần phải có một chiến lược đúng, đáp ứng nhu cầu gia tăng rất nhanh chóng về năng lượng, nhất là điện năng, phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Nêu cao yêu cầu tiết kiệm năng lượng, hạn chế đến mức cần thiết việc sử dụng nguyên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ, khí đốt), sớm có kế hoạch phát triển năng lượng sạch. Một mặt, chúng ta chủ động, tích cực thực hiện phần trách nhiệm quốc gia của mình, mặt khác chúng ta cũng tích cực lên tiếng đòi các nước phát triển thực hiện cam kết thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc và các Hiệp định, Nghị định thư quốc tế về bảo vệ môi trường Trái đất vì sự sống còn của nhân loại. Tổng kết, rút ra các kinh nghiệm thành công và chưa thành công của cha ông ta trong nhiều thế kỷ qua, được đẩy mạnh trong thời cận hiện đại trong việc ứng phó với các loại “thiên tai” thường xuyên xảy ra ở các vùng đồng bằng thấp, vùng ven biển; xây dựng mạng kênh mương rộng lớn phục vụ việc tưới và tiêu nước cho đồng bằng; gia cố hệ thống đê điều; xây dựng các công trình hồ thủy điện - thủy lợi điều tiết ở thượng nguồn; từng bước xây dựng tuyến đê biển từ Bắc vào Nam kết hợp xây dựng các cống điều tiết thoát lũ và ngăn mặn ở các cửa sông; xây dựng các công trình kè bờ chống sạt lở sông và biển; nạo vét dòng chảy cửa sông, luồng vào cảng; bơm thoát nước cưỡng bức đối với nạn úng, ngập sâu và ô nhiễm nặng tại các vùng đất thấp ở đồng bằng và ven biển. Đặc biệt, những hệ thống công trình có quy mô lớn, xây dựng bền vững lâu dài, như hệ thống công trình “chung sống với lũ” ở đồng bằng Cửu Long, tuyến đê biển Bắc-Nam, cần được hoạch định có căn cứ khoa học về tuyến, về nền móng, để những công việc được thực hiện ngày nay còn được tiếp
  16. nối thuận lợi cho nhiều thế hệ mai sau. Cần lưu ý rằng, các giải pháp như đã nêu trên không phải là không có những ý kiến khác nhau về mặt luận cứ khoa học. Những công việc đã làm cho thấy không phải chúng ta không có những kinh nghiệm nhất định trong việc ứng phó với tai biến do nước biển dâng. Nhưng đó là việc biển dâng tiệm tiến. Vấn đề của báo động toàn cầu hiện nay là có nhiều khả năng biển sẽ dâng nhanh hơn và không loại trừ đột biến lớn, đưa đến hiểm họa hay thảm họa lớn cho nhân loại. Quả thật, nhận thức và suy nghĩ của chúng ta về vấn đề này còn quá ít. Để kết thúc, tôi thấy cũng cần nhắc đến những kinh nghiệm lịch sử của nhân loại đã được các nhà nghiên cứu thế giới đề cập từ lâu. Vì sao những nền văn minh rực rỡ của nhân loại, như các nền văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập ở Trung Cận Đông - Bắc Phi, các nền văn minh Maya và Inca ở Trung và Nam Mỹ bị suy tàn, thậm chí biến mất một cách khó hiểu ? Nguyên nhân gốc rễ của các hiện tượng trên chắc chắn là hệ quả của sự biến đổi khí hậu lớn có tính toàn cầu, biểu hiện cụ thể ở từng khu vực, lãnh thổ. Cũng không phải không có lý khi gần đây xuất hiện các thông tin về việc Bộ Môi trường Nhật Bản cho biết sẽ cần hơn 64,5 tỷ USD để đối phó với mực nước biển dâng cao do băng tan ở hai cực. Phía Nhật Bản ước tính nếu mực nước biển tăng thêm 1 mét, 90% số bãi biển của nước này sẽ bị “nuốt chửng”, sản lượng lúa sẽ giảm 50% ... Các nguồn tin cũng cho biết Trung Quốc đang xem xét việc xây dựng hệ thống đê kiên cố dọc suốt bờ biển, một kế hoạch được coi là xây dựng một “Vạn lý trường thành mới”. Việt Nam là nước tham gia ký kết và tích cực thực hiện “Tuyên bố Thiên niên kỷ” của Liên hiệp quốc năm 