Xem mẫu
- THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ LIÊN HIỆP
QUỐC VÀ QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
I. SỰ HÌNH THÀNH CỦA LIÊN HỢP QUỐC
1. Thành lập:
Tổ chức Liên hợp quốc đã chính thức được thành lập ngày 24/10/1945
với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập. Tên "Liên hợp quốc" do Tổng
thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sử dụng trong Tuyên ngôn của Liên
hợp quốc (01/01/1942).
Trước năm 1945 Trước sự yếu kém của Hội Quốc Liên và nguy cơ xảy
ra chiến tranh thế giới thứ ba, và bảo đảm một thế cân bằng mới trong
quan hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng
minh là Anh, Mỹ và Liên Xô đã tiến hành hai hội nghị Thượng đỉnh
quan trọng (Tê-hê-ran 11/1943 và I-an-ta 02/1945). Nội dung trao đổi
chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và
tương lai của Liên hợp quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức
Liên hợp quốc tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các
nước đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến
tranh. Tại I-an-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số
- điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức Liên hợp quốc: chấp nhận
ghế thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút),
dành quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo
an, Liên hợp quốc có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến
Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc nhất trí thoả
thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh (bồi
thường chiến tranh của Đức; xác định lại biên giới các quốc gia vv..).
Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc
được thành lập và trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của
50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô (Mỹ) tháng 4/1945
và dự thảo Hiến chương của Liên hợp quốc. Sự ra đời của Liên hợp quốc
là một sự kiện quan trọng: Liên hợp quốc đã thay thế Hội Quốc Liên
(hoạt động kém hiệu quả), trở thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với
mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hoà bình và trật tự thế giới bền
vững.
2. Tôn chỉ và mục đích:
LHQ hoạt động theo các mục tiêu và nguyên tắc qui định trong Hiến
chương Liên hợp quốc. Điều 1 của Hiến chương nêu rõ bốn (04) mục
tiêu cơ bản của Liên hợp quốc là:
- (1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế;
- - (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng
nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân
tộc tự quyết;
- (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn
trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người,
không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo;
- (4) Xây dựng Liên hợp quốc làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế
vì các mục tiêu chung.
Và 6 nguyên tắc hoạt động chủ yếu của Liên hợp quốc là:
+ (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia;
+ (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia;
+ (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế;
+ (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước;
- + (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; và
+ (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình.
Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của Liên hợp quốc mang tính
bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan
tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng
chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với
sự tăng vọt về số lượng thành viên, Liên hợp quốc tập trung vào các vấn
đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây Liên hợp quốc ngày càng
quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của
Liên hợp quốc trong gần 60 năm qua cho thấy trọng tâm chính của Liên
hợp quốc là duy trì hòa bình an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát
triển của các quốc gia thành viên.
Đặc điểm bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một
nhà nước siêu quốc gia. Liên hợp quốc là tổ chức đa phương toàn cầu
đầu tiên có những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc
phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ
quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia.
Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, Liên hợp quốc không được can
- thiệp vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả
các quốc gia tham gia Liên hợp quốc theo nguyên tắc bình đẳng chủ
quyền. Nguyên tắc này được phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham
gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại Đại Hội Đồng Liên hợp
quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu).
Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh
sự dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực
tế này được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc - cơ quan chấp hành có thực quyền nhất của Liên hợp quốc và
đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc là duy trì hoà bình
và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của Hội đồng Bảo an mới có tính
cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của
Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng
Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo
sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự tham gia của cho các
cường quốc, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan duy nhất dành
cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết,
quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào
hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc
tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế.
So với Hội Quốc Liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất
- toàn cầu (thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu
lục) và đặc biệt là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó
hẹp vào vấn đề duy trì hoà bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy
hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân
Liên hợp quốc bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức
chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và
quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến
nông nghiệp, văn hoá, khoa học–kỹ thuật...
