Xem mẫu

  1. THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ LIÊN HIỆP QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM 2.2. Chức năng, quyền hạn Là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hội đông Bảo an được thành lập nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Theo Điều 39 của Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có quyền quyết định đánh giá thực tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm lược, và sẽ khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cần được tiến hành phù hợp với các Điều 41 và 42, để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. Trong khi thực thi chức năng này, Hội đồng Bảo an được coi là hành động với tư cách thay mặt cho tất cả các thành viên Liên hợp quốc. Trên thực tế, những chức năng mà Hội đồng Bảo an được trao có thể được coi là để nhằm 3 mục tiêu: gìn giữ hoà bình, vãn hồi hoà bình và kiến tạo hoà bình. Trong khi các cơ quan khác của Liên hợp quốc chỉ có thể đưa ra các quyết định mang tính khuyến nghị đối với các chính phủ của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, các quyết định và nghị quyết của Hội đồng Bảo an, theo chương VII Hiến chương, khi đã được thông qua đều mang tính chất ràng buộc và tất cả các thành viên của Liên hợp quốc đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành. Những quyền hạn cụ thể giao cho Hội đồng Bảo an được quy định ở các chương VI, VII, XII của Hiến chương Liên hợp quốc, song những điều
  2. khoản quan trọng nhất có liên quan tới việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là việc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và sử dụng những biện pháp an ninh tập thể cưỡng chế, được quy định cụ thể và chi tiết nhất ở chương VI và VII. Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an có thể tiến hành điều tra bất cứ một tranh chấp nào hoặc bất cứ một tình thế nào có thể dẫn tới những xung đột quốc tế hoặc đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các phương thức cũng như nội dung cụ thể để giải quyết những xung đột đó. Những xung đột và những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế có thể do các nước thành viên Liên hợp quốc, Đại hội đồng hoặc Tổng thư ký Liên hợp quốc nêu ra trước Hội đồng Bảo an. Một nước không phải thành viên Liên hợp quốc cũng có thể đưa cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước Hội đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết, với điều kiện là nước đó phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo quy định của Hiến chương Liên hợp quốc. Theo Hiến chương, tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc phải cam kết cung ứng cho Hội đồng Bảo an, căn cứ theo những thoả thuận đặc biệt thông qua thương lượng đối với những đề xuất của Hội đồng Bảo an, những lực lượng vũ trang, những trợ giúp và các phương tiện cần thiết khác để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. 2.3. Cơ cấu Hội đồng Bảo an có các uỷ ban và cơ quan phụ trợ sau: 2.3.1. Các Uỷ ban thường trực: gồm Uỷ ban chuyên gia về các vấn đề thủ tục, Uỷ ban về các cuộc họp của Hội đồng Bảo an không diễn ra tại
