Xem mẫu

Viện Nghiên Cứu Phát Triển, Paris
Viện Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh
Trung Tâm Dân Số, Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ HÀ NỘI :
DÂN SỐ VÀ DI CHUYỂN NỘI THỊ
Patrick Gubry, IRD
Bernard Lortic, IRD
Gilles Grenèche, INSEE
Lê Văn Thành, VKT
Lê Thị Hương, VKT
Trần Thị Thanh Thủy, VKT
Nguyễn Thị Thiềng, TTDS
Phạm Thùy Hương, TTDS
Vũ Hoàng Ngân, TTDS
Nguyễn Thế Chính, ĐHKTQD

ISTED, GEMDEV
Chương trình nghiên cứu đô thị vì sự phát triển (PRUD)
Dự án PRUD số 45
Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội, Vùng Ile-de-France
Hội thảo « Hà Nội thành phố đặc thù và những lực chọn cho phát triển »
Hà Nội, 12-14 tháng 11 năm 2002

2
Từ khi thực hiện các biện pháp tự do hóa kinh tế theo chính sách đổi mới vào năm
1986, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, hai đô thị lớn nhất Việt Nam, đã bước vào giai đoạn
phát triển đô thị mạnh mẽ. Hiện nay, việc phát triển đô thị chủ yếu do làn sóng di dân từ nông
thôn ra thành thị vì mức tăng trưởng kinh tế cao ở thành thị, cộng với sự khác biệt nông thônthành thị ngày càng lớn và việc quản lý hộ khẩu không còn chặt chẽ. Hơn nữa, tỷ lệ dân số ở
nông thôn hiện nay vẫn cao (hơn 75% dân số, theo điều tra dân số năm 1999), điều này cho
phép chúng ta tiên lượng rằng quá trình tăng trưởng dân số đô thị sẽ còn tiếp tục diễn ra trong
nhiều năm tới. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đang trở thành những siêu đô thị, tuy có
khác biệt giữa quá trình của hai nơi này. Trong bối cảnh đó, sự tái cấu trúc nhà ở và dân cư đô
thị diễn ra ngày càng mạnh mẽ, do giá nhà đất tăng cao ở trung tâm thành phố, do có nhiều dự
án phát triển đô thị và do sự xuất hiện các khu công nghiệp mới và do tiến trình phân tầng xã
hội. Hiện tượng di dân phổ biến trong lòng thành phố làm thay đổi không gian sống và dẫn
đến những chuyển dịch tạm thời của người dân. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề về hạ tầng kỹ
thuật và phương tiện giao thông đô thị.
Ở đây, chúng tôi chỉ giới thiệu những nét nổi bật, và thường là những nét đặc thù liên
quan đến dân số và hiện tượng di dân trong thành phố tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Chúng tôi cũng xin trình bày một số kết quả đạt được trong quá trình chuẩn bị cho cuộc điều
tra các hộ gia đình về những chuyển dịch trong thành phố (dự định tiến hành vào tháng 2 và
tháng 3 năm 2003). Những dữ liệu thu thập được còn ở dạng thô nhưng sẽ là cơ sở của nhiều
báo cáo khoa học. Nhiều bảng số liệu thống kê chủ yếu rút ra từ cuộc điều tra dân số năm
1999 được trình bày trong phần phụ lục sẽ cung cấp các dữ liệu cần thiết về tình hình dân số
cho các nghiên cứu về thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội.
Việc xác định dân số đô thị
Địa giới hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội bao gồm cả một vùng nông
thôn rộng lớn ở ngoại ô thành phố, mà trước kia là nhằm bảo đảm việc cung cấp lương thực
cho các thành phố này, hạn chế mua lương thực từ các tỉnh khác đồng thời hạn chế các làn
sóng di dân. Nhưng quá trình tăng trưởng đô thị làm mục tiêu này ngày càng khó thực hiện và
hiện nay hai đô thị này đang phải mua rất nhiều thực phẩm từ vùng châu thổ lân cận và điều
đó lại tạo ra mạng lưới giao thương giữa các tỉnh thành trong nước và với thế giới. Các công
trình nghiên cứu về quá trình đô thị hóa tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội vì vậy cần phải
dựa trên một đánh giá chính xác về dân số đô thị.
Các dữ liệu từ cuộc điều tra dân số đã xác định dân số đô thị theo đơn vị hành chính
một cách đơn giản là lấy tổng dân số của các quận (đô thị) cộng với dân số các thị trấn các
huyện (nông thôn). Tuy nhiên, do việc xây dựng nhà ở lan rộng về mặt địa lý, nhiều quận mới
đã được thành lập vào năm 1997 (5 quận ở thành phố Hồ Chí Minh : quận 2, 9, 12, quận Thủ
Đức ; 3 quận ở Hà Nội : Tây Hồ, Đống Đa, Cầu Giấy) (xem bản đồ hành chính ở phần phụ
lục). Hiện tại, các quận mới này bao gồm một vùng đô thị đang mở rộng giáp ranh với các
quận nội thành cũ, và một vùng nông thôn bên ngoài đang giảm dần diện tích. Sự chênh lệch
giữa dân số đô thị tính theo đơn vị hành chính và dân số đô thị trên thực tế lớn hơn hẳn tại
thành phố Hồ Chí Minh so với Hà Nội.
Theo các số liệu thống kê hành chính của cuộc điều tra dân số năm 1999, dân số thành
phố Hồ Chí Minh là 5,0 triệu người (trong đó có 4,2 triệu dân cư thành thị) và dân số Hà Nội
là 2,7 triệu người (trong đó có 1,5 triệu dân cư thành thị) (xem bảng 1a và 1b).

