Xem mẫu

TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011


THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HUYỀN QUANG
(*)
NGUYỄN THỊ DIỆU HIỀN

TÓM TẮT
Huyền Quang là một thiền sư đồng thời là một thi nhân. Thiên nhiên trong thơ Huyền
Quang là cái đẹp, là hiện thân của toàn chân, toàn mĩ.
Thiên nhiên là cách để ông bày tỏ quan niệm và trình bày một cách gián tiếp triết lí
nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang còn là hiện thân của tâm hồn, cách sống
của thi nhân. Qua thiên nhiên, Huyền Quang - hình tượng tác giả hiện lên thật rõ trong
một tâm thế sáng với tinh thần tỉnh thức của người tu Thiền và một tâm hồn thi nhân
rộng mở.
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang trong sáng, tĩnh lặng, mang màu thiền sâu sắc.

ABSTRACT
Huyen Quang is a Zen Buddhist and poet. Nature in his poems is a symbol of uttermost
truth and perfect beauty.
Through nature Huyen Quang expressed his views and presented the philosophy of
Buddhism indirectly. In his poems, nature is also a symbol of poets’ souls and ways of
living. Again through nature, Huyen Quang appeared vividly with a pure state of mind of a
Zen Buddhist and a soul of a great poet.
Nature in Huyen Quang’s poems is pure, tranquil, and meditative.

1. Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của niệm của Thiền gia, thiên nhiên là nơi giúp
thi ca. Với các Thiền sư, thiên nhiên không con người tìm lại bản ngã, cái nôi nuôi
chỉ là tình yêu mà còn là lối quay về, là nơi dưỡng tự tính của mình. Con người do vô
tìm lại tự tính của mình. Thiền sư Thích minh, tham dục nên quên cái chân bản ngã,
Giác Toàn đã rất có cơ sở khi cho rằng: chỉ khi trở về với thiên nhiên, đối diện với
“Một nét đẹp có thể nói là “bất khả tư vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, con
nghì” hay tinh thần nhân bản sâu sắc tuyệt người mới phát hiện, quay lại với chính
vời của các Thiền sư thời Lí - Trần là sự mình. Thiền sư Thiền Lão đời thứ sáu,
sống con người được tồn tại trong sự tồn dòng Vô Ngôn Thông, khoảng niên hiệu
tại vĩnh hằng của cảnh sắc thiên nhiên” (1). Thông Thụy (1034-1038) đã trả lời những
Lối sống thanh đạm, giản dị, hài hoà nên câu thăm hỏi của vua Lí Thái Tông bằng
việc gần gũi thiên nhiên trở thành lẽ sống hình ảnh của thiên nhiên: - Hoà thượng trụ
của họ. (*) trì núi này được bao lâu? Sư đáp: Đản tri
Thiên nhiên còn là đối tượng thẩm mĩ kim nhật nguyệt/ Thuỳ thức cựu xuân thu
cho nguồn cảm hứng Thiền. Trong quan (Chỉ biết ngày tháng này/ Ai rành xuân thu
ngày trước). Hay: - Hằng ngày Hoà thượng
(*) làm gì? Sư trả lời: Thuý trúc hoàng hoa phi
ThS, Trường THPT Thiên Hộ Dương, Cao Lãnh,
Đồng Tháp. ngoại cảnh/ Bạch vân minh nguyệt lộ toàn