  3. trụ sở Liên hợp quốc và Uỷ ban về việc kết nạp thành viên mới. Các Uỷ ban này đều có đại diện của các nước thành viên Hội đồng Bảo an. 2.3.2. Ban Tham mưu quân sự: bao gồm các Tổng chỉ huy quân đội (Chiefs of staff) của tất cả các nước thành viên hoăc đại diện của họ. Chức năng nhiệm vụ của Ban là tư vấn cho Hội đồng về tất cả các vấn đề liên quan đến các yêu cầu quân sự để bảo vệ và duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, việc sử dụng và chỉ huy các lực lượng đặt dưới sự chỉ đạo của Ban, kể cả các qui định về vũ trang, và giải trừ quân bị nếu có thể. 2.3.3. Uỷ ban chống khủng bố: Uỷ ban này được thành lập theo Nghị quyết 1373 (2001) về một số biện pháp chống lại các mối đe doạ đối với hoà bình và an ninh quốc tế của các hành động khủng bố, nhằm giám sát việc thực hiện nghị quyết này. Các nước thành viên Liên hợp quốc phải trình bản báo cáo về các bước tiến hành để thực hiện Nghị quyết 1373 lên Uỷ ban, lần đầu tiên trong vòng 90 ngày và các lần sau theo thời gian biểu của Uỷ ban. Uỷ ban gồm tất cả 15 thành viên của Hội đồng Bảo an. Uỷ ban thành lập 3 tiểu ban, mỗi tiểu ban do một Phó Chủ tịch Uỷ ban làm chủ tịch, để xem xét sơ bộ bản báo cáo của các nước thành viên. 2.3.4. Các Uỷ ban trừng phạt: hiện nay có 10 Uỷ ban trừng phạt đang hoạt động là: Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 751 (1992) về Xô-ma-li; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 918 (1994) về Ru-an-đa; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1132 (1997) về Xi-ê-ra Lê-ôn; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1267 (1999) về Al Qaida và Taliban; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1518 (2003) về I-rắc; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1521 (2003) về Li-bê-ri-a; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1533 (2004) về Cộng hoà Dân chủ Công-gô; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1572 (2004) về Bờ Biển Ngà; Uỷ ban trừng phạt thành lập
  4. theo nghị quyết 1591 (2005) về Xu-đăng; Uỷ ban trừng phạt thành lập theo nghị quyết 1636 (2005) về vụ ám sát cựu Thủ tướng Li-băng Rafiq Hariri. 2.3.5. Các hoạt động và lực lượng gìn giữ hoà bình: gồm Tổ chức giám sát ngừng bắn ở Trung Đông (UNTSO) (1948), Nhóm quan sát viên quân sự ở Ấn Độ và Pakistan (UNMOGIP) (1949), Lực lượng ở Síp (UNFICYP) (1964), Lực lượng quan sát viên không can dự (UNDOF) (1974), Lực lượng lâm thời ở Libăng (UNIFIL) (1978), Phái đoàn quan sát Irắc-Côét (UNIKOM) (1991)… 2.3.6. Các lực lượng chính trị và kiến tạo hoà bình: gồm Văn phòng chính trị ở Bougainville (UNPOB) (1998), Văn phòng kiến tạo hoà bình ở Cộng hoà Trung Phi (BONUCA) (1999), Lực lượng trợ giúp ở Ápghanixtan (UNAMA) (2002), Văn phòng đại diện đặc biệt của Tổng thư ký Liên hợp quốc về vấn đề Irắc (2003)… 2.3.7. Các Uỷ ban khác: gồm Uỷ ban đền bù Liên hợp quốc (UNCC) (1991), Uỷ ban giám sát, kiểm tra và thanh tra (UNMOVIC) (1999). 2.3.8. Các toà án quốc tế: * Toà án tội phạm quốc tế Ruanđa được thành lập năm 1994 theo Nghị quyết 955 của Hội đồng Bảo an, theo chương VII của Hiến chương để xử các cá nhân phạm tội diệt chủng và các tội ác chống loài người trên lãnh thổ Ruanđa và lãnh thổ các nước láng giềng trong năm 1994. * Toà án tội phạm quốc tế về Nam Tư cũ thành lập năm 1993 theo Nghị quyết 808 của Hội đồng Bảo an để xét xử các cá nhân chịu trách nhiệm cho các vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế gây ra trên lãnh thổ