3
Có hai phương pháp đã được áp dụng (hoặc đang được áp dụng) nhằm xác định chính
xác dân số đô thị thay cho cách xác định đơn giản bằng đơn vị hành chính :
1. Phép nội suy từ mật độ dân số của quận, với giả thiết rằng có sự tương quan giữa mật
độ dân số và tỷ lệ dân số đô thị ; mật độ trên 10 000 dân tương ứng với tỷ lệ đô thị hóa
100% và mật độ dưới 500 dân tương ứng với tỷlệ đô thị hóa là 0% (Lê Thị Hương,
2000 ; Gubry và Lê Thị Hương, 2002). Từ phương pháp này, người ta tính ra được
dân số đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh là 3,7 triệu. Tuy nhiên phương pháp này
không áp dụng cho Hà Nội, nơi các quận mới đã có mật độ dân số rất cao.
2. Phân tích việc mở rộng diện tích xây dựng qua hình ảnh vệ tinh (hiện đang tiến hành).
Việc phân tích này cho phép phân biệt các phường (thành thị) so với các xã (nông
thôn) (phường và xã là đơn vị hành chính ngay sau đơn vị quận) trong các quận đô thị
hay “bán đô thị” mới, từ đó nhận biết giới hạn giữa thành thị và nông thôn. Với
phương pháp này, chúng ta có thể có số liệu về dân số đô thị chính xác hơn số liệu thu
thập được qua cách tính tổng dân số các quận và các huyện.
Mật độ dân số
Mật độ dân số tính theo quận là tính trên một đơn vị quá lớn nên chỉ có thể phân tích
sơ lược. Vì vậy, chúng tôi đã sử dụng các số liệu tính theo phường xã, rút ra từ cuộc điều tra
dân số năm 1999 ( bảng 2a và 2b, hình 1a và 1b, hình 2a và 2b).
Dĩ nhiên, chúng ta đều nhận thấy rằng mật độ dân số giảm dần từ trung tâm thành phố
ra vùng nông thôn ngoại thành. Mật độ dân số tại một số phường ngay tại trung tâm thành phố
thuộc loại cao nhất thế giới :
- mật độ phường 1 quận 3 thành phố Hồ Chí Minh là 115.797 người/km2 (1.158
dân/ha). Quận 3 có 5 phường có mật độ trên 100.000 người/km2.
- mật độ phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là 92.100 người/km2.

4

Hình 1a : Thành Phố Hồ Chí Minh. Bản đồ mật độ dân số tính theo quận
tại khu trung tâm và tính theo phường/xã tại vùng ngoại vi (người/km²)

5

Hình 2a : Thành Phố Hồ Chí Minh. Bản đồ mật độ dân số tính theo phường/xã
tại khu trung tâm (người/km²)

nguon tai.lieu . vn