Xem mẫu
- THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA TRUNG
HOA THỜI KỲ TRUNG ĐẠI
1.2.4.2. Một số trường phái tư tưởng tiêu biểu
a. Nho gia
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu,
người sáng lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc,
Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai
xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng
- Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và
một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung
Dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các
kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung
Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị -
đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó
được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan
hệ nền tảng của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha
- con, chồng - vợ (gọi là Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên
dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ
thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng
- chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến,
một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của
Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự
trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm
trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại
đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như
của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội
lý tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã
hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo
đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực
gốc là "Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung,
Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải
quyết những vấn đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học
thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản
tính con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan
điểm về vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo
ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện).
- Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh
ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia
(dòng Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về
đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có
thể giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan
niệm đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp
giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những
mâu thuẫn. Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương
thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận
động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có nói gì
đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương
Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm
không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật
chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho
rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên
- mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của ông. Ông
nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng
là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao có thể cải được
mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu để trở thành
con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng
Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn
mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát
triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức
luận” (tri thức do đâu mà có). Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng
trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là
ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con
người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu
khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ
ngu. Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không
phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý
nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ;
phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn
chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài cổ”, coi thường tri
thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn
đề cốt lõi trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản
- nhất trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí,
dũng...cùng với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã hội như “nhân
trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”...
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học
của mình. Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống
con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh
mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là
nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là
nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu
thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử
là những phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và
cả thể chế pháp luật Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính,
luật lệ, hình pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù
kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những
nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa
xã hội và nhân văn sâu sắc.
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ
cương. Để làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính
danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên ); “Chính
- danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đángcủa người ấy, trên
dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy
trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử, muốn trị
nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính thì
lời nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công;
sự việc không thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không
hưng thịnh thì hình phạt không đúng; hình phạt không đúng thì dân
không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Xuất phát từ tình hình loạn
lạc của xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu, Khổng Tử đã nêu lên thuyết
“chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo
vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua
theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân
biệt đẳng cấp xuất thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng
dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự”
(Luận ngữ, Tử Lộ). Việc ông mở trường dạy học chính là nhằm mục
đích đào tạo ra những người có tài, đức tham gia vào công cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm
phục vụ mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình
phạt để trị dân vì làm như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục.
Theo ông, làm chính trị mà dùng đức cảm hóa người thì giống như sao
- Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác đều chầu đến.
*Tóm lại:
So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của
giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong
kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và
hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung đại: Hán, Đường, Tống,
Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại nhà Hán và nhà
Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư
(thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời
Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến
hành theo hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết
học của Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ
lợi ích thống trị của giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm
nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản và biện chứng của Nho gia cổ đại.
Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các quan điểm về xã hội cũng
được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ Tam cương,
Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
- Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ
sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ
hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của
Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành
của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự kết hợp với cả tư tưởng triết
học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết học của Nho gia
với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán và ít
nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức
nhuần nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
b. Đạo gia
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học
thuyết của ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn
thiện và phát triển theo hai hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng
triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ yếu qua Đạo đức kinh và Nam
hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng
biện chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận
của Đạo gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- - "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về
với cội nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không
thể tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện
của Đạo. Bởi vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn
tại.
"Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo
pháp tự nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái
quát cao về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong
tính chỉnh thể thống nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan
niệm về "Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục"
(cân bằng và quay trở lại cái ban đầu).
- Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện
tồn tại của nhau, trong cái này đã có cái kia.
- Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch
nên Đạo gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương
thức giải quyết mâu thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề
cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn, coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy
triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi
không phải là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa
là hành động theo bản tính tự nhiên của "Đạo".
c. Mặc gia
Phái Mặc gia do Mặc Tử, tức Mặc Địch (khoảng từ 479 -381 tr.CN)
sáng lập thời Xuân Thu. Sang thời Chiến Quốc dã phát triển thành phái
Hậu Mặc. Đây là một trong ba học thuyết lớn nhất đương thời (Nho -
Đạo - Mặc).
Tư tưởng triết học trung tâm của Mặc gia thể hiện ở quan niệm về "Phi
thiên mệnh". Theo quan niệm này thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu...không
phải là do định mệnh của Trời mà là do người. Nếu người ta nỗ lực làm
việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói. Đây là quan
niệm khác với quan niệm Thiên mệnh có tính chất thần bí của Nho giáo
dòng Khổng - Mạnh.
nguon tai.lieu . vn