  5. Nam Tư cũ từ 1991. 2.3.9. Các tổ chức khác: như Cơ quan chỉ huy của Liên hợp quốc tại bán đảo Triều Tiên (UNC) (1950) được thành lập theo Nghị quyết 85 (1950) của Hội đồng Bảo an. Cơ quan này yêu cầu tất cả các thành viên cung cấp lực lượng quân sự ở bán đảo Triều Tiên cho phép đặt các lực lượng này dưới quyền chỉ huy thống nhất của Mỹ. Các đơn vị chiến đấu được đưa đến từ 16 nước, phần lớn là phương Tây, ngoài ra có các nước đang phát triển như Côlombia, Êtiôpia, Philípin, Nam Phi, Thái Lan. 2.4. Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an phải được tổ chức một cách phù hợp để có thể hoạt động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình huống liên quan đến hoà bình và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời điểm nào. Hiện tại, hoạt động của Hội đồng Bảo an được tiến hành dựa trên Các qui tắc thủ tục tạm thời (gồm 61 qui tắc) được Hội đồng Bảo an thông qua và liên tục cập nhật tại các phiên họp. * Các phiên họp: Các hình thức họp của Hội đồng Bảo an bao gồm họp chính thức, họp kín và trao đổi không chính thức. Hội đồng Bảo an có thể triệu tập phiên họp bất thường (periodic meetings) theo yêu cầu của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc hoặc của Tổng thư ký Liên hợp quốc khi có những xung đột hoặc những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc tế. Một nước không phải thành viên Liên hợp quốc cũng có thể đưa cuộc tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước Hội đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết với điều kiện là nước đó phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh chấp theo qui định của Hiến chương Liên hợp quốc. Sau khi nhận được yêu cầu như vậy của
  6. các đối tượng trên, Chủ tịch Hội đồng Bảo an sẽ lập tức thông báo cho các nước uỷ viên tình hình trên và tiến hành các thủ tục khác để tổ chức cuộc họp của Hội đồng Bảo an để xem xét vấn đề. Ngoài những cuộc họp thuộc dạng trên, Hội đồng Bảo an còn tiến hành các cuộc họp trên cơ sở thường xuyên (continuous basis) nhằm có thể ứng phó được một cách nhanh chóng những biến chuyển của tình hình và để kiểm phối các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc trên cơ sở các báo cáo của Tổng thư ký Liên hợp quốc. Các cuộc họp của Hội đồng Bảo an có thể được tổ chức tại trụ sở Liên hợp quốc hoặc ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở mà Hội đồng xét thấy thuận tiện. * Mỗi uỷ viên Hội đồng Bảo an phải luôn có một đại diện tại Trụ sở Liên hợp quốc. Chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an được luân phiên hàng tháng giữa các nước uỷ viên theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Anh. * Tham gia các phiên họp: Ngoài các thành viên Hội đồng Bảo an, bất cứ thành viên nào của Liên hợp quốc, hay một quốc gia nào không phải thành viên Liên hợp quốc, nếu là đương sự trong vụ tranh chấp mà Hội đồng Bảo an đang xem xét, cũng được mời đến tham dự nhưng không có quyền biểu quyết trong những cuộc thảo luận liên quan đến vụ tranh chấp ấy. Hội đồng Bảo an ấn định những điều kiện mà Hội đồng xét thấy để cho một nước không phải thành viên Liên hợp quốc được tham gia các cuộc thảo luận ấy là hợp lý. Trong các phiên họp kín, chỉ có các nước uỷ viên và các nước mà Hội đồng Bảo an thấy trực tiếp có liên quan hoặc cần thiết phải tham dự mới được tham dự theo thoả thuận chung của thành viên Hội đồng Bảo an. * Kết quả phiên họp: Trong tất cả các phiên họp như vậy, Hội đồng Bảo
  7. an có thể thông qua những nghị quyết, khuyến nghị, hoặc đơn thuần chỉ là tuyên bố của chủ tịch. Hàng năm, Hội đồng Bảo an còn phải đệ trình lên Đại hội đồng Liên hợp quốc một bản báo cáo về công việc của mình để thành viên Hội đồng xem xét, thảo luận và đưa ra những khuyến nghị. Để tăng cường tính hữu hiệu và sự rõ ràng trong hoạt động của mình theo yêu cầu của đại đa số thành viên Liên hợp quốc, hiện nay Hội đồng Bảo an đang có những thay đổi trong phương thức hoạt động so với cách làm việc cũ. Hội đồng Bảo an hiện nay đang nỗ lực giảm các cuộc họp kín và trao đổi không chính thức, thông báo chi