48
chân (Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác/ lấy pháp hiệu là Huyền Quang, sau đó theo
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân)(2). hầu Pháp Loa. Sư bị tai tiếng vì man kế
Chỉ biết ngày tháng hiện tại, việc đã qua Điểm Bích, cuộc lễ chẩn tế của sư đã xoá
không màng nghĩ đến vì giây phút hiện tại sạch mối nghi ngờ.
rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Câu trả lời Một điều khác biệt trong thơ của
của sư cho thấy một tâm thức luôn tỉnh Thiền sư Huyền Quang so với các Thiền sư
thức trước thực tại. Mọi việc đều “như thị” thời Lí - Trần là thơ ông không giáo điều,
đúng quy luật của nó. Đáp lại cho câu hỏi, không thuyết lí khô khan về đạo. Thiền lí
Hoà thượng dẫn dắt nhà vua thể nhập vào và các Thiền ngữ như Phật, tâm, vô
thiên nhiên, trong sự hoà nhập đó, con thường, vô ngã, sắc, không, hữu, vô… của
người sẽ nhận biết không còn sự khác biệt nhà Phật ít thấy xuất hiện trong thơ ông.
giữa trúc biếc hoa vàng… Thiên nhiên làm Tuy nhiên, chất Thiền lại đậm sâu hơn
đẹp tâm hồn con người và cái đẹp ấy lan trong tinh thần. Nó hoà vào những cách
toả soi chiếu rực sáng cái bên ngoài. cảm, cách nghĩ về cuộc đời, thiên nhiên,
Không còn biên giới giữa tâm và cảnh, con người. Có lẽ một nhà sư như Huyền
giữa “ta” và “vật”, giữa nội tâm và ngoại Quang khi làm thơ, mượn câu thơ để ghi
cảnh, thiên nhiên và con người tồn tại ở nhận lại những trải nghiệm, suy tư của
trạng thái như nhiên “vật ngã lưỡng vong”, mình trên bước đường tu tập, qua những
con người nhận ra cái tâm giác ngộ bản thể bài thơ đó người đọc không thể không
của mình. Thiên nhiên cũng là nơi Thiền nhận ra tâm hồn ông, tấm lòng ông với
gia chuyển tải những quan niệm về triết lí thiên nhiên, với con người.
nhà Phật. Đó là các vấn đề về sinh - tử, sắc Thiên nhiên đẹp, thanh thoát, hữu tình
- không, về bản thể, chân như… trong thơ Huyền Quang là hiện thân của
Huyền Quang là một Thiền sư - thi toàn chân, toàn mĩ. Hai mươi ba bài thơ
nhân, thơ của sư không chỉ là trí tuệ, tâm trong tập thơ Ngọc tiên tập(3) đều hướng về
hồn của ngài mà còn là những rung động thiên nhiên và con người hoà điệu cùng
tinh tế của một hồn thơ trước thiên nhiên… thiên nhiên. Có khi thi nhân miêu tả thiên
2. Huyền Quang (玄光, 1254-1334), nhiên trực tiếp, có khi trong những cảnh
tên thật là Lí Đạo Tái (李道載), quê ở làng ngộ đau xót của con người ông đề thơ như
Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thuở nhỏ sư một sự cảm thông chia sẻ (Ai phù lỗ, Tặng
dung nhan kì lạ, thông minh, học một biết sĩ đồ tử đệ), trong trường hợp này thiên
mười, đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên) lúc 21 nhiên hiện diện như một chứng nhân: Kỉ
tuổi. Sau khi thi đậu, nhà vua định gả công gia sầu đối kim tiêu nguyệt (Đêm nay mấy
chúa nhưng sư từ chối. Sư được bổ làm kẻ sầu trăng nhỉ?). Thiên nhiên cũng là
quan ở Hàn Lâm Viện và phụng mạng đón cách để ông bày tỏ quan niệm: Hà nhân
sứ Trung Hoa. Một hôm, sư theo vua Anh tiểu ẩn lâm tuyền hạ/ Nhất tháp tùng
Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện phong trà nhất bôi (Lui về rừng suối hơn
Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng không/ Chè thơm một chén, gió thông một
kinh chợt tỉnh ngộ duyên trước. Sư dâng giường). Dù miêu tả ở khía cạnh nào, thiên
biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Năm nhiên - khách thể thẩm mĩ trong thơ Huyền
1305 sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Quang vẫn là hiện thân của cái đẹp và thi
Nghiêm, theo làm thị giả cho Điều Ngự, nhân - chủ thể thẩm mĩ say ngắm, chiếm