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống
chính trị quốc tế trong gần 60 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh
dấu sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một
bước ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa
phương nói chung. Tuy nhiên, sự ra đời của Liên hợp quốc và bản thân
Hiến chương Liên hợp quốc tất nhiên chưa đủ để bảo đảm sự bình đẳng
hoàn toàn và triệt để giữa các quốc gia lớn nhỏ. Sự đóng góp của Liên
hợp quốc đối với hoà bình an ninh quốc tế trong hơn 60 năm qua là rất
đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều vấn đề, nhiều sự kiện,
Liên hợp quốc không thể hiện được vai trò của mình hoặc có thể nói
Liên hợp quốc chưa làm tròn sứ mệnh của mình. Các siêu cường vẫn có
vai trò lớn và nhiều khi giữ vai trò quyết định trong quá trình ra quyết
định của Liên hợp quốc, đặc biệt là cơ cấu và cơ chế hoạt động của Hội
đồng Bảo an, Hiến chương Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn
- của Liên hợp quốc.
II. CƠ CẤU VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA LIÊN HỢP
QUỐC
Liên hợp quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an,
Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban
Thư ký.
1. Đại Hội đồng Liên hợp quốc:
Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập
trong chương IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng
quyền hạn, bầu cử và thủ tục. Những qui định khác liên quan đến Đại
hội đồng còn được nêu ở một số điều khoản khác.
1.1. Thành viên
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên hợp quốc. Từ 51
thành viên ban đầu (những nướsc có đại diện dự Hội nghị tại Xan
Phranxixcô hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên hợp quốc ngày 1/1/1942,
và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương Liên hợp quốc), số
thành viên Liên hợp quốc cho đến nay là 192. Khác với Hội đồng Bảo
- an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không
phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1
phiếu bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi
bầu vào các cơ quan cơ chế Liên hợp quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu
vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, Tây Âu và các
nước khác.
1.2. Chức năng quyền hạn
1.2.1. Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải
trừ quân bị và các qui định về quân bị;
1.2.2. Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế,
trừ trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại
Hội đồng Bảo an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;
1.2.3. Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến
chương có tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc
Liên hợp quốc;
- 1.2.4. Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế,
phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con
người và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục và y tế;
1.2.5. Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể
làm phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
1.2.6. Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
và các cơ quan khác thuộc Liên hợp quốc;
1.2.7. Xem xét, thông qua ngân sách Liên hợp quốc và phân bổ đóng
góp của các nước thành viên;
1.2.8. Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc, các thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội, các thành viên được bầu
vào Hội đồng Quản thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà
án quốc tế, và bầu Tổng thư ký Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo
khuyến nghị của Hội đồng Bảo an.
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua
tại Đại hội đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội
đồng Bảo an, vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không
- thể có hành động trong một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá
vỡ hoà bình hoặc hành động xâm lược. Đại hội đồng được quyền xem
xét vấn đề ngay lập tức để có khuyến nghị với các nước thành viên thực
hiện các biện pháp tập thể, trong trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm
lược, bao gồm biện pháp sử dụng vũ lực khi cần thiết, để duy trì và khôi
phục hoà bình và an ninh quốc tế.
1.3. Các khoá họp và Cơ cấu:
1.3.1 Các khoá họp: Có các loại là khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt
thường kỳ và khoá họp đặc biệt khẩn cấp của Đại hội đồng Liên hợp
quốc.
* Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng
quyết định khoá họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu
vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3 của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít
nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy định buổi thảo luận chung
của Đại hội đồng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc
khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Các quy định
này được áp dụng từ khóa họp thường kỳ thứ 58 của Đại hội đồng Liên
hợp quốc. Các khoá họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của Liên hợp quốc ở
Niu Oóc, trừ khi tại khoá họp trước đó Đại hội đồng quyết định hoặc đa
số các thành viên Liên hợp quốc yêu cầu tổ chức họp ở nơi khác. Mỗi
- khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên đề
cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến
hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp tham gia thường ở cấp
cao như Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng,
Thứ trưởng ngoại giao... Các nước thành viên bày tỏ lập trường quan
điểm về những vấn đề quốc tế quan tâm. Sau đó, 6 Uỷ ban của Đại hội
đồng bắt đầu nhóm họp song song với Đại hội đồng. Phần lớn các đề
mục được thảo luận tại Uỷ ban trước khi đưa ra Đại hội đồng, một số
được thảo luận thẳng tại Đại hội đồng.
nguon tai.lieu . vn