tiết chương trình nghị sự các cuộc họp của mình trong các nhật trình của Liên hợp quốc. Ngoài ra, thay vì tiến hành các cuộc họp chính thức, Hội đồng Bảo an hiện nay thường thiết lập các nhóm làm việc toàn thể (Working Groups of the Whole) ở mức chuyên viên ở các cấp nhằm soạn thảo các dự thảo nghị quyết và tuyên bố của chủ tịch. * Bỏ phiếu: Mỗi thành viên Hội đồng Bảo an có một phiếu. Các quyết định liên quan đến thủ tục được thông qua với số phiếu thuận của ít nhất là 9 trong số 15 thành viên bất kể là thường trực hay không thường trực. Các quyết định về các vấn đề thực chất chỉ được thông qua khi có ít nhất 9 phiếu thuận, trong đó theo Hiến chương phải gồm các phiếu tán thành (concurring vote) của tất cả các nước thành viên thường trực. Điều này có nghĩa là khi Hội đồng Bảo an thông qua các quyết định có liên quan đến việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, thì cần phải có được sự nhất trí của các nước uỷ viên thường trực, nếu một trong năm nước này bỏ phiếu chống, quyết định sẽ không được thông qua, dù có đạt được đủ 9 phiếu thuận. Đây được gọi là nguyên tắc nhất trí hay quyền phủ quyết của các nước uỷ viên thường trực. Trong thực tế áp dụng qui tắc này, việc một nước uỷ viên thường trực bỏ phiếu trắng, hoặc không tham gia bỏ phiếu, không bị coi là phủ quyết. Bất cứ quốc gia nào, dù là thành
  8. viên thường trực hay không thường trực, cũng không được phép tham gia bỏ phiếu về các quyết định có liên quan tới các biện pháp giải quyết tranh chấp mà quốc gia đó là một thành viên tham gia. * Quyền phủ quyết (veto): Là việc một nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an có khả năng ngăn cản việc thông qua một nghị quyết không liên quan đến thủ tục bằng một phiếu chống của mình kể cả khi tất cả các nước thành viên khác, thường trực và không thường trực, bỏ phiếu tán thành. Nói cách khác, đây là việc thực hiện nguyên tắc nhất trí giữa năm nước lớn uỷ viên thường trực. Trong suốt quá trình hoạt động của mình với tư cách uỷ viên thường trực, tất cả năm nước này đều đã áp dụng quyền phủ quyết của mình trong đó hai nước Mỹ và Liên Xô (cũ) là những nước sử dụng nhiều nhất. Trên thực tế, không nhất thiết nghị quyết có mang tính thực chất (có liên quan đến thủ tục) nào được thông qua cũng cần phải có đủ năm phiếu thuận của năm uỷ viên thường trực. Nếu như một nước uỷ viên thường trực không ủng hộ hoặc không muốn biểu thị sự ủng hộ của mình đối với một nghị quyết, đồng thời cũng không muốn ngăn cản việc thông qua nghị quyết, nước đó có thể bỏ phiếu trắng hoặc không tham gia bỏ phiếu, hành động này không bị coi là phủ quyết và nghị quyết vẫn được thông qua. Thông thường, các nước uỷ viên Hội đồng Bảo an cố tìm cách dàn xếp trước để nghị quyết có thể được thông qua. Tuy nhiên, đã không ít lần, nhiều nước, cho dù biết trước dự thảo nghị quyết của mình sẽ bị phủ quyết nhưng vẫn đưa ra bỏ phiếu nhằm gây sức ép chính trị. 3.1 Cơ sở pháp lý và tôn chỉ mục đích Hội Đồng Kinh tế Xã Hội Liên hợp quốc (Economic and Social Council - ECOSOC) là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, một trong những mục tiêu chính của Tổ chức này là: "Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những