49
lĩnh cái đẹp đó. Phải thực sự rung động Am sát trời xanh lạnh,
trước cảnh sắc bàng bạc của mùa thu trên Cửa mở trên từng mây
sông, ông mới có những câu thơ đẹp đến Động rồng trời sáng bạch
nao lòng: “Tiểu đỉnh thừa phong phiếm Khe hổ lớp băng dầy
diểu mang/ Sơn thanh thủy lục hựu thu Chẳng có gì phải lo nghĩ, mọi ưu phiền
quang” (Mênh mông theo gió, con thuyền lo toan vứt bỏ, chỉ còn lại lão tăng già:
nhỏ/ Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây) Vụng dại mưu nào có
hay “Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương” Già nua gậy một cây
(Trăng lặn lòng sông, sương trắng đầy)… Rừng tre chim chóc lắm
Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng của Quá nửa bạn cùng thầy
thi nhân. Thu trên sông trong cái nhìn của (Yên Tử sơn am cư)
Huyền Quang là hình ảnh tiếp nối cảnh non
Thiên nhiên cũng là cách nhà sư trình
xanh, nước biếc, ánh trời thu; là thời gian
bày một cách gián tiếp triết lí nhà Phật.
nối thời gian Sương phủ, trăng chìm dưới
Ngọ thụy là bài thơ không chỉ miêu tả cảnh
bóng sâu... Mọi cái liên tiến, sóng đôi làm
rừng sau cơn mưa “Vũ quá khê sơn tịnh,
không gian vừa tĩnh vừa động. Thi nhân
Phong lâm nhất mộng lương” (Mưa tạnh
vừa say trong cái đẹp của thiên nhiên vừa
núi khe sạch, Rừng phong một giấc mơ).
giật mình thảng thốt trước bước đi của thời
Bài thơ hàm chứa triết lí Thiền một cách
gian. Cảnh làm nên tứ thơ. Cảnh, tình hoà
kín đáo:
quyện khiến nguồn thi liệu dào dạt trong
Phản quan trần thế giới
lòng nhà thơ lên tiếng. Bài thơ gợi nhớ
Khai nhản tuý mang mang
“Chiều thu ở Vũ Lân” của Trần Nhân
(Ngoảnh nhìn đời bụi bặm
Tông:
Mở mắt dường say sưa)
Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành
Nhìn lại cõi đời bụi bặm, mở mắt mà
Nhất mạch tà dương thủy ngoại minh
dường ngủ say. Câu thơ chứa đầy sự mâu
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
thuẫn nhưng là sự nghịch lí cần thiết để
Thấp vân như mộng viễn chung thanh
diễn tả một công án Thiền. Mê lầm và tỉnh
(Dưới dòng khe suối bóng cầu soi
thức. Như thế nào gọi là mê, thế nào là
Lóng lánh chiều lên rực ánh tươi
tỉnh? Mở mắt mà vẫn ngủ say chỉ có thể là
Núi vắng nhẹ rơi ngàn lá đỏ
đối với người trong cõi trần. Nhìn ra bên
Chuông ngân hoà quyện khói mây trôi)
ngoài nên còn ta, còn người, còn thấy được
Cảnh vật tươi tắn, sinh động hiện lên
- thua, hơn - thiệt, còn đầy phân biệt, ngã
thuần khiết trong cái nhìn của Thiền sư.
chấp. Phiền toái, đau khổ, sân si cũng từ
Mọi vật đều lung linh, hư ảo “bóng cầu
đây. Đó chẳng phải là mê sao? Tỉnh chẳng
dưới suối, lấp lánh nắng chiều, lá nhẹ rơi
phải là hành trình tìm kiếm chính mình mà
nơi núi vắng, chuông ngân, mây trôi”. Mọi
các Thiền sư cả một đời lao tâm vì nó?
vật theo đúng tiến trình quy luật của nó.
Phản quan tự kỉ bổn tùng tha đắc (soi sáng
Trước cảnh huyền diệu đó lẽ nào lòng
lại chính mình là phận sự gốc, không từ
người không rung động?
bên ngoài mà được) đó chính là kim chỉ
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang
nam của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
thật bình lặng yên ả như tâm hồn Thiền sư,
Quay lại chính mình để nhận biết đó cũng
trong chốn đó người tu ung dung tự tại:

50
là cách lí giải, chuyển tải tư tưởng, triết lí có gì phải bận lòng, cuộc đời vốn thế!
về đạo của ngài Huyền Quang. Trong bài Diên Hựu tự (Chùa Diên
Hình ảnh chiếc thuyền con cô độc Hựu), Huyền Quang - hình tượng tác giả
trong con nước chiều đang lên, không gian hiện lên thật rõ trong một tâm thế sáng với
bốn bề mênh mang với nước sông liền trời tinh thần tỉnh thức của người tu Thiền.
(Chu trung), sương phủ trăng chìm dưới Kristnamurti một Thiền gia người Ấn đã
bóng sâu (Phiếm chu)… làm hiện lên một từng nói: “Khi người quan sát, đối tượng
không gian khoáng đạt và lặng lẽ, trống được quan sát là một, tức bạn đã ở trong
không và bình dị, biểu trưng cho tâm hồn Thiền”. Nhất thể là trạng thái giác ngộ của
Thiền gia bát ngát vô bờ bến. Con người người tu Thiền, phải trái đều như nhau,
giao cảm, hoà nhập vào không gian, nhập không phân biệt nên không bị chi phối,
tâm mình làm một với tâm bản thể chân không vướng bận, mọi cái đều sáng tỏ như
như của vũ trụ, của đất trời vạn vật. ánh trăng trong đêm thu:
Nhà đá (Thạch thất) là nơi ở của người Thượng phương thu dạ nhất chung lan,
tu với cuộc sống đạm bạc đơn sơ, có lúc Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt. Đâu (Đêm thu chùa thoảng tiếng hương
phải lúc nào thiên nhiên cũng là bạn hữu tàn,
tâm tình cùng nhà thơ - Thiền sư. Thiên Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan)
nhiên đôi khi như chính nó nghiệt ngã, lạnh Trăng sáng, tinh thần sáng, phút giây
lẽo đến vô cùng: Nhất lĩnh xối y kinh tuế diệu ngộ bừng cháy:
hàn (Tấm áo lông thô lạnh tháng ngày) Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
nhưng người tu vẫn thản nhiên và cuộc Ma cung Phật quốc hảo sinh quan
sống vẫn tiếp diễn như nó vốn có. Người tu (Thấu hiểu thị phi đều thế cả,
vẫn ung dung tự tại toạ thiền: Sư ở trên Dầu ma, dầu Phật chốn nào hơn)
giường Thiền, kinh trên án; Lò tàn củi lụi, Quay về thiên nhiên là ước vọng của
mặt trời lên đã ba cây sào... Thời gian trôi, sư, là niềm khao khát khôn nguôi:
mọi vật đều thay đổi. Triết lí đạo Phật ẩn Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
hiện đằng sau câu thơ một cách kín đáo: lẽ Điệp chướng trùng san vạn vạn tầng
vô thường. Sư nhìn thấy quy luật cuộc sống (Chi bằng theo bạn về non quách
đang tiếp diễn, đằng sau sự tàn lụi kia là sự Núi dựng non che vạn vạn tầng)
sống, sức sống vươn lên mạnh mẽ. Không Dù là bậc Thiền sư, mọi chuyện đều
có gì mất đi, chỉ có sự chuyển biến từ trạng gác hẳn ngoài tai, nhưng con người thi
thái này sang trạng thái khác. Con người nhân trong sư vẫn đâu đó vọng vang tiếng
cũng vậy. Sự chết có hay không hay là sự lòng, nỗi buồn, nỗi ngao ngán thế sự đau
chấm dứt ở hình thức này biến chuyển sang đáu tâm can:
một trạng thái khác trong một hình hài Đức bạc thường tàm kế tổ đăng
khác (Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng từng Không giao Hàn Thập khởi oan tăng
nhận thấy thế). Cho nên trong sự tàn lụi, sư Huyền Quang thấy thẹn với mình vì
vẫn thấy sự sống lan toả. Hình ảnh mặt trời không làm tròn nhiệm vụ đối với Thiền
đang lên là xu thế tất yếu của sự vận động, phái. Ở tuổi 77, con người thường muốn
của quy luật cuộc sống. Vậy cứ an nhiên gác bỏ hết mọi việc, huống chi với sư - một
bình thản Tăng tại thiền sàng kinh trên án, người mà Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt

51
còn lưu luyến chi chuyện được mất, hơn tuỳ duyên trong giáo lí nhà Phật được
thua... chuyển tải qua cái nhìn tuệ giác của Thiền
3. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang sư: đoá hoa cúc tuỳ duyên. Gặp duyên thì
là cảnh sắc của sông nước, của trăng, gió mọc, gặp duyên thì nở. Vì lẽ đó sư đã từng
thu và nổi bật nhất là hình ảnh hoa cúc. Có ngao ngán trước sự vô tâm, không hiểu
lẽ đó là loài hoa nhà sư yêu nhất. Chùm thơ được vẻ huyền diệu nơi hoa của con người:
về Hoa cúc là hiện thân của tâm hồn, cách Vẻ đẹp tinh khôi người chẳng hiểu
sống của thi nhân trước thiên nhiên. Hoa Bẻ về cài tóc, đáng cười không ?
cúc thường được xem là biểu tượng của Cái đẹp của hoa cúc không chỉ là cái
mùa thu. Theo quan niệm người xưa “Xuân đẹp của thanh tịnh, của sự vi diệu. Trời
sinh, hạ trưởng, đông liễm, thu tàn”, mỗi xuân, hoa xuân nở khắp nơi. Hoa đua chen
mùa mang một nhiệm vụ của nó. Mùa thu khoe sắc khiến tâm hồn người không thể
báo hiệu cho sự tàn phai, sự chấm dứt của không xao động trước vẻ đẹp của muôn
quá trình sống của hoa lá cỏ cây, mùa của hoa:
lá rụng Vườn thu tàn tạ, ngàn hoa rụng… Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Nhưng kì diệu thay, đoá hoa cúc vẫn vàng Ái diễm liên hương diệc tự thì
ươm trong thu rét mướt Riêng cúc đông li (Xuân dến trăm hoa đua sắc thắm
vẫn đượm màu. Muôn hoa đều rã rời bởi Một thời hương sắc kém chi nhau)
mùa thu chỉ còn riêng mình “hoa cúc vẫn “Ái diễm liên hương” chuyện yêu hoa
cười cợt với gió đông”. Phải chăng sự tồn bởi hoa đẹp, bởi hương hoa làm say đắm
tại thách thức với thời gian của hoa cúc lòng người là chuyện của thế gian, của
làm nên cốt cách riêng biệt cho chính nó? người phàm. Nhưng kiếp hoa vốn mong
Huyền Quang chẳng đã từng nói: So với manh, sớm nở tối tàn. Đoá hoa vô thường
muôn hoa cúc đứng đầu đó sao? Lấy hoa trong vườn xuân rồi cũng phai tàn Biên
cúc gửi gắm tâm tư, bày tỏ quan niệm cho giới phồn hoa toàn trụy địa (Vườn thu tàn
thấy sự tinh tế và trí tuệ của Thiền sư - thi tạ ngàn hoa rụng). Cái đẹp cùng hương hoa
nhân Huyền Quang. Vẻ rực rỡ tươi sáng mất đi làm lòng tiếc thương buồn bã. Nếu
của hoa cúc trong tiết trời thu gió rét, giữa hiểu được đó là chuyện thường hằng của
sự tàn úa của muôn hoa khác làm nên nét đất trời thì tất cả vẻ đẹp kia chỉ là giả
riêng của loài hoa bình dị này. Vì yêu nên tưởng. Nhưng lạ lùng thay, diệu kì biết bao
hoa cúc trong ông là mối bận bịu: đoá hoa cúc vẫn đượm màu giữa ngàn hoa
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn tàn úa. Trong cái giả tưởng, sắc tướng hiện
Thi biều thực vị cúc hoa mang hữu rõ ràng. Hình tượng hoa cúc là hiện
(Sầu thu, tuổi tác ngâm chưa được thân cho cái chân toàn mĩ, toàn bích, cái
Thơ rượu vì hoa bận đến nhau) chân đó không dễ gì nhận ra, cần có con
Hoa cúc trong cái nhìn của Thiền sư là mắt trí huệ mới nhìn thấu đáo. Hoa cúc VI
đoá hoa của sự tuỳ duyên nhậm vận, của là bài thơ về thiên nhiên đậm chất Thiền,
triết lí nhà Phật: “Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng trong đó lẽ “sắc - không” của tư tưởng Phật
hoa” (Vườn cũ nơi nơi đã nở hoa vàng). giáo được sư Huyền Quang gửi gắm kín
“Tuỳ xứ” nơi nào loài hoa này cũng có thể đáo sâu sắc.
mọc được, có thể sống và trổ hoa. Từ đặc Tinh thần hợp nhất, tự do, tự tại của
điểm này khiến người ta cảm nhận đến sự người tu Thiền được soi sáng bởi thiên