2000, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường sống của hành tinh được nhấn mạnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X (tháng 4/2006) đặc biệt coi trọng yêu cầu phát triển nhanh, song phải bền vững, trong đó có yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái; Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X mới đây về chiến lược biển dài hạn cũng nhấn mạnh vấn đề bảo vệ môi trường gắn liền với khai thác nguồn lợi của biển. Rõ ràng vấn đề đặt ra vừa có yêu cầu bức xúc trước mắt, vừa có tầm quan trọng chiến lược lâu dài, cần có sự báo động và hành động trước khi quá muộn. Hậu quả, Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự biến đổi khí hậu (BÐKH) trái đất. Trong những năm tới, sự thay đổi về lượng mưa và giông bão, mực nước biển dâng cao thêm là nguyên nhân tác động trực tiếp tới vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Số trận lũ lụt tại các vùng đất trũng ven biển cũng tăng lên. Mưa lũ liên tiếp xảy ra làm cho hệ thống đê bao, đê ngăn mặn, đê kè sông, đê biển, kênh mương nội đồng bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình di tích lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Ngập úng trong thời gian dài sẽ làm cho các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ nhà vệ sinh và chuồng trại chăn nuôi chảy xuống các ao, hồ, sông, làm tăng lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước; các công trình cấp nước sạch tập trung hoặc hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp từ sông ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc xử lý nước sinh hoạt. Sự xâm nhập mặn của nước biển sẽ ảnh hưởng các hệ sinh thái, làm mất cân bằng môi trường sống của nhiều loại thủy sinh nước ngọt. Ðiều đó có thể dẫn đến diện tích rừng ngập mặn giảm, nguồn thức ăn thực vật và dinh dưỡng của các loài sinh vật sống ở sông, biển cũng giảm. Nhiệt độ của nước tăng lên kéo theo sự thay đổi phân tầng nhiệt độ theo chiều sâu cột nước, gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường sống thủy sinh. Hơn nữa, tăng nhiệt độ nước vùng
  17. ven bờ sẽ dẫn đến tăng lắng đọng các chất khoáng và hữu cơ, gây ảnh hưởng chuỗi thức ăn, giảm số lượng cũng như chất lượng các loài thủy sản. Tại những vùng khô hạn, bán khô hạn, sự thay đổi nhỏ của nhiệt độ và nhịp điệu mưa có thể ảnh hưởng lớn tới đa dạng sinh học (ÐDSH). Những vùng đất khô hạn sẽ phải chịu nhiều áp lực của sự chuyển đổi nông nghiệp, sự nhập nội của các loài xâm lấn, sự thay đổi chế độ cháy và ô nhiễm. Vì thế, BÐKH ở những vùng đất khô hạn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người và nền kinh tế. Trong hai năm 2004 - 2005, có tới 43% số hộ dân thuộc tỉnh Ninh Thuận thiếu nước ngọt sinh hoạt. Hiện có khoảng gần hai triệu người dân Ninh Thuận, Bình Thuận sống phụ thuộc trực tiếp vào những vùng đất khô hạn và bán khô hạn cho sinh kế hằng ngày của họ. Trong tình trạng BÐKH gia tăng, diện tích đất đang bị thoái hóa, hoang mạc hóa và bị nhiễm mặn ở những vùng đất khô hạn, bán khô hạn sẽ càng xảy ra nhanh hơn. BÐKH không chỉ ảnh hưởng nguồn nước, vệ sinh môi trường mà còn ảnh hưởng ÐDSH trong nông nghiệp. Chính sự BÐKH tác động mạnh đến sự phân bố, gia tăng tốc độ tuyệt chủng, làm thay đổi thời gian mùa phát triển của thực vật. ÐDSH góp phần hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai. Nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học, trong đó có con người.
nguon tai.lieu . vn