  9. vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (Chương I, điều 1, điểm 3). Cụ thể, Liên hợp quốc sẽ thúc đẩy (Chương IX, điều 55, điểm a,b,c): - Nâng cao mức sống, đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội - Giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề liên quan, và sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và - Tôn trọng và thực hiện quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo Trách nhiệm thực hiện những chức năng trên trước hết thuộc về Đại hội đồng Liên hợp quốc. Theo điều 60 của Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC được đặt dưới quyền của Đại hội đồng và được Đại hội đồng giao trách nhiệm trực tiếp thực hiện các chức năng về kinh tế, xã hội của Liên hợp quốc. 3.2 Thành viên: Số thành viên ban đầu của ECOSOC là 18. Từ tháng 8/1965 tăng lên 27 và từ tháng 10/1973 cho đến nay là 54 nước thành viên Liên hợp quốc do Đại hội đồng bầu. Các ghế được phân theo khu vực địa lý : 14 nước Châu Phi, 11 nước Châu Á, 6 nước Đông Âu, 10 nước Mỹ La tinh và Caribe, 13 nước Tây Âu và các nước khác. Hàng năm Đại hội đồng Liên hợp quốc phải bầu lại 18 nước thành viên ECOSOC với nhiệm kỳ 3 năm, thông thường bắt đầu từ 1/1 đến 31/12. Nước thành viên vừa hết nhiệm kỳ có thể tái ứng cử. 3.3 Chức năng và quyền hạn: ECOSOC là cơ quan soạn thảo và điều phối các chính sách thúc đẩy hợp
  10. tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhân quyền của Liên hợp quốc. Phần lớn các Nghị quyết và Quyết định của Đại hội đồng Liên hợp quốc về kinh tế, xã hội, nhân quyền, nhân đạo đều bắt nguồn từ các khuyến nghị do ECOSOC trình lên. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC có những chức năng và quyền hạn chính sau: - Thực hiện hoặc đề xuất những nghiên cứu, điều tra và làm báo cáo về các vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, và giáo dục, y tế và những vấn đề liên quan khác, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các vấn đề đó đối với Đại hội đồng, các nước thành viên Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn hữu quan; - ECOSOC có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy tôn trọng và thực hiện quyền con người; - ECOSOC soạn thảo các văn kiện và điều ước quốc tế về những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình để trình Đại hội đồng và có thể triệu tập các Hội nghị quốc tế về những vấn đề đó, theo các thủ tục của Liên hợp quốc; - ECOSOC có thể phối hợp hoạt động với những tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc, thông qua tham khảo và khuyến nghị với các tổ chức đó, cũng như bằng cách khuyến nghị với Đại hội đồng và các thành viên Liên hợp quốc; - ECOSOC có quyền tiến hành mọi biện pháp thích hợp để các tổ chức chuyên môn phải báo cáo đều đặn cho mình những công việc của họ. Hội đồng có thể thỏa thuận với các thành viên Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn về việc các thành viên và các tổ chức này báo cáo về những biện pháp đã được áp dụng trong việc thi hành những khuyến nghị của Hội đồng và trong việc thi hành những khuyến nghị của Đại hội đồng về những vấn đề thuộc thẩm quyền của ECOSOC; - Với sự đồng ý của Đại hội đồng, ECOSOC có thể làm những việc do các thành viên Liên hợp quốc, hoặc các tổ chức chuyên môn yêu cầu;
  11. - ECOSOC sẽ mời bất cứ nước thành viên Liên hợp quốc nào tham dự, không bỏ phiếu, các cuộc thảo luân của Hội đồng về vấn đề liên quan đến nước thành viên đó; - ECOSOC có thể thu xếp cho đại diện các tổ chức chuyên môn Liên hợp quốc tham dự, không bỏ phiếu, các cuộc thảo luận của Hội đồng và các cuộc thảo luận của các Ủy ban do Hội đồng lập ra, và cho các đại diện của Hội đồng tham gia các cuộc thảo luận của các tổ chức chuyên môn Liên hợp quốc; - ECOSOC có thể có những thu xếp thích hợp để tham khảo các tổ chức phi chính phủ liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng, thu xếp qua các tổ chức