52
nhiên. Vô ngã, vô úy cũng là đây. Con Tâm hồn thơ bàng bạc cùng khắp
người hoà nhập với thiên nhiên, với đất không gian, thời gian, cảnh vật và thiên
trời, với vũ trụ: nhiên. Dường như thi nhân phủ định mọi
Hoa tại trung đình, nhân tại lâu, cái, dửng dưng đến độ Xuân vô chủ tích thi
Phần hương độc toạ tự vong ưu. vô liệu nhưng trong tận cùng tiềm thức,
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh, một khao khát không nguôi, thôi thúc cháy
Hoa hướng quần phương xuất nhất bỏng Sầu tuyệt đông phong kỉ thụ hoa.
đầu Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang
(Hoa ở trước sân người trên lầu, trong sáng và mang đậm chất Thiền sâu
Đốt hương ngồi lặng bỗng quên sầu. sắc. Những bài thơ về thiên nhiên của
Hồn nhiên, người vật không tranh Huyền Quang như đưa ta vào một khu
cạnh, vườn Thiền uyên nguyên, tĩnh lặng. Bao
So với muôn hoa cúc đứng đầu) nhiêu thế kỉ đã qua, Bách tuế quang âm
(Hoa cúc V) nhiển chỉ trung (Ngày tháng, trăm năm một
Cái bản ngã trở thành đại ngã. Con thoáng nhanh) đất trời vẫn lồng lộng, thiên
người vượt qua cái hữu hạn đến với cái vô nhiên vẫn ngát xanh và con người không
hạn, đến bên kia bờ giác. Thứ Bảo Khánh thôi say đắm trước nó… Thiên nhiên trong
tự bích gian đề (Hoạ bài thơ đề trên vách thơ Huyền Quang vẫn lưu luyến vấn vương
chùa Bảo Khánh) là sự hoá thân vào thiên tâm tư ta. Tình yêu của Huyền Quang với
nhiên của thi nhân Huyền Quang: thiên nhiên là bất diệt...
Khói nhạt đồng hoang quê lắm vẻ
Lầu nam quán bắc xế vừng hồng
Thơ không thi liệu, xuân không chủ
Mấy cội hoa sầu nhớ gió đông


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Giác Toàn (2010), Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lí – Trần, Nxb
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), (1998), Thơ văn Lí - Trần, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, tập II.
3. Trần Thị Băng Thanh, (chủ biên), (2001), Huyền Quang - Cuộc đời, Thơ và Đạo, Nxb
TP. Hồ Chí Minh.




53
nguon tai.lieu . vn