quốc tế và khi thích hợp, có thể qua các tổ chức quốc gia của nước thành viên sau khi đã tham khảo nước thành viên đó; - ECOSOC có nghĩa vụ thực hiện những chức năng khác được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc có thể được Đại hội đồng giao cho. 3.4 Hoạt động và thủ tục ra quyết định: Mỗi nước thành viên ECOSOC có một phiếu. ECOSOC thông qua quyết định theo đa số những thành viên có mặt tham gia bỏ phiếu. ECOSOC có 2 phiên họp trong một năm: phiên họp về nội dung (substantive session) được tổ chức trong vòng 4 tuần vào khoảng tháng 7, luân phiên ở New York và Geneva, và trước đó là phiên họp về tổ chức (organizational session) diễn ra trong 4 ngày thường vào đầu tháng 2 và được họp lại vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm. Trong phiên họp về nội dung của ECOSOC có 4 ngày họp cấp Bộ trưởng của các nước thành viên Hội đồng để xem xét những chủ đề lớn về kinh tế và/hoặc xã hội; 1 ngày đối thoại về chính sách liên quan những vấn đề quan trọng của kinh tế thế giới và hợp tác kinh tế quốc tế, những người đứng đầu các tổ chức tài chính, thương mại quốc tế của LHQ có thể được mời tham dự cuộc đối thoại này. Sau phần họp cấp cao
  12. (high level segment) là phần họp về phối hợp (coordination segment), phần họp về hoạt động tác nghiệp (operational activities segment), và phần họp chung (general segment) để xem xét những vấn đề kinh tế, xã hội và những vấn đề liên quan. Phiên họp về tổ chức thường bầu ra Chủ tịch và các Phó chủ tịch ECOSOC, cũng như bầu bổ sung thành viên của các cơ quan chức năng của Hội đồng. Việc bầu cử, bổ nhiệm, đề cử sẽ diễn ra tại phiên họp về tổ chức được nối lại (resumed session) thường vào tháng 4, đầu tháng 5 hàng năm. Theo Hiến chương Liên hợp quốc, ECOSOC sẽ thông qua những quy định riêng về thủ tục, kể cả cách thức chọn Chủ tịch. Hội đồng sẽ họp khi cần phù hợp với những quy định của Hội đồng, kể cả triệu tập họp theo yêu cầu của đa số các nước thành viên Hội đồng. 3.5 Các cơ quan trực thuộc ECOSOC: Điều 68 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định rằng: "ECOSOC sẽ thành lập những Ủy ban trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và thúc đẩy nhân quyền, và các Ủy ban khác theo nhu cầu để thực hiện chức năng của Hội đồng". Có 5 loại cơ quan trực thuộc ECOSOC: - Ủy ban chức năng (Funtional Commission); - Ủy ban khu vực (Regional Commission); - Ủy ban thường trực (Standing Committee); - Cơ quan chuyên môn (Expert Bodies) và - Ủy ban hành chính điều phối (Administrative Committee on Coordination). Mỗi Ủy ban có thể thành lập các tiểu ban (Subcommission) hoặc nhóm làm việc (Working Group) Các Ủy ban chức năng (Funtional Commission):
  13. + Ủy ban Phát triển Xã hội (Commission for Social Development - CSD): Ủy ban có chức năng tư vấn cho ECOSOC về những chính sách xã hội chung, và đặc biệt về tất cả những vấn đề xã hội mà các tổ chức chuyên môn liên Chính phủ không đề cập đến. UB còn có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiện tiếp kết quả Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội họp tại Copenhagen 1995. Hiện Uỷ ban có 46 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 4 năm. Uỷ ban họp hàng năm ở New York khoảng 8 ngày. + Ủy ban về ngăn ngừa tội phạm và tư pháp hình sự (Commission on Crime prevention and Criminal Justice - CCPCJ): Ủy ban có trụ sở tại Vienna gồm 40 nước thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 3 năm, họp hàng năm thường ở Vienna. Ủy ban có chức năng: - Hướng dẫn về chính sách cho các nước thành viên Liên hợp quốc trong lĩnh vực phòng ngừa tội phạm và tư pháp hình sự; - Theo dõi và kiểm điểm việc thực hiện các chương trình Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm; - Giúp phối hợp các hoạt động của các viện khu vực và liên khu vực về phòng ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội; - Huy động sự ủng hộ của các nước thành viên; - Chuẩn bị cuộc họp của Liên hợp quốc về ngăn ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội. + Ủy ban nhân quyền (Commission on Human Rights - CHR): Ủy ban có trụ sở tại Geneva, hiện gồm 53 nước thành viên do ECOSOC bầu
  14. nhiệm kỳ 3 năm, họp hàng năm tại Geneva. Uỷ ban có các chức năng chủ yếu như xây dựng các văn kiện và tài liệu pháp lý quy định về các quyền con người và các quyền tự do cơ bản; đưa ra những khuyến nghị và báo cáo về các vấn đề liên quan đến việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, các quyền phụ nữ, trẻ em, quyền của các nhóm thiểu số về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, hay tôn giáo...; xây dựng các dự thảo tuyên bố hoặc công ước quốc tế về các quyền con người. Để giúp việc cho mình, Ủy ban nhân quyền đã thiết lập các cơ chế nhân quyền như các nhóm làm việc (working groups) hoặc cử các báo cáo viên đặc biệt theo chủ đề (giam giữ độc đoán, tự do tôn giáo, tự do chính kiến, chống tra tấn...) và về tình hình nhân quyền ở các nước cụ thể. Việc lập ra các cơ chế nêu trên phải được ECOSOC và Đại hội đồng chấp thuận. Năm 2005, Hội nghị Thượng đỉnh LHQ đã quyết định thành lập Hội đồng Nhân quyền để thay thế Ủy ban Nhân quyền. + Ủy ban về Ma túy (Commission on Narcotic Drugs - CND): có trụ sở tại Vienna, hiện gồm 53 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ từ 3 đến 4 năm, họp hàng năm tại Vienna. Ủy ban có chức năng tư vấn cho Hội đồng và xây dựng dự thảo hiệp định quốc tế về các vấn đề liên quan tới kiểm soát ma túy, theo dõi việc thực hiện chương trình hành động toàn cầu và hướng dẫn về chính sách trong lĩnh vực kiểm soát ma tuý. Ủy ban là cơ quan điều hành Chương trình kiểm soát ma tuý của Liên hợp quốc (UNDCP), xây dựng và thông qua các chương trình dự án của UNDCP. Văn phòng Ma tuý và Tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) có chức năng là ban thư ký cho Uỷ ban. + Ủy ban Dân số và Phát triển (Commission on Population and Development - CPD): gồm 47 nước thành viên do ECOSOC bầu nhiệm
  15. kỳ 4 năm, họp hàng năm ở New York. UB có nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn ECOSOC về những thay đổi về dân số, kể cả việc di cư và ảnh hưởng của nó tới các điều kiện kinh tế, xã hội; theo dõi, kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện chương trình hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. + Ủy ban Khoa học, Công nghệ vì Phát triển (Commssion on Science and Technology for Development - CSTD): gồm 53 nước do ECOSOC bầu, họp hai năm một lần. + Ủy ban về Phát triển bền vững (Commission on Sustainable Development - CSD): gồm 53 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 3 năm. Ủy ban có chức năng chủ yếu theo dõi việc thực hiện Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển tổ chức tại Riođờ Gianerô, Braxin (21-27/6/1997). + Ủy ban về địa vị phụ nữ (Commission on the Status of Women - CSW): hiện gồm 45 nước thành viên nhiệm kỳ 4 năm, có trụ sở ở New York, họp hàng năm. Uỷ ban có nhiệm vụ chuẩn bị các báo cáo và đưa ra các khuyến nghị cho Hội đồng về các vấn đề liên quan đến việc cải thiện các quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và giáo dục; Ủy ban đóng vai trò chính theo dõi việc thực hiện Chương trình hành động của Hội nghị thế giới lần thứ 4 về Phụ nữ (Bejing 1995). + Ủy ban Thống kê (Statistical Commission - SC): hiện gồm 24 nước thành viên nhiệm kỳ 4 năm, họp 2 năm một lần tại New York. Ủy ban có nhiệm vụ giúp Hội đồng thúc đẩy phát triển thống kê quốc gia, phối hợp công tác thống kê của các cơ quan chuyên môn và nâng cấp công tác thống kê của Ban thư ký Liên hợp quốc; tư vấn cho các cơ quan Liên hợp quốc về các vấn đề chung liên quan tới việc thu thập, phân tích và
  16. phổ biến những thông tin thống kê, thúc đẩy cải tiến phương pháp chung làm thống kê. Các Ủy ban Thường trực (Standing Committees): + Ủy ban Chương trình và Điều phối (Committee for Programme and Co-ordination - CPC): hiện có 34 thành viên nhiệm kỳ 3 năm. Uỷ ban có nhiệm vụ xem xét các chương trình của Liên hợp quốc trong kế hoạch trung hạn, kiến nghị những chương trình ưu tiên, chỉ đạo Ban thư ký cụ thể hóa những luật lệ thành chương trình, kiến nghị bỏ những văn bản chồng chéo, xây dựng các thủ tục thẩm định, và giúp Hội đồng trong thực thi chức năng điều phối. + Ủy ban các Tổ chức phi Chính phủ (Committee on Non-Governmental Organisations - CNGO): gồm 19 thành viên do ECOSOC bầu nhiệm kỳ 4 năm, có nhiệm vụ chính là thẩm tra, xem xét và cấp quy chế tư vấn của ECOSOC cho các NGOs có đơn yêu cầu, giám sát hoạt động của các NGOs có quy chế tư vấn theo quy định của Hội đồng, đưa ra những khuyến nghị về những gì các tổ chức NGO phải trình ECOSOC. Các cơ quan chuyên môn (Expert Bodies): - Nhóm Adhoc các chuyên gia hợp tác quốc tế về các vấn đề thuế (Ad hoc Group of Experts on International Cooperation in Tax Matters); - Ủy ban về chính sách phát triển (Committee for Development Policy); - Ủy ban chuyên gia về vận chuyển hàng nguy hiểm (Committee of Expert on the Transport of Dangerous Good and on the Globally Harmonized System of Classification and Labelling of Chemicals);
  17. - Ủy ban về quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (Committee on Economic, Social and Cultural rights); - Ủy ban chuyên gia về Hành chính công ( Committee of Experts on Public Administration); - Diễn đàn Thường trực về các vấn đề Người Bản xứ (Permanent forum on Indigenous Issues); - Nhóm chuyên gia Liên hợp quốc về Địa danh (UN Group of Experts on Geographical Names). Ủy ban Hành chính Điều phối (Administrative Committee on Coordination - ACC) Thành phần gồm Tổng thư ký Liên hợp quốc và các Giám đốc các cơ quan chuyên môn của LHQ và IAEA, họp 2 lần một năm. Ủy ban có chức năng phối hợp các chương trình của LHQ, thúc đẩy sự hợp tác trong hệ thống Liên hợp quốc nhằm mục tiêu chung của tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc. Trực thuộc và báo cáo trực tiếp với Ủy ban có 5 tiểu ban là: Tiểu ban tổ chức (Organizational Committee), Tiểu ban tư vấn về những vấn đề hành chính (Consultative Committee on Administrative Questions), Tiểu ban tư vấn về chương trình và các vấn đề tác nghiệp (Consultative Committee on Programme and Operational Questions), Tiểu ban liên ngành về phát triển bền vững (Inter-Agency Committee on Sustainable Development) và Tiểu ban liên ngành về phụ nữ và bình đẳng giới (Inter-Agency Committee on Women and Gender Equality). Các Ủy ban khu vực (Regional Commissions) gồm: Ủy ban Kinh tế Châu Phi-ECA, Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á-Thái bình Dương - ESCAP, Ủy ban Kinh tế Châu Âu - ECE, Ủy ban Kinh tế Mỹ la tinh và
  18. vùng Caribe - ECLAC và Ủy ban Kinh tế Xã hội Tây Á - ESCWA.
nguon tai.lieu . vn